THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG
Thiền sư Chân Không tên thật là Hải Thiềm,
quê làng Phù Đổng huyện Tiên Du dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi đời thứ 16. Tiểu sử
của Ngài được in trong quyển Thiền Sư Việt Nam, trang 137 cùng tác giả.
Sau đây là một đoạn đối đáp giữa Ngài với
các thiền tăng đến hỏi đạo:
Khi Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phổ
Lại, có vị tăng đến hỏi:
- Thế nào là diệu đạo?
Sư đáp:
- Sau khi giác rồi mới biết.
Tăng hỏi:
- Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời
dạy hôm nay làm sao hội được?
Sư đáp:
Nếu đến tiên gia trong động sâu,
Hoàn đan hoán cốt được mang về.
Tăng hỏi:
- Thế nào là hoàn đan?
Sư đáp:
Nhiều kiếp tối tăm không hiểu
thấu,
Hôm nay chợt ngộ được khai minh.
Tăng hỏi:
- Thế nào là khai minh?
Sư đáp:
Khai minh chiếu khắp cõi Ta bà,
Tất cả chúng sanh chung một nhà.
Tăng lại thưa:
- Tuy nhiên không biện rõ.
Sư đáp:
- Chốn chốn đều gặp y.
Tăng hỏi:
- Cái gì là y?
Sư đáp:
Kiếp hoả cháy tan mảy may sạch,
Núi xanh như cũ, mây trắng bay.
Tăng hỏi:
- Khi sắc thân bại hoại thì thế nào?
Sư đáp:
Xuân đến, xuân đi ngỡ xuân hết,
Hoa nở hoa tàn chỉ là xuân.
Tăng suy nghĩ. Sư quát rằng:
Đất bằng sau nhiều năm,
Thực vật đều thơm ngát.
Tăng lễ bái.
Giảng:
“Khi Sư trụ trì chùa Chúc Thánh trên núi Phổ
Lại, vị Tăng hỏi: Thế nào là diệu đạo? Sư đáp: Sau khi giác rồi mới biết”.
Nếu có người hỏi chúng ta thế nào là diệu đạo thì chúng ta giải nghĩa diệu
là mầu nhiệm, diệu đạo là đạo mầu nhiệm, căn cứ trên chữ nghĩa giải thích,
người nghe không làm sao nhận ra diệu đạo được. Ở đây Ngài đáp sau khi
giác ngộ rồi thì biết. Ngài nói ra lẽ thật để cho vị tăng này nhận, nhưng
vị tăng ngày không nhận mới thưa tiếp:
“Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy
hôm nay làm sao hội được?” Vị tăng này nói từ trước tới giờ thầy chỉ dạy
con còn chưa rõ, lời dạy hôm nay làm sao con hội được? Ngài bảo:”Nếu đến
tiên gia trong động sâu, hoàn đan hoán cốt được mang về”. Hoàn đan là viên
thuốc, hoán cốt là đổi xương. Nếu đến động sâu của các ông tiên thì sẽ
được thuốc cải lão hoàn đồng, uống vô xương cốt biến già thành trẻ. Vị
tăng này muốn hiểu diệu đạo, Ngài bảo tu giác ngộ rồi sẽ biết. Nhưng ông
chưa nhận ra nên thưa “Giáo chỉ từ trước học nhân chưa rõ, lời dạy hôm nay
làm sao hội được?” Ngài mới dạy, nếu ông đến các động tiên thì sẽ thấy
được hoàn đan. Câu này lặp lại ý trên là ông muốn biết niệu đạo thì hãy tu
cho đến chỗ giác ngộ rồi sẽ biết. Nhưng vị tăng nghe nói hoàn đan liền
hỏi:
“Thế nào là hoàn đan?” Tăng không hiểu diệu
đạo mới hỏi, Ngài trả lời hoàn đan. Tăng hỏi thế nào là hoàn đan, Ngài lại
đáp:”Nhiều kiếp tối tăm không hiểu thấu, hôm nay chợt ngộ được khai minh”.
Nghĩa là nhiều kiếp ông mê muội quá, nếu ngộ trồi thì ông sẽ sáng mắt ra,
không cần giải thích. Vị tăng lại càng lúng túng hỏi thêm:
“Thế nào là khai minh?” Ngài đáp : “Khai
minh chiếu khắp cõi Ta bà, tất cả chúng sanh chung một nhà”. Nghĩa là tu
đến lúc giác ngộ thì tâm thanh tịnh sáng suốt chiếu khắp Tà bà, thấy tất
cả chúng sanh đều có tâm thể thanh tịnh như nhau, nên nói chung một nhà.
Đó là lời đáp rất khéo của Ngài.
Tăng lại thưa: “Tuy nhiên không hiện rõ”.
Ngài đáp:”Chốn chốn đều gặp y”. Vị tăng vẫn còn mù mịt nên nói con vẫn
chưa hiện rõ. Ngài khai thị tiếp nên nói nơi nào chốn nào cũng đều có y, y
không bao giờ thiếu vắng. Vị tăng lại càng mờ mịt, thưa:
“Cái gì là y?” Sư đáp: “ Kiếp hoả cháy tan
mây may sạch, núi xanh như cũ mây trăngs bay”. Vị tăng muốn biết cái gì là
y, Ngài đáp:”Kiếp hoả cháy tan mảy may sạch, núi xanh như cũ, mây trắng
bay”. Kiếp hoả là chỉ có kiếp hoại. Kinh Phật nói thế giới này trải qua
bốn thời ký thánh, trụ hoại, không. Ngài nói tuy kiếp hoả thiêu rụi thế
giới này thành tro bụi không còn gì cả, nhưng còn mây trắng bay qua ngọn
núi xanh. “Y” là chỉ cho thể chân thật. Vị tăng muốn biết thể chân thật là
gì. Ngài đáp, dù cho thế gian có bị luật vô thường làm cho tan hoại, nhưng
thể chân thật vẫn nguyên vẹn không mất. Thể chân thật biểu trưng qua ngọn
núi xanh sừng sững còn mãi với thời gian không gian.
Tăng hỏi: “Khi sắc thân bại hoại thì thế
nào?” Sư đáp: “Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết, hoa nở hoa tàn chỉ là xuân”.
Với cái nhìn của phàm phu thì thấy thân bại hoại là hết, nhưng với Ngài
thì thời gian có đến có đi, trăm hoa có nở có tàn, nhưng thể chân thật lúc
nào cũng tươi nhần, nên nói “chỉ là xuân”. Như vậy nếu chúng ta tu hành
đắc lực thì lúc nào cũng có mùa xuân, chẳng phải đợi lúc hoa mai nở mới có
xuân, hay hoa tàn là hết xuân, mà lúc nào cũng “chỉ là xuân”. Nếu chúng ta
chịu khó tu hành thì hạnh phúc an lạc có sẵn trong tầm tay không tìm kiếm
đâu xa cả.
Ở thế gian những gì mà người đời cho là hạnh
phúc đó chỉ là tạm bợ mong manh. Như thấy người giàu có của cải có vợ đẹp
con xinh, chúng ta cho rằng người đó đầy đủ hạnh phúc. Nhưng của cải tồn
tại lâu dài, hay nay ở trong tay người này mai sang tay người khác? Vợ đẹp
con xinh có đẹp xinh mãi, hay mai kia cũng ốm đâu bệnh tật nhan sắc tàn
phai? Người có địa vị cao sang có được hạnh phúc hoàn toàn không? Chẳng
hạn như ông vua uy quyền cao sanh nhất thiên hạ, cũng có khi bị phế làm
thường dân, hoặc bị giết hay tù đày khổ sở v.v.. Như vậy hạnh phúc ở thế
gian có gì bền chắc? Thế mà người đời cứ mãi đeo đuổi kiếm tìm, không biết
mặt trái của hạnh phúc trong cuộc đời có ngầm ngầm đau khổ. Quá thất suốt
lẽ này nên đức Phật, vua Trần Nhân Tông v.v... từ bỏ hết những danh vọng
cao sang để đi tu, tìm hạnh phúc chân thật cho mình và cho tất cả chúng
sanh.
Vậy hiện tại chúng ta đi tu bỏ hạnh phúc thế
gian để mong cầu những gì? Chúng ta bỏ hạnh phúc tạm bợ của thế gian thì
phải sống được với thể chân thật của chính mình mới đúng nghĩa của người
xuất gia. Đi tu không phải từ bỏ cái nhà thế tục, vào đạo lập cái chùa, có
một số đệ tử, rồi lo bảo vệ đồ đệ, cứ loanh quanh lẩn quẩn lo giữa cái
chùa, giữ đệ tử. Qua một thời gian, chùa sập, đệ tử mỗi người một nơi, rồi
cũng phiền não khổ đau như người thế gian. Tu như vậy hạnh phúc chân thật
không có, giống như người thế gian chỉ đua nhau đuổi bắt những cái tạm bợ
giả dối bên ngoài. Vậy thì người tu hành muốn hưởng hạnh phúc miên viễn,
lúc nào cũng “chỉ là xuân” thì phải giác ngộ nơi mình có thể chân thật,
hằng sống với nó để cứu khổ mình và cứu khổ mọi người. Tu như thế mới
hưởng được hạnh phúc lâu dài. Đó là giá trị chân thật cao tột của sự tu
hành.
Ngài đáp như vậy mà vị tăng không nhận ra.
“Tăng suy nghĩ. Sư quát rằng: “Đất bằng sau
nhiều năm, thực vật đều thơm ngát”. Tăng lễ bái”. Vị tăng nghe Ngài nói
“Xuân đến xuân đi ngỡ xuân hết, hoa nở hoa tàn chỉ là xuân”. Ông không
nhận ra lại suy nghĩ. Khi khởi nghĩ suy là tâm đã dậy sóng gió rồi, nên
Ngài quở: “Đất bằng sau nhiều năm, thực vật đều thơm ngát”. Câu này Ngài
chỉ cho vị tăng cách thức tu hành là phải giữ cho tâm thanh tịnh trong một
thời gian dài thì trí tuệ sáng ra, đừng suy nghĩ kiếm tìm khiến cho tâm
thêm động loạn. Những câu đáp của thiền sư Chân Không đã dẫn vị tới chỗ
rốt ráo chân thật là bặt hết suy tư. Có lẽ vị tăng này lãnh hội nên lễ
bái.
Kệ Thị Tịch: |