TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

TỔ THỨ BA PHÁI TRÚC LÂM

THƠ PHÚ CÒN SÓT LẠI (tt)

7. XUÂN NHẬT TỨC SỰ

Âm:    Nhị bát giai nhân thích tú trì,     

            Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.

            Khả liên vô hạn thương xuân ý,        

            Tận tại đình châm bất ngữ thì.

Dịch: TỨC CẢNH NGÀY XUÂN

            Thêu gấm thưa tay dáng mỹ nhân,

            Líu lo oanh hót, khóm hoa gần.

            Đáng thương vô hạn, thương xuân ý,

            Chỉ tại dừng kim, chẳng mở lời.

Giảng:

Bài thơ này bị nhiều người phê bình là một Thiền sư lại làm bài thơ quá dồi dào tình cảm.

Nhị bát giai nhân thích tú trì. Nhị bát là hai lần tám tức là mười sáu. Cô gái đẹp mười sáu tuổi ngồi thêu nên nói thêu gấm thưa tay dáng mỹ nhân.

Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly. Hoàng ly là chim oanh. Tử kinh là hoa tử kinh. Líu lo oanh hót khóm hoa gần. Một mỹ nhân đang thêu gấm, ngoài kia chim hoàng oanh hót dưới một khóm hoa tử kinh nở. Thật cảnh đẹp làm sao!  

Khả liên vô hạn thương xuân ý. Đáng thương vô hạn, thương xuân ý. Rất là thương, thương ý xuân, thương ở điểm nào?

Tận tại đình châm bất ngữ thì: Chỉ tại dừng kim chẳng mở lời. Người đọc thấy Ngài thương cô gái đang thêu quá. Nhưng không ngờ câu cuối: Chỉ ở chỗ dừng kim không còn thêu và không nói. Thương rất là thương chỗ đó. Nghĩa là sao? Chúng ta nhớ Ni sư Diệu Nhân có bài thơ:

            Mê chi cầu Phật,

            Hoặc chi cầu thiền,   

            Thiền Phật bất cầu,

            Uổng khẩu vô ngôn.

Nghĩa là khi Thiền Phật không còn cầu nữa thì “uổng khẩu vô ngôn” là không còn lời nói, tức là đến chỗ cứu kính.

Bài thơ trên, về sau, khi tra khảo lại có người nói rằng nó giống bài thơ của một Thiền sư đời Tống ở Trung Hoa. Nhưng trong nhà thiền chúng ta có điểm đặc biệt là của ai cũng mặc, khi mình dùng thì thành của mình nên nói mỗi lần nhắc lại là mỗi lần mới. Thế nên khi Ngài dùng lại bài thơ là tâm trạng của Ngài, chớ không phải của người xưa nữa. Tâm trạng này như thế nào? Ngài diễn tả người đẹp, cảnh đẹp và lòng mình thương dạt dào, nhưng thương là thương điểm nào? Thương chỗ dừng kim, thương chỗ không mở lời. Trong kinh Nam Tông có giảng Niết-bàn là không đan dệt. Chúng ta cứ đan dệt nghiệp càng ngày càng dầy. Còn Niết-bàn là dừng hết sự đan dệt tức là dừng nghiệp. Nói dừng kim tức là dừng sự đan dệt, mà dừng đan dệt tức là Niết-bàn. Còn nghiệp thì còn sanh tử, hết nghiệp thì vô sanh, nên Niết-bàn có nghĩa là vô sanh, đó là chỗ ước mơ của người tu. Người tu phải đạt đến chỗ không còn nghiệp sanh tử, đến chứng quả vô sanh, tức Niết-bàn. Thế nên thích nhất, quí nhất là chỗ không còn đan dệt, tức là dừng kim. Và cứu kính của thiền là chỗ không mở lời vì ngôn ngữ đều nằm trong đối đãi sanh diệt, mà đến chỗ cứu kính là không còn sanh diệt đối đãi nên không còn lời. Đó là hai điểm thích nhất của người tu, chớ không phải thích mỹ nhân, thích hoa hay thích chim hoàng oanh. Chính là thích chỗ dừng kim, không còn đan dệt nghiệp, thích chỗ không lời, chỗ cứu kính không còn đối đãi.

8. NGỌ THỤY

Âm:    Vũ quá khê sơn tịnh,

            Phong lâm nhất mộng lương.

            Phản quan trần thế giới,

            Khai nhãn túy mang mang.

Dịch: NGỦ TRƯA

            Mưa tạnh, khe núi sạch,

            Rừng phong giấc ngủ ngon.

            Nhìn lại đời bụi bặm,

            Mở mắt dường ngủ say.

Giảng:

Qua bốn câu trên chúng ta thấy đạo lý như thế nào?

Vũ quá khê sơn tịnh. Khi đám mưa qua rồi núi được sạch, bụi bặm tuôn xuống hết nên mưa tạnh khe núi sạch.

Phong lâm nhất mộng lương, trong rừng phong ngủ một giấc thật ngon, khi mở mắt:

Phản quan trần thế giới, nhìn lại cuộc đời bụi bặm này.

Khai nhãn túy mang mang, mở mắt dường ngủ say! Sao lạ vậy? Người đời cho nhắm mắt là ngủ, là mê, mở mắt là thức, là tỉnh, nhưng trong cõi trần này, người đời mở mắt mà vẫn mê. Thí dụ như ở đời những gì hữu ích cho mọi người thì người ta làm là phải, nhưng có những việc vô ích hại mình, hại người mà người ta vẫn thích làm, vậy là mê hay tỉnh? Trong khi làm họ vẫn mở mắt, như vậy có phải mở mắt dường ngủ say không? Gần nhất như người tu chúng ta luôn luôn khẳng định trong lòng là không để sáu trần lôi cuốn. Khi nào chúng ta làm đúng, đó là tỉnh, còn khi nào làm khác điều khẳng định, đó là mê.

Như trong lúc quí vị mở mắt đi lại nói năng đàng hoàng mà có khi nhớ tránh lục trần, có khi lại quên, tuy mở mắt mà xông vào lục trần, đó là mở mắt dường ngủ say! Như vậy không phải chỉ trong khi ngủ mới say, mới mê, mà chính trong lúc mở mắt chúng ta vẫn say vẫn mê, nên việc không đáng làm mà vẫn làm!

9. PHIẾM CHU

Âm:    Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,

            Sơn thanh thủy lục hựu thu quang.

            Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,

            Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.

Dịch: CHƠI THUYỀN

            Lướt gió thuyền con ruổi tít mù,

            Non xanh nước biếc, ánh trời thu.   

            Khuất lau sáo thổi vài ba tiếng,

            Sương phủ, trăng chìm dưới sóng sâu.

                                                            HUỆ CHI

Giảng:

Bài này có nói đạo lý hay toàn là cảnh chơi thuyền?

Lướt gió thuyền con ruổi tít mù, một chiếc thuyền con đi xa tít trong dòng sông rộng mênh mông.

Non xanh nước biếc ánh trời thu, nào là non xanh nước biếc, nào là ánh sáng trời thu… Hai câu này toàn là tả cảnh.

Khuất lau sáo thổi vài ba tiếng, là ngoài đám hoa lau có vài tiếng sáo thổi.

Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương là sương phủ trăng chìm dưới sóng sâu.

Như vậy chúng ta thấy con thuyền vô tình, non nước vô tình, ánh mặt trời cũng vô tình, nhưng trong cảnh vô tình đó, ngoài khóm hoa lau lại trỗi lên tiếng sáo, khi ấy sương phủ, trăng lặn dưới lòng sông. Tất cả là một cảnh im vắng bao phủ bởi một bầu trời trong trẻo lặng lẽ, chợt có mấy tiếng sáo vang lên, đó là để nói rằng trong cảnh tịch tĩnh có cái động chớ không phải hoàn toàn im lặng. Chúng ta thấy những bài thơ của ngài Điều Ngự cũng có nói điều này, nghĩa là tả cảnh núi sông yên vắng, rồi cuối cùng có tiếng chim hót… Nghĩa là trong chỗ tịch tĩnh vẫn còn có một cái động, đó là cái động giác, cái động của người thức tỉnh.

10. ĐỀ ĐỌÂNG HIÊN ĐÀN VIỆT GIẢ SƠN

Âm:    Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,

            Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.

            Tùng tư niệm lự đô vô tục,

            Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.

Dịch: ĐỀ NÚI NON BỘ CỦA THÍ CHỦ Ở ĐỘNG HIÊN

            Quanh quất cây leo, núi chất chồng,

            Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng.

            Từ nay niệm tục thôi vương vấn,

            Chiếc gối an nhàn trước gió trong.

                                                            HUỆ CHI

Giảng:

Ngài đến thăm nhà của một đàn việt, thấy trước nhà có hòn non bộ, cảm hứng Ngài làm bài thơ này. Trong bài thơ, hai câu đầu hoàn toàn tả cảnh.

Quanh quất cây leo, núi chất chồng, những hòn đá chồng lên thành từng ngọn núi nhỏ trên hòn non bộ, lại có cây, có dây leo chung quanh.

Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng. Trên hòn non bộ có những thứ hoa rơi rụng giữa khói có trăng lồng bóng. Đến tâm tư:

Từ nay niệm tục thôi vương vấn là dịch câu tùng tư niệm lự đô vô tục. Tục là thế tục, nghĩa là từ nay những niệm vương vấn với thế tục không còn nữa.

Chiếc gối an nhàn trước gió trong là dịch câu doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.

Như vậy tuy có ngọn núi, có hoa, có dây leo, có trăng, có gió, nhưng nếu ngọn núi chỉ là ngọn núi thì không có giá trị gì đối với sự tu hành. Giá trị tu hành chính là chỗ khi nhìn ngọn núi, dầu là giả sơn, chúng ta vẫn hướng đến chỗ tâm an tịnh, còn bận bịu những niệm trần tục và nghĩ đến trên ngọn núi cao, gió mát, nằm ngủ một giấc thật ngon.

Tóm lại ý nghĩa của bài thơ là tâm tư của người tu được ở trên núi nằm yên ngủ, mọi niệm lự trần tục đều dứt sạch.

11. TẢO THU

Âm:    Dạ khí phân lương nhập họa bình,

            Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.

            Trúc đường vong thích hương sơ tận,

            Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

Dịch: THU SỚM

            Hơi mát đêm thâu lọt tới mành,

            Cây sân xào xạc báo thu thanh.

            Bên lều quên bẵng hương vừa tắt,

            Lưới bủa vầng trăng, mấy khóm cành.

                                                            NGUYỄN ĐỔNG CHI

Giảng:

Bài dịch rất hay.

Hơi mát đêm thâu lọt tới mành. Hơi lạnh của đêm thu thổi vào tận bên tấm sáo của chiếc lều.

Cây sân xào xạc báo thu thanh. Gió thổi cây trước sân nghe xào xạc, đó là tiếng báo hiệu mùa thu trở về.

Bên lều quên bẵng hương vừa tắt. Nằm bên lều quên bẵng cây hương thắp trên bàn Phật tắt từ bao giờ. Nhìn ra ngoài trời:

Lưới bủa vầng trăng mấy khóm cành. Các cành lá xao động, ánh sáng trăng rọi qua giống như lưới phủ ánh trăng. Nguyên văn chữ Hán rất hay: Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh, các cành cây đan vào nhau làm cho ánh trăng rọi xuống giống như xuyên qua những mắt lưới.

Qua bài thơ trên, chúng ta thấy lối tả cảnh của Ngài thật tuyệt diệu, ngoài ra Ngài có nói đạo lý gì không? Bên lều quên bẵng hương vừa tắt, bên cạnh thất, người nằm lặng lẽ quên tất cả, mặc cảnh chung quanh thay đổi, cho đến cây hương tàn lụn cũng không hay. Như vậy gió mát lọt tới mành, tiếng xào xạc báo mùa thu tới, ông tăng nằm bên lều quên cả hương tàn, ánh trăng rọi xuống những cành cây như phủ lưới, các hành động này dường như có hành động nhưng người và cảnh đều vô tâm. Đó là điểm đặc biệt, giữa người và cảnh không còn riêng rẽ cách biệt mà đều đồng một trạng thái vô tâm.

12. ĐỊA LÔ TỨC SỰ

Âm:    Ổi dư cốt đốt độc phần hương,

            Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.

            Thủ bả xuy thương hòa mộc đạc,

            Tùng giao nhân tiếu lão tăng mang.

Dịch: LÒ SƯỞI TỨC CẢNH

            Củi hết lò còn vương khói nhẹ,

            Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh.

            Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo,

            Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.

                                                            NGUYỄN LANG

Giảng:

Củi hết lò còn vương khói nhẹ, đây là hình ảnh một lò hương tàn. Ngài diễn tả lúc ở núi có một vài chú đệ tử con con, mùa đông lạnh thầy trò hơ lửa bên lò sưởi, lửa tàn rồi chỉ còn một chút khói nhẹ. Độc phần hương là còn một chút hơi thơm nhè nhẹ. Tựa bài là lò sưởi nhưng có sách dịch là bát hương, các cây hương tàn rồi cong lại gọi là cốt đốt.

Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh, những đệ tử nhỏ học kinh có vài đoạn chưa hiểu, đem ra hỏi, thầy dạy, đó là bổn phận của vị thầy.

Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo. Một tay cầm dùi gõ mõ tụng kinh, một tay nâng sáo thổi. Tụng kinh thổi sáo là hai hiện tượng khác nhau. Với người thế gian khi tụng kinh thì nghiêm trang không thổi sáo, khi thổi sáo thì không tụng kinh, hay nói cách khác khi tu thì không vui chơi, khi vui chơi thì quên tu. Ngài Huyền Quang thật là một nghệ sĩ, tay cầm mõ, tay nâng sáo.

Thiên hạ cười ta cứ mặc tình. Ai cười mặc tình, Ngài không quan tâm, không bận lòng trước lời phê phán.

Tóm lại qua bài này chúng ta thấy được tư cách một nghệ sĩ nơi ngài Huyền Quang, vừa tu vừa thổi sáo vừa làm thơ, không thiếu phần nào cả.

13. CHU TRUNG

Âm:    Nhất diệp biển chu hồ hải khách,

            Xanh xuất vi hàng phong thích thích.

            Vi mang tứ cố vãn triều sinh,

            Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.

Dịch: TRONG THUYỀN

            Dấu khách giang hồ thuyền một lá,

            Hàng lau lách gió chèo thong thả.

            Bốn bề trông quạnh ngọn triều lên,

            Nước biếc liền trời âu trắng xóa.

                                                            ĐINH VĂN CHẤP

Giảng:

Dấu khách giang hồ thuyền một lá. Một khách giang hồ ngồi trong chiếc thuyền nhỏ bơi đi.

Hàng lau lách gió chèo thong thả, lách gió bên cạnh hàng lau, chèo thuyền thong thả.

Bốn bề trông quạnh ngọn triều lên. Bốn bên đều vắng vẻ chỉ thấy dòng nước lớn đang lên cao.

Nước biếc liền trời âu trắng xóa là dịch câu: Giang thủy liên thiên nhất âu bạch. Câu này rất hay. Giang thủy là nước sông, liên thiên là liền với trời, và một con chim âu trắng bay.

Người thấu triệt lý thiền, nhìn hình ảnh này thấy có một chỗ rất đặc biệt. Chiếc thuyền, bờ lau, con sông, dòng nước, bầu trời và cả con chim âu, tất cả đều hòa nhập vào nhau không ranh giới, không chia cách. Như vậy để thấy rằng muôn sự, muôn vật trong thế gian này đều hòa quyện vào nhau không chia cách, đó là điểm đặc biệt của người tu thiền nhìn ngoại cảnh.

14. THỨ BẢO KHÁNH TỰ BÍCH GIAN ĐỀ

Âm:    Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,        

            Nam lâu bắc quán tịch dương tà.

            Xuân vô chủ tích thi vô liệu,

            Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa.

Dịch: HỌA BÀI THƠ ĐỀ TRÊN VÁCH ĐÁ CHÙA BẢO KHÁNH

            Khói nhạt đồng hoang quê lắm vẻ,

            Lầu nam quán bắc, xế vừng hồng.    

            Thơ không thi liệu, xuân không chủ,

            Mấy cội hoa sầu nhớ gió đông.

                                                NGUYỄN ĐỔNG CHI

Giảng:

Vì là bài họa nên không mang tính cách đặc biệt của Ngài. Ngài cảm hứng họa lại bài thơ cũ đề trên vách, nên ý nghĩa chỉ là nói lên cảnh đồng quê nào lầu nam, nào quán bắc và vầng mặt trời. Đứng về thơ thì không có thi liệu tức là không có tài liệu làm thơ, nói về mùa xuân thì mùa xuân không có chủ, chỉ có mấy cội hoa buồn nhớ gió đông.

15. MAI HOA

Âm:    Dục hướng thương thương vấn sở tòng,

            Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.

            Chiết lai bất vị già thanh nhãn,

            Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông.

Dịch: HOA MAI

            Muốn hỏi trời xanh: hoa tự đâu,

            Một mình gội tuyết chốn non sâu.

            Bẻ về, đâu muốn lừa tri kỷ,

            Chỉ mượn tình hoa giải bệnh sầu.

                                                            BĂNG THANH

Giảng:

Trong bài này Ngài diễn tả hoa mai nở vào cuối đông đầu xuân.

Muốn hỏi trời xanh hoa tự đâu. Từ đâu mà có hoa này?

Một mình gội tuyết chốn non sâu. Mùa đông ở trong rừng núi, hoa mai vẫn nở rực, không sợ sương tuyết.

Bẻ về đâu muốn lừa tri kỷ. Chữ tri kỷ dịch chữ thanh nhãn nghĩa là mắt xanh. Trong sách Nho thường dùng chữ thanh nhãn, mắt xanh để chỉ người trí thức, nhìn thấu được sự vật. Bẻ hoa mai về không phải vì muốn lừa người trí thức.

Chỉ mượn tình hoa giải bệnh sầu. Chỉ đem hoa về chưng cho đẹp, làm cho người bớt buồn thôi.

16. TRÚ MIÊN

Âm:    Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,

            Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.

            Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,

            Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.

Dịch: NGỦ NGÀY

            Vườn tược cha ông mặc sức cày,

            Quanh nhà xanh nượp mấy ngàn cây.           

            Ngoài song, cành quế chim cưu vắng,         

            Gió mát, triền miên giấc ngủ ngày.

                                                            KIỀU THU HOẠCH

Giảng:

Ngủ ngày là ngủ trưa nhưng trong bài ngủ ngày chắc là giờ nào ngủ cũng được chớ không phải là giờ trưa. Đọc bài thơ này nhiều người có vẻ bằng lòng lắm. Nhưng quí vị nên hiểu:

Vườn tược cha ông mặc sức cày, đó là vườn nào? Thường chúng ta nghĩ là vườn của gia đình, của tổ tiên để lại cho con cháu. Nhưng vườn tược cha ông là chỉ cho tất cả chúng ta sẵn có cái tâm địa tàng, cái kho tâm địa. Trong kho đất tâm đó đủ các thứ cây cỏ mọc chằng chịt. Nay chúng ta phải làm sao? Ráng cày và lượm sạch cỏ để trồng các loại cây tốt có hoa quả hữu ích. Như vậy ai cũng có một thửa vườn, mỗi người phải ráng chăm sóc, cày bừa trồng trọt cho tốt.

Quanh nhà xanh nượp mấy ngàn cây. Vì khéo trồng nên chung quanh nhà cây lên xanh mượt.

Ngoài song, cành quế chim cưu vắng. Ngoài cửa sổ, chim cưu không đến đậu trên cành quế.

Gió mát, triền miên giấc ngủ ngày. Thật đẹp làm sao! Vườn tược quanh nhà dọn dẹp sạch, cây trồng lên xanh mượt, không có chim kêu, chỉ có gió mát nên nằm ngủ một giấc thật ngon, không biết lúc đó là sáng hay trưa hay chiều.

Quí vị có được ngủ một giấc ngon như thế này không? Khi nào vườn tược của mình sạch gai góc, cỏ dại, chỉ là một vườn cây hữu ích xanh mướt, không có chim chóc côn trùng phá hại, lúc đó gặp cơn gió mát thì tha hồ ngủ. Trái lại nếu vườn của ai còn gai góc thì phải nỗ lực cuốc cày, nhổ bỏ cho sạch chớ không có quyền ngủ.

Bài này dạy chúng ta tu, kiểm lại xem vườn của mình còn gai góc một vài bụi hay đầy cả vườn? Phải ráng dọn sạch gai góc, khi nào vườn sạch, lại trồng các cây từ bi, trí tuệ xanh mượt, khi đó gặp cơn gió mát thì ngủ chớ không còn gì phải làm. Bài này rất là thích thú!

17. AI PHÙ LỖ

Âm:    Khóa huyết thư thành dục ký âm,

            Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.

            Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,

            Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

Dịch: THƯƠNG TÊN GIẶC BỊ BẮT

            Chích máu thành thư muốn gởi lời,

            Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi.

            Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?

            Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.

                                                                        HUỆ CHI

Giảng:

Tên giặc bị bắt dẫn đi, Ngài thấy xót xa mới làm bài thơ này.

Chích máu thành thư muốn gởi lời. Chích máu viết thành lá thư muốn gởi đi, nhưng:

Lẻ loi nhạn lạnh ải mù khơi. Chim nhạn lẻ loi lại gặp mùa lạnh nó không bay, nên không gởi thơ được. Thường ngày xưa người ta hay dùng nhạn đưa thơ nên gọi là tin nhạn, tức là thơ cột trong chân chim nhạn, nó bay đến nơi rồi đáp xuống trao thơ. Nhưng nay gặp mùa đông lạnh nó không bay mà chỗ quan ải lại xa xôi mù mịt.

Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? Cùng là mặt trăng mà đêm nay có bao nhiêu người buồn, bao nhiêu người nhớ. Khi một người con trong gia đình đi đánh giặc bị bắt, cha mẹ ở nhà nghe tin thì xót xa làm sao. Tuy trời trong trăng sáng nhưng càng nhìn cảnh càng đau lòng, nên mới đặt câu hỏi đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?

Xa cách nhưng lòng chỉ một thôi. Chữ xa cách là dịch chữ lưỡng xứ, tức là hai nơi, nước bắt được giặc và nước của người giặc. Hai nơi cách xa nhau nhưng thật tình nỗi đau lòng cũng là một thôi. Ý Ngài muốn nói người ở nơi này, người ở nơi kia nhưng tâm trạng cũng là giống nhau.

18. QUÁ VẠN KIẾP

Âm:    Lạng Châu nhân vật thủy lưu đông,

            Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung.

            Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ,        

            Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không.

Dịch: QUA VẠN KIẾP

            Về đông, nước chảy, người châu Lạng,

            Ngày tháng, trăm năm một thoáng nhanh.

            Núi cũ ngoảnh đầu đăm đắm ngóng,

            Nhạn về in bóng giữa tầng xanh.

                        HOÀNG TRUNG THÔNG – BĂNG THANH

Giảng:

Đền Vạn Kiếp là nơi xảy ra chiến trận, bao nhiêu người đánh giết nhau...

Về đông nước chảy, người châu Lạng. Châu Lạng là Lạng Sơn. Lạng Sơn ở trên vùng cao nguyên, nước trên núi tuôn chảy xuống biển ở phía đông, vì thế nói dòng nước chảy về đông.

Ngày tháng trăm năm một thoáng nhanh, nguyên văn chữ Hán là Bách tuế quang âm nhiển chỉ trung, trăm năm dường như búng ngón tay, tức chỉ thời gian trôi nhanh.

Núi cũ ngoảnh đầu đăm đắm ngóng, là dịch câu Hồi thủ cố sơn ngưng vọng xứ.

Nhạn về in bóng giữa tầng xanh là dịch câu Sổ hàng qui nhạn thiếp tình không. Sổ hàng qui nhạn là mấy hàng chim nhạn bay trở về.

Đây là Ngài diễn tả cảnh ở Vạn Kiếp, cạnh dòng sông nước trôi về biển. Nhớ lại những chuyện cả trăm năm về trước dường như một chớp thoáng qua, nhìn ngắm ngọn núi thấy bầy chim nhạn bay trên từng hư không. Như vậy để thấy tất cả tâm tình người ôn lại những sự đã qua thì chỉ là một cái rỗng, không có gì thật, qua rồi là mất.

19. ĐỀ ĐẠM THỦY TỰ

Âm:    Đạm Thủy đình biên dã thảo đa,

            Không sơn vũ tễ tịch dương tà.

            Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất,

            Ủng phạn xao chung giản lạc hoa.

Dịch: ĐỀ CHÙA ĐẠM THỦY

            Bên đình Đạm Thủy cỏ đua tươi,

            Mưa tạnh non quang, bóng ngả dài.

            Tiện lối xe vua vào vãng Phật,

            Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi.

                                                            HUỆ CHI

Giảng:

Đây là bài thơ viết về chùa Đạm Thủy. Cảnh rất đẹp, chùa Đạm Thủy có nhiều hoa cỏ tươi tốt, qua một cơn mưa tạnh, nhìn thấy ngọn núi sáng và bóng chiều đã xế. Tiện đường đi ngang, xe vua ghé vào chùa lễ Phật, nhưng ông thầy đi đâu vắng, có lẽ ông đang đi lượm hoa ở ngoài, nên quan hộ giá phải đánh chuông giùm cho vua lạy: Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi.

Đây là diễn tả cảnh chùa vắng vẻ yên tĩnh, vua đến không gặp thầy, không gặp điệu, chỉ trong đoàn tùy tùng đánh chuông lễ Phật.

*

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM