TAM TỔ TRÚC LÂM GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

TỔ THỨ BA PHÁI TRÚC LÂM

THƠ PHÚ CÒN SÓT LẠI (tt)

20. DIÊN HỰU TỰ

Âm:    Thượng phương thu dạ nhất chung lan,

            Nguyệt sắc như ba phong thụ đan.   

            Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh,

            Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn.

            Vạn duyên bất nhiễu thành già tục,

            Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan.

            Tham thấu thị phi bình đẳng tướng,

            Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

Dịch: CHÙA DIÊN HỰU

            Đêm thu chùa gióng tiếng chuông vang,

            Sóng gợn ánh trăng, phong lá vàng.

            Chim ngủ ngược hình, gương nước lạnh,

            Bóng hai ngôi tháp, chót ngọc hàn.

            Muôn duyên chẳng rối nào ngăn ngại,

            Nửa điểm không phiền mắt rộng thang.

            Tham tột thị phi tướng bình đẳng,

            Cung ma, cõi Phật đẹp ngang hàng.

Lời dẫn.- Diên là kéo dài, Hựu là lành tốt tức là tuổi thọ. Diên Hựu là muốn kéo dài tuổi thọ nên lập chùa này để cầu nguyện. Chùa Diên Hựu cũng tên là chùa Một Cột nhưng tên Diên Hựu là chùa lớn ở trên đất, còn Một Cột là chùa ở dưới hồ. Vua Lý Thái Tông một hôm nằm mộng thấy Bồ-tát Quán Thế Âm đứng trên tòa sen đưa tay muốn dắt nhà vua lên tòa. Nhà vua vừa bước lên, chợt giật mình thức dậy, mới mời các vị tăng đến để bàn điềm mộng. Thiền sư Thiền Tuệ khuyên nhà vua nên cất một ngôi chùa giống như cảnh đã thấy trong mộng. Nhà vua liền ra lịnh cho đào một cái hồ lớn, xây một trụ đá ở giữa hồ, trong trụ đá có mấy cánh để dựng ngôi chùa lên trên. Tháng mười năm Kỷ Dậu tức 1049 vua Lý Thái Tông cho dựng chùa và để tên là chùa Diên Hựu, dùng làm nơi cúng dường trai tăng cầu nguyện cho nhà vua sống lâu. Chùa Một Cột còn mãi tới ngày nay (khoảng tám thế kỷ qua) là ngôi chùa rất xưa, đầy đủ tinh thần dân tộc Việt Nam nên rất được quí trọng. Chùa đã được sửa sang lại mấy lần, nên hiện nay không còn giữ nguyên hình dáng như xưa nữa.

Giảng:

Đêm thu chùa gióng tiếng chuông vang. Đêm mùa thu trong chùa giọng chuông, tiếng vang ra xa.

Sóng gợn ánh trăng, phong lá vàng. Gió thổi mặt hồ gợn sóng, ánh trăng rọi xuống, nhìn thấy sóng gợn ánh trăng. Bên bờ hồ những cây phong lá đã ngả vàng. Hai câu này tả cảnh mùa thu tiếng chuông chùa vang, mặt hồ sóng gợn làm ánh trăng xao động, bên cạnh bờ hồ có những cây phong lá vàng.

            Chim ngủ ngược hình gương nước lạnh,

            Bóng hai ngôi tháp, chót ngọc hàn.

Hai câu này thật là giàu tưởng tượng. Gương nước lạnh, nước mặt hồ lạnh giống như gương. Chim đậu ngủ trên cây phong khi rọi bóng xuống hồ, nhìn thấy như chim ngủ đảo ngược. Hai ngôi tháp ở hai bên hồ nước trong, rọi bóng xuống hồ, chót ngọc trên ngôi tháp ngâm dưới nước nên lạnh. Chim ngủ ngược, chót tháp lạnh là hai hình ảnh tưởng tượng.

            Muôn duyên chẳng rối nào ngăn ngại,

            Nửa điểm không phiền mắt rộng thang.

Đây là đến phần đạo lý. Nếu tu hành mà tất cả duyên, tức là cảnh bên ngoài, khi tiếp xúc tâm chúng ta không dính mắc, không rối loạn phiền nhiễu thì nội tâm ta được thảnh thơi nhẹ nhàng, không có chút gì ngăn ngại. Trái lại đối với các duyên bên ngoài nếu chúng ta dính mắc, đương nhiên chúng ta phải bị che mờ, phải phiền não. Thế nên bước đầu của người tu là muôn duyên chẳng rối thì không có gì ngăn ngại. Tôi thường nói tất cả cảnh bên ngoài không có cảnh nào khuấy nhiễu, phá rối sự tu hành của chúng ta. Tỉ dụ như vị trưởng ban hoa chăm sóc ở ngoài viện, nơi đó nhiều người tới lui qua lại, cũng có nhiều hình ảnh nhưng mình chỉ chăm sóc hoa, không bị những hình ảnh chung quanh làm rối loạn thì có trở ngại gì không? Trái lại hình ảnh tới, chúng ta quên hoa nhớ ảnh đó là rối. Thế nên nhiều khi chúng ta cứ đổ cho ngoại cảnh làm chướng mình, nhưng không ngờ vì mình còn nhiều nhựa sống quá nên dính với cảnh rồi thấy có trở ngại.

Nửa điểm không phiền mắt rộng thang, là không còn nửa điểm để phiền thì con mắt thênh thang, không có gì ngăn trở.

Tóm lại chỉ có hai điều: thứ nhất là muôn duyên không dính, thứ hai là nửa điểm không phiền, được như thế thì con người tự do, tự tại. Đó là hai việc tu của chúng ta.

Tham tột thị phi tướng bình đẳng. Tham là tra cứu, tìm kiếm đi sâu vào trong đạo lý. Khi chúng ta tham cứu tột cùng thì thấy tướng thị phi tức là phải quấy đều bình đẳng như nhau. Nếu chưa bình đẳng là tham chưa tột. Nếu tham tột thì thấy tướng phải tướng quấy đều hư dối không thật tức là bình đẳng. Khi ấy:

Cung ma, cõi Phật đẹp ngang hàng. Cung ma, cõi Phật đều đẹp như nhau. Chúng ta hiện nay sợ cung ma và mến cõi Phật. Như trong kinh diễn tả cõi đức Phật Di-đà nào là thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ v.v… đẹp làm sao, nên ai cũng mơ ước. Còn nghe nói cung ma thì bị bỏ trong vạc dầu sôi, bị bắt trèo lên cây kiếm v.v… rất khổ sở, nên ai cũng sợ. Như vậy chúng ta sợ cung ma, thích cõi Phật vì chưa thấy tột tướng thị phi là bình đẳng. Nếu thấy tột thì cung ma cõi Phật đều đẹp như nhau không khác. Đó là để chỉ cho thấy khi mê thì cung ma là khổ, cõi Phật là vui, khi ngộ rồi thì cung ma cõi Phật, nơi nào cũng đẹp. Nói gần nhất là vì mê nên khi được khen thì chúng ta vui, bị chê thì chúng ta buồn, đó là tâm trạng của người mê. Trái lại nếu tỉnh ngộ rồi chúng ta thấy rõ lời khen lời chê chỉ là giả dối tạm bợ không thật, thì không có gì đáng mừng cũng không có gì đáng buồn, đó là thấy được tướng bình đẳng. Thấy tướng bình đẳng thì cung ma cõi Phật cũng bình đẳng, vì cũng đều là giả tướng không thật, chỉ cái không kẹt thị phi, cái đó mới thật. Còn thị phi là còn có cung ma cõi Phật, mà thị phi đã là giả thì cung ma cõi Phật cũng là tướng giả, nên cũng như nhau. Như vậy quí vị mới hiểu rõ tinh thần tu hành.

Trong những bài trước Ngài diễn tả cảnh nhiều hơn, đến bài này Ngài vừa tả cảnh vừa chỉ cho chúng ta cách tu hành rất rõ ràng, đó là tinh thần người đi trước nhắc nhở kẻ đi sau.

21. VỊNH VÂN YÊN TỰ PHÚ

Buông niềm trần tục;

Náu tới Vân Yên.

Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy

Gió tiên đưa đôi bước thần tiên.

Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới;

Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.

Đất phúc địa nhận xem luống kể, kể bao nhiêu dư trăm phúc địa;

Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ, lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên.

Thấy đây:

Đất tựa vàng liền;

Cảnh bằng ngọc đúc.

Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;

Núi nghìn tầng quanh co đường Thục.

La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn;

Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.

Cỏ chiều gió lướt, dợn vui vui;

Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc.

Ngàn cây phơi cánh phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn;

Hang nước tưới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục.

Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;

Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc.

Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành;

Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc.

Cảnh tốt và lành;

Đồ tựa vẽ tranh.

Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo;

Nhèn chi vua Bụt tu hành.

Hồ sen trương tán lục;

Suối trúc bấm đàn tranh.

Ngự sử mai hai hàng chầu rập;

Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.

Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng;

Tử vi bày liệt vị công khanh.

Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng;

Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.

Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ;

Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh.

Huống chi,

Vân thủy bằng lòng;

Yên hà phải thú.

Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim;

Trọng thay đường hơn đường cẩm tú.

Phân ân ái, am Não am Long;

Dứt nhân duyên, làng Nường làng Mụ.

Mặc cà-sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;

Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ.

Chặp tiết dương tiếng nhạc dõi truyền;

Voi la đá tính từ chẳng đố.

Xem phong cảnh hơn cảnh Bà Roi;

Phóng tay cầu chưng cầu Thằng Ngụ.

Bao nhiêu phong nguyệt, vào cõi vô tâm;

Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ.

Ta nay:

Ngồi đỉnh Vân Tiêu;

Cỡi chơi Cánh Diều.

Coi đông sơn tựa hòn kim lục;

Xem đông hải tựa miệng con ngao.

Nức đài lan nghĩ hương đan quế;

Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.

Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;

Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.

Thầy tu trước đã lên Phật quả;

Tiểu tu sau còn vị Tỳ-kheo.

Thấy đây:

Hồ thiên lẻ lẻ;

Xem lâu có nhẹ.

Tuy rằng học đạo hư vô;

Ngậm ngụt hỏi thiền ngôn nghĩ.

Mê một tấm lòng xét chẳng cùng;

Chác tấc bóng nghìn vàng còn rẻ.

Hẹn đến lâm tuyền làm bạn, o o o o;

Bảo rằng o o o o, o o ừ hễ.

Đua khoái lạc, chân bước lăm chăm;

Nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ.

Chẳng những vượn hạc thốt thề;

Lại phải cỏ hoa cười thỉ.

Từ đến đây!

Non nước đà quen;

Người từng mấy phen.

Đầu khách dễ nên biến bạc;

Mặt non hãy một xanh đen.  

Hồ nước giá lựa là lọc nước,

Cửa tráu cây phên trúc cài then.

Đàn khúc nhạc tiếng khong tiêu đính.

Vỗ tay ca cách lễ lạ liền.

Lạ những ôi!

Tây Trúc dường nào;

Nam châu có mấy.

Non Linh Thứu ai đem về đây;

Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đấy.         

Vào chưng cõi thánh thênh thênh;

Thoát rẽ lòng phàm phây phấy.

Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng;

Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy.

Từ trước nhẫn sau;

Thấy sao chép vậy.

KỆ RẰNG:

            Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,

            Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.

            Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã,

            Hôm mai rửa sạch nước ma-ha.

            Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,

            Thế sự hiu hiu gió thổi qua. 

            Cốc được tính ta nên Bụt thực,

            Ngại chi non nước cảnh đường xa.

                                                                        HUỆ CHI

Giảng:

Vịnh Vân Yên tự phú là bài phú vịnh về chùa Vân Yên.

Chùa Vân Yên hiện nay đề là Hoa Yên, đời Trần để là Vân Yên. Vân là mây, yên là khói, vì chùa ở lưng chừng núi cao, khói mây mù mịt, nên các ngài để là Vân Yên tự. Nhưng đến thế kỷ mười lăm, một vị vua nhà Lê lên viếng cảnh, gặp mùa xuân hoa nở rộ quá đẹp mới đổi Vân Yên thành Hoa Yên (hoa và khói). Mãi đến nay khi lên viếng chùa, chúng ta cũng thấy đề là Hoa Yên tự.

            Buông niềm trần tục;

            Náu tới Vân Yên.

            Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy,

            Gió tiên đưa đôi bước thần tiên.

Buông niềm trần tục, buông là bỏ, bỏ hết lòng trần tục. Náu là ở ẩn. Náu tới Vân Yên là ở trên chùa Vân Yên. Nghĩa là người muốn ở chùa Vân Yên trước buông hết lòng trần tục, sau mới lên ẩn ở chùa Vân Yên.

Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy, gió tiên đưa đôi bước thần tiên. Thụy là lành, dõi là theo. Chim lành theo tiếng chim lành, loại chim hiền lành hót thì các con chim lành khác hót theo. Gió thổi người mát mẻ gọi đó là gió tiên, người ta từng bước từng bước theo ngọn gió mát đi lên gọi là gió tiên đưa đôi bước thần tiên. Hai câu này chỉ cảnh có chim hót hiền lành, có gió mát thổi lúc người đi lên.

            Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới,

            Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.

Thường những người đi du ngoạn thuở xưa hay mang theo bầu nước, bầu đủng đỉnh là bầu nước đủng đỉnh. Giang là ca hát. Mang bầu nước vừa đi vừa ca hát tiếng vang cả thế giới. Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên. Hài là đôi giày, thong thả dạo khắp núi sông. Hai câu này diễn tả người đi dạo nơi chùa Hoa Yên phải mang theo bầu nước, do có chim ca, có gió tiên thổi nên vui thích vừa qua suối, leo núi… vừa hát vang.

            Đất phúc địa nhận xem luống kể, kể bao nhiêu dư trăm phúc địa;

            Trời thiền thiên thập thu thửa lạ, lạ hơn ba   mươi sáu Thiền thiên.

            Đất phúc địa, đất ở chùa Hoa Yên là đất phước.

            Nhận xem luống kể, nhìn xem hết sức là nhiều, tính không hết.

Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa, những cảnh đẹp, những khu đất tốt gom lại thì hơn cả trăm cảnh tốt đẹp. Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ là cõi trời Thiền thiên nếu thu nhập thì xem thấy cảnh rất là kỳ đặc; lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên, nhưng cảnh ở Hoa Yên còn đẹp hơn cảnh ba mươi sáu cõi trời. Như vậy Ngài tán thán cảnh chùa Hoa Yên là nơi rất nhiều phúc địa. Nếu so sánh với các cõi trời thì các cõi trời cũng không hơn.

Thấy đây:

Đất tựa vàng liền;

Cảnh bằng ngọc đúc.

Đất giống như vàng liên tiếp nhau, cảnh giống như ngọc đúc tạo nên.

Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;

Núi nghìn tầng quanh co đường Thục.

Mây năm màu che phủ như đền vua Nghiêu. Núi cả nghìn tầng quanh co giống như đường đất Thục.

La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn;

Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.

La đá là đá tảng. La đá tầng thang dốc là từng bậc từng bậc thang lót bằng đá tảng, nên một hòn ướm vịn một hòn, bước qua hòn đá này thì phải vịn hòn đá khác mà leo lên. Nước suối chảy làn sâu, dưới có những làn nước suối chảy sâu; đòi khúc những dò đòi khúc, qua khúc này rồi dò khúc kia, phải đi tám, chín khúc suối mới đến nơi. Đây là diễn tả đường đi lên, thang bằng những bậc đá lót từng tảng, suối thì nhiều khúc quanh co phải dò mới qua được.

Cỏ chiều gió lướt, dợn vui vui;

Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc.

Buổi chiều gió thổi lướt cỏ xanh như dợn sóng, nhìn thấy vui vui. Khi mưa dầm tạnh rồi núi một màu tươi sáng. Đó là diễn tả vẻ đẹp của núi khi mưa tạnh.

Ngàn cây phơi cánh phượng, vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn,

Hang nước tưới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục.

Ngàn cây phơi cánh phượng, những bờ cây trải ra giống như chim phượng phơi cánh. Vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn, những đóa hoa tốt, cành lá xanh rờn như trong vườn thượng uyển. Hang nước tưới hàm rồng, hang do nước ở trên nhỏ xuống như tưới hàm rồng. Nhả ly châu hột săn mục mục, săn là nhiều, mục mục tức là từng giọt từng giọt miệng rồng phun ra những hạt châu đẹp. Hai câu này diễn tả những bờ cây đẹp đẽ giống như vườn thượng uyển; nước trong hang chảy xuống các nhũ đá như tưới miệng rồng, từ đó từng giọt nước rơi xuống như miệng rồng nhả ra những hạt ly châu.

            Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;

            Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc.

Nhựa đông hổ phách, rừng thông trên Yên Tử giống như rừng thông của chúng ta, khi thông bị chặt hoặc bị nẻ ra nhựa, nhựa đọng lại như những hạt hổ phách, sáng khắp rừng thông là sáng rực cả rừng. Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc, trong vườn trúc, da trúc có những đốm như điểm đồi mồi. Đây là tả rừng thông tươm nhựa giống như hổ phách, vườn trúc da có từng đốm như trổ đồi mồi.

            Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành;

            Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc.

Gác vẽ tiếng bồ lao thốc. Trên chuông ở chùa thường chạm hình con bồ lao, dùi chuông chạm hình cá kình. Tục truyền thuở xưa có một cái đảo ngoài biển, mỗi khi cá kình nổi lên thì nước dâng tràn vào trên đảo, dân chúng hoảng sợ. Trên đảo có con bồ lao bốn chân, khi thấy cá kình nổi lên, nó rống một tiếng, cá kình hoảng sợ lặn xuống, nước cũng rút theo. Thế nên nhờ con bồ lao hét, cá kình lặn, tai họa của dân ở đảo mới qua, nên người ta dùng hình cá kình làm dùi gióng vào chuông, tiếng vang ra giống tiếng bồ lao hét để đem lại sự bình an cho mọi người. Bồ lao thốc là bồ lao rống. Gió vật đoành đoành, gió thổi nghe đùng đùng. Đền ngọc phiến bối diệp che, đền ngọc có những lá bối che; mưa tuôn túc túc, mưa rơi độp độp.

            Cảnh tốt và lành;

            Đồ tựa vẽ tranh.

Cảnh vừa tốt vừa lành giống như bức tranh trong bản đồ.

            Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo;

            Nhèn chi vua Bụt tu hành.

Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo, chỉn ấy có thể hiện nay nói chỉ thế, mẽ khéo là khoe bày vẻ đẹp. Chỉ vì trời thiêng khoe bày vẻ đẹp. Nhèn chi vua Bụt tu hành. Nhèn chi, ở thôn quê miền Nam nói hèn chi. Hèn chi vua Phật đi tu ở đây. Vì cảnh rất đẹp nên vua Phật mới đến đây tu.

            Hồ sen trương tán lục;

            Suối trúc bấm đàn tranh.

Lá sen lớn giống như cái tán, cái lọng. Trong hồ những cọng sen đưa lá rộng tròn lên giống như giương tán màu xanh. Suối trúc bấm đàn tranh, trên đám trúc có dòng suối nhỏ đổ xuống nghe như tiếng đàn tranh.

            Ngự sử mai hai hàng chầu rập;

            Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.

Ngự sử là chức quan trong triều, rập là cúi đầu. Hai hàng mai giống như các quan ngự sử cúi đầu chầu vua. Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh. Mấy chạnh là mấy cành, phò quanh là hầu chung quanh. Cây tùng như trượng phu đứng hầu chung quanh.

            Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng;

            Tử vi bày liệt vị công khanh.

Hai hàng cây phỉ thúy giống như chim loan chim phượng. Những bụi tử vi bày la liệt như lớp công khanh ở trước đền vua.

            Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng;

            Vượn bồng con về cửa nghe kinh.

Chữ óc là gọi. Chim gọi bạn tha hoa dâng cúng, vượn bồng con về trước cửa nghe kinh.

            Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây  nhè nhẹ;

            Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc núi xanh xanh.

Đẹp làm sao! Nương am vắng Bụt hiện từ bi. Đức Phật ngồi trong am vắng nhìn với vẻ rất từ bi, bên ngoài gió hiu hiu, mây nhè nhẹ. Kề song thưa thầy ngồi thiền định. Thầy ngồi thiền định bên cạnh cửa sổ, ngoài thì trăng vằng vặc, núi xanh xanh. Đây là diễn tả vua đi tu trên núi, cảnh chung quanh tương tự như cảnh triều đình.

            Huống chi,

            Vân thủy bằng lòng;

            Yên hà phải thú.

Huống chi nơi đây mây nước làm vừa lòng người, khói mây làm người thích thú.         

            Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim;

            Trọng thay đường hơn đường cẩm tú.

Cảnh hoàng kim là cảnh vàng ròng. Cảnh này vui khác cảnh hoàng kim. Đường cẩm tú là đường gấm đẹp. Đường đi thích hơn đường cẩm tú.

            Phân ân ái, am Não am Long;

            Dứt nhân duyên, làng Nường làng Mụ.

Khi nhà vua đi tu, lên đến đây cắt lìa ân ái không cho phi tần cung nữ đi theo. Các bà phi không chịu về, cất am ở đó tu để tên là am Não am Long. Vì dứt nhân duyên, các bà phi không theo được nữa, mới cất nhà ở tu chung quanh chân núi nên gọi đây là làng Nường, kia là làng Mụ.

Mặc cà-sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;

Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ.

Mặc cà-sa nằm trướng giấy, nhà vua khi đi tu mặc áo cà-sa, nằm trướng bằng giấy; màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương, ở triều đình châu ngọc đầy lẫm đầy rương nhưng không màng. Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ. Ngọc thực là thức ăn quí, hương giao là rượu thơm, cắp nạnh là bồng bế, là mang. Nghĩa là tất cả những thức ăn ngon, những rượu quí bỏ lại, chỉ mang theo một vò cà, một hũ tương. Ngài diễn tả rất khéo, vua ở triều đình châu ngọc đầy dẫy nhưng không màng, lại đi tu mặc cà-sa, nằm trướng giấy. Thức ăn ngon, rượu thơm quí đều bỏ lại, vào chùa chỉ mang theo một vò cà (cà pháo), một hũ tương.

            Chặp tiết dương tiếng nhạc dõi truyền;

            Voi la đá tính từ chẳng đố.

Chặp tiết dương là dịp tiết dương, vào mùa xuân, dịp tết; tiếng nhạc dõi truyền là tiếng nhạc truyền đi xa. Voi la đá tính từ chẳng đố, voi đá tính hiền lành, không chống lại với các con vật khác.

            Xem phong cảnh hơn cảnh Bà Roi;

            Phóng tay cầu chưng cầu Thằng Ngụ.

Xem phong cảnh này còn hơn cảnh Bà Roi, một cảnh đẹp ở vùng Yên Tử. Phóng tay cầu là buông tay cầu. Chưng cầu Thằng Ngụ là cũng như cái cầu của Thằng Ngụ, cũng thuộc vùng Yên Tử.

            Bao nhiêu phong nguyệt, vào cõi vô tâm;

            Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ.

Bao nhiêu phong nguyệt vào cõi vô tâm, bao nhiêu trăng gió đẹp đẽ trong cảnh này đều vào chỗ lòng không còn vướng bận. Dấu là yêu dấu, chơi dấu là chơi thích thú nước non, dưỡng đời thánh thọ, là dưỡng tuổi thọ. Nghĩa là đến đây dù có cảnh đẹp, lòng nhà vua cũng không vướng bận, Ngài chơi thích thú với nước non để cho tuổi thọ được tăng lên.

Đoạn trên diễn tả nhà vua đi tu, đến đây Ngài nói về Ngài:

Ta nay:

            Ngồi đỉnh Vân Tiêu;

            Cỡi chơi Cánh Diều.

Hiện nay Ngài cũng ngồi chơi trên đỉnh Vân Tiêu, trên ngọn Cánh Diều. Cánh Diều là một ngọn trên dãy Yên Tử.

            Coi đông sơn tựa hòn kim lục;

            Xem đông hải tựa miệng con ngao.

Trên chót núi nhìn xuống thấy ngọn đông sơn giống hòn kim lục, biển phía đông nhỏ như miệng con ngao.

            Nức đài lan nghĩ hương đan quế;

            Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.

Hoa lan nở thơm nức mũi nghĩ như mùi hương hoa quế. Ngồi trên cao nhìn trăng, nghe tiếng gió thổi tưởng như Hằng Nga đang khảy khúc tiêu thiều, một khúc nhạc hay.

            Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;

            Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.

Quán thất bảo là quán bằng bảy báu, nơi trọ của những người tu, không phải của những vị tiên, vẽ bao Bụt hiện, nơi đó đã vẽ hình bao nhiêu đức Phật. Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu. Hai mươi mốt thù là một lượng, sáu thù khoảng một phần tư lượng nên áo lục thù rất nhẹ, gió tiên thổi bay phất phơ.

            Thầy tu trước đã lên Phật quả;

            Tiểu tu sau còn vị Tỳ-kheo.

Ngồi trên núi thấy cảnh vật như thế, Ngài nhớ lại thầy mình tu trước, đã ngộ đạo lên Phật quả nên gọi là vua Phật, còn mình là tiểu, là đệ tử tu sau nên còn ở vị Tỳ-kheo.

            Thấy đây:

            Hồ thiên lẻ lẻ;

            Xem lâu có nhẹ.

Nhìn nơi đây, hồ thiên lẻ lẻ, xem lâu thấy nhẹ nhàng.

            Tuy rằng học đạo hư vô;

            Ngậm ngụt hỏi thiền ngôn nghĩ.

Ngậm ngụt là lời nói còn ấp úng chưa ra lời. Tỉ dụ như đến thầy muốn thưa điều gì, nhưng còn ấp úng gọi là ngậm ngụt. Ngôn là nói, nghĩ là suy nghĩ. Tuy học đạo hư vô nghĩa là rỗng không, nhưng muốn hỏi thiền mà trong lòng còn suy nghĩ mở miệng nói không ra lời.

            Mê một tấm lòng xét chẳng cùng;

            Chác tấc bóng nghìn vàng còn rẻ.

Một tấm lòng mê thì xét không đến cùng tận. Chác là đổi chác. Đem tấc bóng đổi một nghìn vàng cũng còn rẻ. Tấc bóng là khoảng nửa tiếng đồng hồ, đổi một nghìn lượng vàng cũng không đổi, thế mà người tu chúng ta nhiều khi thả hồn phiêu phưởng cả giờ không tỉnh, thật là giết bao nhiêu tấc bóng của mình. Vì vậy chúng ta phải nhớ: Đổi một tấc bóng nghìn vàng còn rẻ.

            Hai câu tiếp theo bị thiếu mấy chữ nên không rõ nghĩa.

            Hẹn đến lâm tuyền làm bạn o o o o

            Bảo rằng o o o o, o o ừ hễ.

            Hai câu này thông qua.

            Đua khoái lạc, chân bước lăm chăm,

            Nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ.

Đua khoái lạc chân bước lăm chăm, nếu tu mà thích đua theo khoái lạc, chân bước lăm chăm, tức là bước đi nhanh nhẹn, thì nhuốm phồn hoa, đầu đà bạc tỷ. Tỷ là chút ít, nhuốm là dính. Dính theo phồn hoa, nhìn lại đầu đã có một ít tóc bạc. Ngài cảnh tỉnh chúng ta: Nếu đuổi theo khoái lạc, tiến mãi không dừng, dính với phồn hoa, khi nhìn lại tuổi già đã đến rồi.

            Chẳng những vượn hạc thốt thề;

            Lại phải cỏ hoa cười thỉ.

Tu mà có tâm mê đuổi theo trần tục, không những con vượn con hạc phải thề thốt để nhắc mình mà loài cỏ hoa cũng cười thỉ, tức là cười thầm.

Tóm lại đoạn này nói nếu người tu còn mê muội thì tâm tạo không biết bao nhiêu thứ việc, không thức tỉnh rằng mình phải quí từng tấc bóng, đừng đuổi theo việc bên ngoài. Nếu mải đua theo khoái lạc, dính mắc với phồn hoa, khi nhìn lại đầu đã bạc mà mình vẫn chưa tỉnh, thì chẳng những các con hạc kêu vang nhắc nhở mà đám cỏ hoa cũng cười thầm. Tu không ra gì thì phải hổ thẹn với tất cả chim chóc cỏ cây.

            Từ đến đây!

            Non nước đà quen;

            Người từng mấy phen.

Ngài đi tới đây quen với non nước và đã mấy phen lên xuống.

            Đầu khách dễ nên biến bạc;

            Mặt non hãy một xanh đen.  

Người khách mấy phen lên xuống núi này, đầu nay biến thành bạc, nhưng núi vẫn còn xanh. Những hình ảnh này rất đẹp, nhắc chúng ta: Đã mấy phen lên núi, nhìn lại đầu đã bạc trắng núi vẫn còn xanh.

            Hồ nước giá lựa là lọc nước;

            Cửa tráu cây phên trúc cài then.

Không cần phải lọc nước, đã có sẵn hồ nước lạnh rồi. Cửa tráu tức là cửa rào bằng những tấm phên tre làm then cài.

            Đàn khúc nhạc tiếng khong tiêu đính.

            Vỗ tay ca cách lễ lạ liền.

Có hai từ ngữ tìm nghĩa không được là tiêu đính và cách lễ, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đại khái những câu này. Khong là khen. Nghĩa là đàn những khúc nhạc được tiếng khen tiêu đính. Vỗ tay ca, tiếng hát của mình làm cho mọi người đều thích thú, đó là tiếng hay tiếng lạ. Đây là Ngài nói về nếp sống của Ngài khi đến Yên Tử

            Lạ những ôi!

            Tây Trúc dường nào;

            Nam châu có mấy.

Cảnh này lạ làm sao, Tây Trúc cũng không hơn, Nam châu không có mấy nơi bì được.

            Non Linh Thứu ai đem về đây;

            Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đấy.         

Ngài so sánh núi Yên Tử giống như núi Linh Thứu từ Ấn Độ ai đem về đây. Núi Linh Thứu ở Ấn Độ, phía đông bắc thành Vương Xá nước Ma-kiệt-đà, nơi Phật thuyết kinh Pháp Hoa và các kinh Đại thừa, dưới thung lũng là thành Vương Xá. Thuở xưa nước Ma-kiệt-đà rất tin kính Phật nên cúng dường Phật ngọn núi, Ngài lên đó thuyết pháp, hiện nay nơi đó còn nền thất của Phật và nền thất của ngài A-nan. Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đấy là cảnh núi Phi Lai ở đây thấy rõ ràng. Phi Lai ở phía đông núi Linh Ẩn thuộc Hàng Châu Trung Quốc. Đời Tấn có nhà sư Ấn Độ tên là Tuệ Lý (dịch ra tiếng Trung Hoa) lên núi này, nói núi này giống một ngọn núi nhỏ ở giữa dãy Linh Thứu, không biết bay đến đây từ bao giờ, nên gọi là Phi Lai (phi là bay, lai là đến). Chùa Linh Ẩn nằm trên núi Linh Ẩn, đó là vùng đẹp nhất, trong núi người ta đục hình tượng Phật, nên khách du lịch lên núi Linh Ẩn viếng cả ngày cũng chưa hết cảnh.

Hai câu này nói rằng núi Linh Thứu, cảnh Phi Lai so với núi Yên Tử cũng không hơn.

            Vào chưng cõi thánh thênh thênh;

            Thoát rẽ lòng phàm phây phấy.

Chưng là nơi, thênh thênh là không bờ mé. Người vào được cõi thánh rồi, lòng thấy thênh thang không có bờ mé. Thoát rẽ lòng phàm là thoát khỏi lòng phàm, phây phấy là phơi phới. Người thoát được lòng phàm sẽ thấy nhẹ nhàng phơi phới.

            Bao nhiêu phong nguyệt, thề thốt chẳng cùng;

            Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy.

Người lên đến núi thấy cảnh trời nước, gió trăng, thì thề thốt không biết bao nhiêu lời. Hễ cảnh giang sơn, ai nhìn thấy đấy, nhưng cảnh núi sông này có ai thấy được thực trạng của nó.

            Từ trước nhẫn sau;

            Thấy sao chép vậy.

Từ trước đến nay Ngài ở núi Yên Tử thấy sao chép vậy, không thêm gì cả.

Kệ rằng:

            Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,

            Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.

            Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã,

            Hôm mai rửa sạch nước ma-ha.

            Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,

            Thế sự hiu hiu gió thổi qua. 

            Cốc được tính ta nên Bụt thực,

            Ngại chi non nước cảnh đường xa.

Bài kết thúc rất là đẹp.         

Rũ không thay thảy ánh phồn hoa là buông hết không còn vướng bận chuyện phồn hoa thị thành.

Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà, vào chốn rừng thiền lấy đó làm nhà cửa.

            Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã,

            Hôm mai rửa sạch nước ma-ha.

Hôm sớm được sáng rỡ bằng ngọn đèn bát-nhã;  ngày nay, ngày mai rửa sạch tất cả bụi trần bằng nước ma-ha. Ma-ha là tên của bát-nhã (Ma-ha bát-nhã ba-la-mật đa). Nghĩa là thắp sáng ngọn đèn bát-nhã nơi mình, rồi mượn nước bát-nhã rửa sạch tất cả bụi trần.

            Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,

            Thế sự hiu hiu gió thổi qua. 

Lòng thiền sáng vằng vặc như mặt trăng rọi lên chái nhà. Việc đời hiu hiu như gió thổi qua mất, không dính với mình. Giả sử chúng ta đang ở trên non tu hành bình an thanh tịnh, bất thần có người về quê thăm nhà lên báo tin cha mẹ mình bệnh, hoặc gặp những chuyện không vui, thế sự đưa tới, chúng ta sẽ ra sao? Lòng mình xao xuyến bất an! Còn ở đây Ngài nói thế sự hiu hiu gió thổi qua, việc đời giống như gió thổi nhè nhẹ qua, không có gì phải bận bịu, phải rối lòng.

            Cốc được tính ta nên Bụt thực,

            Ngại chi non nước cảnh đường xa.

Cốc là biết. Biết được tính ta là Phật thật thì không ngại, không sợ sệt đường xa hiểm trở, cứ tìm đến tận nơi tận chốn mà tu cho đạt được kết quả. Như vậy bài kệ kết thúc rất đầy đủ tinh thần chỉ dạy chúng ta tu thế nào để đạt được kết quả tốt.

Nhân đây chúng tôi giải thích lý do vì sao ngài Huyền Quang khiến cho dòng Trúc Lâm đến đây xem như chấm dứt. Nhiều người thắc mắc tại sao hệ phái Trúc Lâm sau đời ngài Huyền Quang không còn thấy tăm hơi gì nữa. Theo cái nhìn của riêng tôi có những lý do làm phái thiền Trúc Lâm mất dạng sớm.

- Lý do thứ nhất là Thiền sư Huyền Quang được ngài Pháp Loa trao tâm kệ và y bát để nhận trách nhiệm làm Tổ thứ ba của hệ phái Trúc Lâm, lúc Ngài đã bảy mươi bảy tuổi. Một con người đến tuổi đó là đã mệt mỏi rồi, không còn thích làm việc nữa.

Trong bài kệ “Đề Chùa Cứu Lan”, Ngài nói mình không xứng đáng tiếp nối dòng Tổ, thôi thì bỏ về núi quách cho rồi. Đó là tâm trạng của Ngài khi lãnh một trách nhiệm quá lớn mà tuổi đã già, không còn sức để làm nữa nên ngao ngán muốn giao lại cho người khác để về núi ẩn tu. Lại Ngài là thi sĩ, là nghệ sĩ, nên tâm hồn thích được tự do phóng khoáng, không thích bị ràng buộc, thì làm sao gánh vác được việc tổ chức lớn lao của hệ phái Trúc Lâm?

- Lý do thứ hai là vì thời đó vua Trần Nhân Tông đi tu nên ở thế gian người ta rất quí người tu, không ai dám chạm đến chư Tăng. Vua còn đi tu thì còn trách ai được nữa, nên khi gặp cảnh khó khổ ai cũng thích vào chùa tu cho khỏe, chớ không phải tu để thành Phật. Vì thế thời đó có rất nhiều người đi tu. Sử ghi năm 1344 do mất mùa đói thiếu nên có sáu ngàn một trăm hai mươi chín người đi tu. Như vậy người tu không phải là hảo tâm xuất gia, không phải quyết chí cầu thành Phật, mà tu để lánh nạn đói thiếu nên ở trong chùa trở thành lôi thôi và suy sụp, đó cũng là duyên cớ để những nhà nho chỉ trích.

- Lý do thứ ba là thời ấy đang có sự tranh chấp ý thức hệ giữa Phật và Nho. Đời Trần đã mở khoa thi cho các nhà nho nên cuối đời Trần, các nhà nho đã giữ những chức vụ quan trọng trong triều đình. Phật giáo lúc đó lại đang xuống thấp, muốn cho nho gia càng được trọng dụng, các nhà nho phải chỉ trích, vạch cho nhà vua và triều đình thấy những lỗi lầm, những điều xấu tệ của người theo Phật để không còn tin Phật nữa, đó là lý do khiến Phật giáo càng xuống mạnh hơn.

- Lý do thứ tư, giáo hội thời đó là giáo hội của triều đình. Vua làm Tổ lãnh đạo, dưới vua là ngài Pháp Loa, được triều đình cúng ruộng đất; công chúa và các hoàng thân đi tu theo Ngài. Như vậy giáo hội xuất phát từ trong triều đình. Nhưng qua các đời Trần Anh Tông, Trần Minh Tông… đến đời Trần Nghệ Tông trở về sau, triều đình suy yếu dần, nhà vua mất quyền, khi chuyển qua nhà Hồ thì Phật giáo hết chỗ tựa, nên ngang đó không còn có mặt ở triều đình nữa. Hết nhà Hồ đến lệ thuộc nhà Minh, rồi đến nhà Lê, tất cả những công thần của nhà Trần, nhà Hồ không thích, nhà Minh không chịu, nhà Lê lại càng không ưa. Như vậy cả ba triều đại đều không thích những người thân với nhà Trần, nên những vị tăng được ủy quyền để lo cho giáo hội Trúc Lâm thời đó đương nhiên phải ẩn trong rừng núi hoặc đổi tên họ chớ không dám lộ mặt. Đã đi ẩn thì đâu còn ai mà ghi người nối tiếp hệ Trúc Lâm. Thế là vì ảnh hưởng chính trị nên chư Tăng thời đó tuy vẫn còn nhưng không ai dám tự xưng là kế thừa hệ Trúc Lâm, thành ra hệ Trúc Lâm xem như mất.

Lại thêm một điều nữa là sau này vào đời Lê, người viết sử là các nhà nho vốn không có cảm tình với Phật giáo, nên những việc hay của đạo Phật nhưng không liên hệ tới triều đình, các nhà viết sử không ghi. Vì thế từ cuối đời Trần đến đời Hồ, thời Minh thuộc, đời Lê tuy cũng có nhiều việc rất hay trong Phật pháp nhưng không được ghi lại nên thời gian đó xem như không có sự liên hệ trước sau. Một bằng chứng cụ thể là từ xưa đến nay, đọc sử, tôi không thấy câu chuyện vua Lê Hy Tông đuổi Tăng Ni về núi, sau được ngài Tông Viễn đến dùng phương tiện dâng ngọc đánh thức vua Lê. Khi thức tỉnh, nhà vua hối hận lỗi trước, xem ngài Tông Viễn như một Quốc sư và nhà vua phát tâm quì để tượng Phật trên lưng sám hối. Hình ảnh tại chùa Hòe Nhai vẫn còn mà sử không ghi, do đó chúng ta thấy những gì làm giảm giá trị nhà vua thì không được ghi lại. Thế nên sử sách thời Lê đối với Phật giáo rất là thiếu, chúng ta thấy như hệ Trúc Lâm Yên Tử ngang đó là dứt, nhưng thật ra không phải. Sau đây là danh hiệu hai mươi ba vị Tổ truyền thừa Yên Tử từ Hiện Quang Tổ sư đến Vô Phiền Đại sư, trong sách Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục (quyển hai) của Phúc Điền Hòa thượng đính bản:

1. Hiện Quang Tổ sư là vị Tổ đầu tiên ở Trúc Lâm.

2. Viên Chứng Quốc sư.

3. Đại Đăng Quốc sư.           

4. Tiêu Dao Tổ sư là Tổ thứ tư, Ngài không phải là người Trung Hoa, nhưng trong bài tựa của Thiền sư Huệ Nguyên ghi Ngài là người Trung Hoa, đó là sai.

5. Huệ Tuệ Tổ sư.

6. Nhân Tông Tổ sư (như vậy Sơ tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông là vị thứ sáu).

7. Pháp Loa Tổ sư.

8. Huyền Quang Tổ sư (ngài Huyền Quang là vị thứ tám trong hệ đó).

9. An Tâm Quốc sư.

10. Phù Vân tức hiệu là Tĩnh Lự Quốc sư.

11. Vô Trước Quốc sư.

12. Quốc Nhất Quốc sư.

13. Viên Minh Tổ sư.

14. Đạo Huệ Tổ sư.

15. Viên Ngộ Tổ sư.

16. Tổng Trì Tổ sư.

17. Khuê Thám Quốc sư.

18. Sơn Đằng Quốc sư.        

19. Hương Sơn Đại sư.

20. Trí Dũng Quốc sư.

21. Tuệ Quang Tổ sư.

22. Chân Trú Tổ sư.

23. Vô Phiền Đại sư.

Như vậy sau ngài Huyền Quang tức là đời thứ tám, còn mười lăm đời nữa chớ không phải là dứt, nhưng sở dĩ chúng ta không thấy ghi là vì lúc đó các Ngài ẩn hết, không xuất đầu lộ diện và không nói rõ là truyền thừa hệ nào.

Tóm lại vì ngài Huyền Quang đã già nên Ngài vội vã truyền cho ngài An Tâm, ngài An Tâm là người đứng ra đảm nhận trách nhiệm, nhưng vì thời Trần đã suy, các Ngài kế thừa dòng Trúc Lâm ẩn tránh và sự ghi chép lại mất mát khiến cho ngày nay chúng ta không thấy được sự truyền thừa liên tục rõ ràng trong sử sách.

Học qua các Thiền sư đời Trần chúng ta thấy có hai nét rất quan trọng về ngài Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Ngài là một con người mẫu mực, lúc ở triều đình là một ông vua xứng đáng trong việc trị dân, khi đi tu quả thật là một ông thầy đầy đủ đức tính làm cho Phật pháp được rạng rỡ. Dưới Ngài, ngài Pháp Loa cũng là người vừa nhiệt tình, vừa mẫu mực nên sự truyền bá được rộng lớn đông đảo. Nhưng đến ngài Huyền Quang thì do nghệ sĩ tính của Ngài và việc giáo hóa của Ngài dường như không được kể đủ, nên việc giảng kinh hay là tham vấn, chúng ta không thấy ghi lại, chỉ thấy những bài thơ. Thế nên chúng ta biết ở trong đạo, nếu người tu có đủ quyết tâm, nhiệt tình và có đủ hạnh kiểm làm mẫu mực cho chúng thì mở mang rộng. Còn nếu một nhà sư mà mang tư cách nghệ sĩ tính, cứ truyền bá theo sở thích, tay cầm dùi mõ tay cầm sáo thì sự truyền bá không được rộng, không được nhiều, đó là điều cụ thể. Thế nên tôi mong dưới tôi tất cả Tăng Ni đều là những người quyết tâm tu, nhiệt tình lo cho đạo và luôn luôn là người mẫu mực, bớt tính nghệ sĩ một chút; nếu không, hẳn sự lo cho đạo không bền lâu. Đó là kinh nghiệm để nhắc nhở toàn chúng.

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM