THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT VÀ THI TỤNG CÁC THIỀN SƯ ĐỜI LÝ Giảng Giải

H.T THÍCH THANH TỪ

PHẦN I: THAM  ĐỒ  HIỂN  QUYẾT CỦA THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU

Dịch: THIỀN SƯ VIÊN CHIẾU

999 - 1090 (Đời thứ 7, Dòng Vô Ngôn Thông)

Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm , là con người anh bà Linh Thái hậu vợ vua Lý Thái Tông . Thủơ nhỏ Sư rất thông minh và hiếu học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bổn quận có vị trưởng lão giỏi về tướng số liền đến nhờ xem. Trưởng lão sem xong bảo: Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ tát, bằng không thì việc thọ yểu khó giữ.

Cảm ngộ lời đoán này, Sư từ giả cha mẹ đến ấp Tiêu Sơn thọ giáo với Định Hương trưởng lão. Ở đây phục dịch nhiều năm để thâm nghiêm thiền học,Sư thường trì kinh Viên Giác tinh thông pháp tam quán. Một đêm, Sư thấy Bồ tát Văn Thù cầm dao mổ bụng Sư, rửa ruột và trao cho diệu dược. Từ đây những sở tập trong tâm rõ ràng khế hợp, sâu được ngôn ngữ tam muội, giảng khinh thuiết pháp thao thao.

Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long, dựng một ngôi chùa để hiệu là  Các Tường và trụ trì ở đó. học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông.

Có vị tăng hỏi :

- Phật và Thánh khác nhau thế nào ?

 Sư đáp :

            Trùng dương cúc ở dưới rào,

            Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.

             (Ly hạ trùng dương cúc ly đầu thục khí oanh ).

Tăng thưa :

Cảm tạ thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra.

Sư đáp :

            Ngày thì vần trăng chiếu,

            Đêm đến ánh trăng soi.

             (Trú tắc kim ô chiếu, dạ lai ngọc thố minh).

Tăng hỏi :

Đã được thân chỉ của thầy, còn huyề cơ thì dạy thế nào ?

Sư đáp :

            Bưng thau nước đầy không chú ý,

            Một lúc sẩy chân hối ích gì !

            (Bất tận thủy bàn kình mãn khứ, nhất tao tha điệt hối hà chi.)

Tăng hỏi :

Tất cả chúng sanh từ đâu mà đến ? Sau khi chết đi về đâu ?

Sư đáp :

            Rùa mù dùi vách đá,

            Trạnh qùe trèo núi cao.

            (Manh quy xuyên thạch bích, bả miết thướng cao sơn).

Tăng hòi :

Tâm và Pháp cả hai đều quên, tánh tức  chân ; thề nào là chân ?

Sư đáp :

            Hoa núi mưa sa, thần nữ khóc,

            Tre sân gió thổi, Bá Nha đờn.

            (Vũ trích nham hoa thần nữ lệ, phong sao đình trúc Bá Nha cầm.)

Sư có soạn “ Dược Sư dược Nhị Nguyện Văn”, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo sứ thần sang Trung Hoa dân vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem song các Ngài tâu vua Tống rằng :

Đây là nhục thân Bồ tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.

Vua Tống liền sắc sao lại một bản, bản chính trả lại cho vua ta. Sứ thần kinh về tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư.

Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ VI (1090)đời vua Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:

Trong thân ta đây, xương, lóng ,gân mạch... bốn đại hòa hợp, ắt phải có vô thường. Ví như gnôi nhà khi hoại, nóc mái xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ :

Âm :

            Thân như tường bích dĩ đồi thì,

            Cử thế thông thông thục bất bi,

            Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,

            Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.

 Dịch :

            Thân như tường vách đã lung lay,

            Đau đáu người đời luống xót thay

            nếu đạt tâm không không tướng sắc,

            Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.

Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ 92 tuổi, 56 tuổi hạ.

Tác phẩm gồm có:

            Tán Viên Giác Kinh.

            Thập Nhị Bồ Tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.

            Tham Đồ Hiển Quyết, 1 quyển.

            Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.

Giảng :

“Thiền Sư Viên Chiếu sinh năm 999 tịch năm 1090, đời thứ 7 dòng Vô Ngôn Thông. Sư họ Mai tên Trực, quê ở Phước Đường, Long Đàm, là con người anh bà Linh Thái hậu vợ vua Lý Thái Tông” Long Đàm là tên huyện, nay tuộc huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội. Cha Ngài là anh của bà Linh Cảm Thái hậu, tức là anh vợ vua Lý Thái Tông.

“Thuở nhỏ Sư rất thông minh và hiếu học, nghe ở chùa Mật Nghiêm trong bổn quận có vị trưởng lão giỏi về tướng số liền đến nhờ xem. Trưởng lão xem xong, bảo :

Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ Tát, bằng không thì việc thọ yểu khó giữ”.

Trưởng lão nói ‘... thọ yểu khó giữ ‘ là do trưởng lão thấy tướng Ngài yểu mà nói, hay vì thấy tư chất Ngài thông minh đĩnh đạc, muốn Ngài đi tu để làm lợi ích cho Phật pháp nên nói như thế để dọa. Câu này có tác dụng làm cho người nghe sợ chết yểu phải đi tu. Phần đông tu sĩ chúng ta chủ quan thấy ai còn trẻ, thông minh khôi ngô đến chùa thưa hỏi điều gì là khuyến khích đi tu, hoặc khuyến khích trực tiếp hay gián tiếp. Vị trưởng lão này không trực tiếp khuyến khích Ngài tu, mà chỉ nói nếu xuất gia sẽ là vị thiện Bồ tát, bằng không thì việc sống lâu hay chết yểu khó lường được. Nghe nói vậy đâu ai có gan ở ngoài đời, đành phải đi tu. Đó là cái khéo cuả trưởng lảo.

“Cảm ngộ lời nói này, Sư từ giả cha mẹ đến ấp Tiêu Sơn thọ giáo với Định Hương trửng lão. Ở đây phục dịch nhiều năm để thâm nghiêm thiền học, Sư thường trì kinh Viên Giác, tinh thông pháp Tam quán”. Ngài trì pháp Tam quán cuả Kinh Viên Giác đến thông suốt. Điều này cho chúng ta thấy Ngài vừa tu thiền vừa trì kinh, chớ không phải chỉ chuyên về thiền. Tam quán của Kinh Viên Giác : Xa ma tha, Tam ma bát đề, Thiền na, dịch như thế thì đơn giản và dễ hiểu.

Kinh Viên Giác giải Xa ma tha là dừng lặng, người muốn cầu tánh Viên Giác nơi mình thì dùng tâm tỉnh giác quán chiếu, lấy lặng lẽ làm hạnh, đối cảnh nhiểm tịnh tâm không duyên theo là thể chân chỉ. Nhớ là thể chân chỉ, chớ không phải là kềm chế một chổ. Thể chân chỉ là dừng ở bản thể chân tâm. Như vậy ở đây khác với chỉ thông thường, chỉ thông thường là chú tâm vào một cảnh cho tâm an định. Còn chỉ ở đây là đối cảnh nhiểm tịnh không theo, tức là dừng ngay bản thể chơn tâm nơi mình, không phải dừng ở cảnh bên ngoài. Quý vị phải hiểu chổ này cho rõ, kẻo lầm với pháp tu chỉ khác. Pháp tu chí này tương đương với Không quán cuả tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai cũng chia Tam quán là Không quán, Giả quán và Trung quán.

Tam ma bát đề ở đây dịch là đẳng chí, nghĩa là đến một cách bình đẳng, xa lià hôn trầm trạo cử gọi là đẳng. Người tu thiền đa số đều mắc bệnh hôn trầm và trạo cử, lià được hai bệnh này thì tâm bình đẳng an hòa, không còn bị trạo cử làm rối, không bị hôn trầm làm mê, bình đẳng ở chổ đó. Nói cách khác là trung hòa giữa trạo cử và hôn trầm, đến chổ an hòa gọi là đẳng gọi là chí. Người muốn cầu Viên Giác nơi mình, dùng tâm tỉnh giác biết rõ tâm thức và căn trần đều do nhân huyễn hóa mà có, liền khởi quán huyễn để trừ các huyễn. Nghĩa là thấy các pháp đều là huyễn hóa, do mê lầm nên chấp nó là thật. Bây giờ phải quán huyễn để trừ mê lầm, dứt cái chấp huyễ là thật, gọi là trừ huyễn. Đây là phương tiện tùy duyên quán, tức là tùy duyên trải qua các cảnh mà tâm an không động. Nói cách khác là thấy tất cả pháp như huyễn, hay thấy căn, trần và tâm thức đều là tướng huyễn hóa, nên tâm an không động. Tâm thức thuộc về thọ, tưởng, hành, thức, hay thuộc về ý, do các duyên sanh ra, không phải là thể tánh của tâm. Chổ này tôi thường nhắc tăng ni ‘tu biết vọng ‘ xả bỏ vọng niệm, lâu ngày thấy hơi đau đầu thì nên khởi quán thân này và ngoại cảnh đều là tướng huyễn hóa, để khỏi quay lại quán nội tâm. Nhờ thấy thân tứ đại và ngoại cảnh bên ngoài, do duyên hợp huyễn hóa không thật nên mắt thấy cảnh tâm không xao động không dính mắc. Quán bên ngoài thì không kềm chế bên trong do đó không bị đau đầu. Tu như thế gọi là ‘hay tùy duyên trải qua các cảnh mà tâm an không động ‘. Tuy vẫn thấy cảnh này cảnh nọ khác nhau, song tất cả tướng khác ấy đều là huyễn hóa không thật nên tâm không dính mắc không động. Đó cũng là một phương tiện an tâm. Thế nên nói pháp quán này tương đương với Giả quán của tông Thiên Thai. Về sau Ngài dịch qúa đơn giản, Tam ma bát đề dịch là quán, không dịch là đẳng chí.

Thiền na dịch là tịnh lự, tịnh là định, là tâm không dấy niệm xao động, lự là tuệ, là quán chiếu soi sét các pháp thấy đúng như thật. Người muốn cầu Viên Giác dùng tâm tịnh giác thấy các pháp thường yên lặng, không khởi quán càc pháp huyễn hóa. Khéo tùy thuận cảnh giới lặng lẽ, tức là đối cảnh mà tâm vẫn lặng lẽ. Thay vì đối cảnh phải quán huyễn hóa, nhưng không quán mà tùy thuận các cảnh tâm vẫn lặng lẽ, gọi là nhị biên chỉ. Nhị biên là hai bên, bên chỉ và bên quán đều lặng lẽ, tức là không phân biệt sanh tử và Niết bàn. Thường thì chúng ta hoặc đắm mê sanh tử hoặc ưa thích Niết bàn, nhưng tu tới đây thì không còn thấy sanh tử và Niết bàn là hai tướng đối đãi nữa. Tất cả tướng đối đãi : có không, phải quấy, tốt xấu... là kiến chấp hai bên đều hết sạch, Chỉ và Quán ở trước không còn. Đó là Thiền na, tương đương với Trung quán của tông Thiên Thai.

Ba pháp Chỉ, Quán và Thiền na là ba pháp tu cương yếu của kinh Viên Giác, thiền sư Viên Chiếu nghiên cứu lâu ngày được thâm nhập. Ngài tu thiền mà thâm nhập ba pháp quán của kinh Viên Giác, như vậy là Ngài vừa thông giáo vừa đạt lý thiền. Giống như thiền sư Tông Mật sau khi được truyền tâm ấn, Ngài tiếp nhận kinh Viên Giác, xem chưa hết, cảm ngộ rơi nước mắt. Như vậy thiền sư Viên Chiếu ở Việt Nam và thiền sư Tông Mật ở Trung Hoa vừa hội lý thiề vừa thông lý kinh Viên Giác. Kinh Viên Giác là bộ kinh Đại Thừa dạy tu thiền rất cao, phù hợp với đường lối tu của Thiền Tông. Bởi thế kinh và thiền không tách rời mà liên hệ rất chặt chẽ.

‘ Một đêm trong thiền định, Sư thấy Bồ Tát Văn Thù cầm dao mổ bụng Sư, rửa ruột cho và trao diệu dược. Từ đây những sở tập trong tâm rõ ràng khế hợp, sâu được ngôn ngữ tam muội, giảng kinh thuyết pháp thao thao ‘. Chổ này hơi khó hiểu nhưng có thật. Tại sao khó hiểu ? Trong thiền định lẽ ra không được mê, mà Ngài thấy Bồ tát Văn Thừ cầm dao mổ bụng, rửa ruột rồi cho thuốc hay. Vậy lúc đó Ngài tỉnh hay mê? Nếu tỉnh thì không có mộng, mà mộng thì không tỉnh. Thật ra việc này hơi huyền bí, nhưng thường xảy ra ở các thiền sư. Tức là trong khi định dường như mê, song đây  là việc mầu nhiệm trong đạo, khó mà giải thích. Bồ tát Văn Thù là căn bản trí là trí gốc. Có sẵn nơi mỗi người, cầm dao mổ bụng rửa ruột là dẹp sạch hết vô minh phiền não, trao cho diệu dược là phát ra diệu dụng. Từ đó Ngài sạch hết vô minh phiền não, cho nên từ khi mộng về sau, những sở tập nơi tâm Ngài được khế hợp. Ngài không đắn đo, cần thì phát ngôn không nghĩ được ngôn ngữ tam muội giảng kinh thuyết pháp thao thao. Ngôn ngữ tam muội là nói năng trong chánh định. Nói năng là động làm sao định được ? Sở dĩ ở đây nói ngôn ngữ tam muội là vì người nhập được thể Viên Giác rồi, lúc nói không suy nghĩ, không đắn đo, cần thì phát ngôn không nghĩ ngợi, nên nói ngôn ngữ tam muội. Người thường người thường muốn nói phải suy nghĩ lựa lời rồi mới nói, nói như thế chưa phải là ngôn ngữ tam muội. còn Ngài thì giảng nói thao thao, không lắp bắp ngần ngại nên gọi là ngôn ngữ tam muội. Quý vị mai kia sáng đạo, bất cứ ai hỏi câu gì, cũng trả lời thao thao và hợp đạo, đó là quý vị đã được ngôn ngữ tam muội.

‘ Về sau, Sư tìm đến phía tả kinh đô Thăng Long, dựng một ngôi chùa để hiệu là Càt Tường và trụ trì ở đó. Học giả bốn phương tìm đến tham vấn rất đông’. Càt là tốt, tường là lành, càt tường là tốt lành. Ngôi chùa Ngài dựng ở phía tả kinh đô Thăng Long với cái hướng tốt lành, nên người khắp nơiđến tham vấn rất nhiều. Phần tham vấn chúng tôi không giảng ở đây, vì trong Tham Đồ Hiển Quyết, nên chúng tôi thông qua phần này.

‘ Sư có soạn Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn, vua Lý Nhân Tông đưa bản thảo cho sứ thần sang Trung Hoadâng cho vua Triết Tông nhà Tống. Vua Triết Tông trao cho các vị cao tọa pháp sư ở chùa Tướng Quốc xem. Xem xong, các Ngài tâu vua Tống rằng :

Đây là nhục thân Bồ-tát ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi đâu dám thêm bớt chữ nào.

Vua Tống liền sắc sao một bản, bản chính liền trả lại cho vua ta. Sứ thần về kinh tâu lại, triều đình càng kính nể và khen thưởng Sư”.

Ngày xưa người Trung Hoa tự xem nước họ là nước lớn ở giữa, những nước nhỏ ở chung quanh, họ cho là những nước nhược tiểu. Việt Nam chúng ta cũng bị ở trong cảnh đó, vì vậy mỗi năm phải triều cống để giữ mối giao hòa. Và, văn học của chúng ta ngày xưa cũng bị lệ thuộc Trung Hoa, nên họ rất xem thường người Việt Nam. Thế mà khi đọc quyển Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn của thiền sư Viên Chiếu, các vị pháp sư đều khen và nói không dám thêm bớt một chữ. Đó là lòng kính trọng của họ đối với Ngài người nước nhược tiểu, khiến cho vua và triều đình Việt Nam càng kính trọng Ngài.

“Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ 6 (1090) đời Lý Nhân Tông, Sư không bệnh gọi môn đồ vào dạy:

- Trong thân ta đây, xương lóng gân mạch, bốn đại hòa hợp, ắt phải vô thường. Ví như ngôi nhà khi hoại, nóc mái, xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy nghe ta nói kệ:

            Thân như tường bích dĩ đồi thì,

            Cử thế thông thông thục bất bi.

            Nhược đạt tâm không vô sắc tướng,

            Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.

Dịch :

            Thân như tường vách đã lung lay,

            Đau đáu người đời luống xót thay.

            Nếu đạt tâm không, không tướng sắc,

            Sắc không ẩn hiện mặc vần xoay.

Nói kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ 92 tuổi, 56 tuổi hạ.

Tác phẩm gồm có:

- Tán Viên Giác Kinh.

- Thập Nhị Bồ-tát Hạnh Tu Chứng Đạo Tràng.

- Tham Đồ Hiển Quyết.

- Dược Sư Thập Nhị Nguyện Văn.

Các tác phẩm của Ngài đều bị mất, chỉ còn quyển Tham Đồ Hiển Quyết, chúng ta đang học đây. Bây giờ tôi giảng nghĩa bài kệ cho quí vị hiểu. “Thân như tường bích dĩ đồi thì, cử thế thông thông thục bất bi”. Ngài nói thân tứ đại này như tường vách đã lung lay hư sụp. Tất cả người đời khi thấy thân tứ đại lung lay hư hoại ai cũng buồn bã xót thương. “Nhược đạt tâm không vô sắc tướng, sắc không ẩn hiển nhậm suy di”. Nếu thấu suốt được tâm không, tức là không còn thấy tướng đối đãi hai bên thì sắc hay không ẩn hiện tùy nó đổi dời. Nếu người tu chúng ta ai cũng thấy tường tận như vậy thì khi nhắm mắt chỉ nở nụ cười chớ không buồn, ngược lại thì khi nhắm mắt buồn lo. Hai câu đầu nói lên tâm trạng của người thế gian, đối với thân tứ đại này, khi bảy tám mươi tuổi, già yếu giống như tường vách xiêu vẹo lung lay, tuy nó lung lay sắp ngã sắp chết, mà vẫn thương tiếc không đành lòng bỏ đi. Đó là tâm lý chung của những người mê thương tiếc thân. Là người tỉnh đạt được tâm thể vốn rỗng lặng, không bị tướng sắc tướng không đối đãi làm phiền lụy, chỉ là một tâm thể thênh thang rỗng lặng thì, mặc tình thân này sinh hay tử không buồn lo thương tiếc. Tôi mong rằng tất cả chúng ta tu ở đây, tới lúc xả bỏ thân xác này, ai cũng được tâm thái như hai câu kệ mà chúng ta vừa học. Đây là phần lịch sử chứng minh chỗ đạt đạo của Ngài. Do đó thiền khách đến thưa hỏi, Ngài tùy duyên đối đáp rất linh động và chính xác; đối với giáo điển cũng như đối với Thiền tông không có chỗ nào đáng cho chúng ta nghi ngờ.

 

]

 
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM