Âm :
Thượng vô phiến ngõa giá,
Hạ vô trác chùy địa.
Hoặc dịch phục trực nghệ,
Hoặc sách trượng nhi chí.
Chuyển động xúc xứ gian.
Tợ long dước thôn nhĩ.
Dịch :
Trên không mếng ngói che,
Dưới không đất cắm dùi.
Hoặc đổi áo thẳng đến,
Hoặc xách trượng mà đi.
Khoảng chuyển động xúc chạm.
Tợ rồng vẫy đớp mồi.
Giảng :
“Thượng vô phiến ngõa giá,, hạ vô trác chùy
địa”. Trên không có miếng ngói che, dưới không có đất cắm dùi. Hai câu này
phát suất từ giai thoại thiền của Hoa Đình Thuyền Tử. Hoa Đình Thuyền Tử là
tên của thiền sư Đức Thành. Thiền sư Đức Thành cùng Vân Nham Đàm Thạnh, Đạo
Ngô Viên Trí là bạn đồng học thâm giao.
Khi rời Dược Sơn Sư bảo hai bạn :
Hai huynh mỗi người sẽ ở một nơi để dựng lập
tông chỉ Dược Sơn, riêng tôi tánh tình quê mùa, chỉ ưa sơn thủy làm vui thú.
Ngày sau hai huynh biết tôi ở đâu, giới thiệu cho một người, tôi sẽ đem
chuyện bình sanh thọ nhận trao lại, gọi là đền đáp ơn của tiên sư.
Chia tay nhau, Sư đến Tú Châu, sông Ngô, Bến
Hoa Đình làm người chèo đò tùy duyên độ nhật. Người thời ấy gọi Sư là Thuyền
Tử Hòa Thượng.
Sau này, thiền sư Viên Trí, Đạo Ngô có dịp đi
đến Kinh Khẩu, gặp ngài Thiện Hội thượng đường. Có vị tăng hỏi : “Thế nào là
pháp thân ?” Thiện Hội đáp : “Pháp thân không tướng”. Tăng hỏi : “Thế nào là
pháp nhãn ?” Thiện Hội đáp : “Pháp nhãn không vết”. Viên Trí bất chợt phát
cười.
Thiện Hội xuống tòa hỏi Viên Trí :
Tôi vừa đáp câu hỏi của tăng, chắc có chỗ
không đúng khiến Thượng tọa phát cười, xin Thượng tọa từ bi chỉ dạy.
Viên Trí bảo :
Hòa Thượng nhất đẳng (bật nhất) là đúng, về
phần xuất thế thì chưa có thầy.
Chỗ nào tôi không đúng, mong Thượng tọa vì tôi
nói phá.
Tôi hoàn toàn không nói, mời Hòa Thượng đến
Hoa Đình Thuyền Tử.
Người ấy như thế nào ?
Người ấy trên không có miếng ngói, dưới không
có mũi dùi. Hòa Thượng muốn đi xin đổi y phục.
Thiện Hội bèn giải tán chúng, sửa sang hành
lý, đi thẳng đến thiền sư Đức Thành.
Qua giai thoại này chúng ta thấy Thiện Hội là
người quyết tâm học đạo, biết mình còn khuyết, từ địa vị một tọa chủ giám
giải tán chúng, đổi y phục làm một thiền khách lang thang tìm thầy học đạo.
Khi thiền sư Viên Trí giới thiệu thiền sư Đức Thành thì Thiện Hội hỏi Đức
Thành là người như thế nào. Thiền sư Viên Trí nói thiền sư Đức Thành là
người trên không có miếng ngói che đầu, dưới không có miếng đất cắm dùi. Câu
nói này có hai nghĩa : Nghĩa thứ nhất là Ngài ở trên thuyền, không ở chùa
nên không có ngói che đầu, và ở trên thuyề lênh đênh trên sông nước nên
không có đất để cắm dùi. Đó là nghĩa thông thường. Nghĩa thứ hai siêu thoát
hơn, thiền sư Đức Thành là con người tự tại thong dong không vướng bận gì
cả. Do đó thiền sư Tịnh Không nói “Trên không miếng ngói che, duới không đất
cắm dùi” là dẫn câu chuyện này.
“Hoặc dịch phục trực nghệ, hoặc xách trượng
nhi chí”. Nghĩa là hoặc đổi áo thẳng đến, hoặc xách trượng mà đi. Ý nói ngài
Thiện Hội thay đổi y phục làm một thiền tăng tầm thường để đến học đạo với
thiền sư Đức Thành.
“Chuyển động xúc xứ gian,tợ long dước thôn
nhĩ”. Khoảng chuyển động xúc chạm tợ rồng vẫy đớp mồi. Nghĩa là chỉ đối đáp
trong chốc lát mà ngộ đạo, giống như rồng đớp mồi vậy. Thiện Hội đến thiền
sư Đức Thành, qua vài câu đối đáp, thiền sư Đức Tành cười bảo : “Một câu hợp
đầu ngữ, muôn kiếp cọc cột lừa. Thả ngàn thước tơý ở đầm sâu, lià lưỡi câu
ba tất nói mau, nói mau”. Thiện Hội vừa mở miệng, thiền sư Đức Thành đánh
một chèo té xuống nước. Thiện Hội vừa leo lên thuyền, thiền sư Đức Thành lại
thúc : “Nói ! Nói!” Thiện Hội vừa mở miệng, lại bị thiền sư Đức Thành đánh.
Thiện Hội hoát nhiên đại ngộ, bèn gật đầy ba cái.
Thiền sư Đức Thành nói, Ngài thả dây câu ngàn
thước để câu, nhưng không có lưỡi câu ba tất đó dính mồi. Ý nói không cho
cái lưỡi ba tất cong lại để nói chuyện phải quấy tốt xấu... lià ngôn ngữ mà
bảo : “Nói đi ! Nói đi !” Thầy bảo nói, nhưng trò vừa mở miệng thì bị thầy
đánh, trò ngước lên đáp một câu, cũng bị thầy đánh. Như vậy chúng ta
mới thấy chỗ “uổng khẩu vô ngôn” của ni sư Diệu Nhân, vừa mở miệng là trật.
Thế nên ở đây thiền sư Đức Thành không cho nói, mở miệng nói là bị đánh. Bị
đánh mấy chèo, Thiện Hội mới nhận ra thể chân thật một cách nhanh chóng. Nhờ
cách khai thị quá đặc biệt của thiền sư Đức Thành, nên Thiện Hội nhận ra thể
chân thật, do đó nói học đạo có thầy. Tóm lại hai câu này diễn tả giai thoại
ngài Thiện Hội đến với thiề sư Đức Thành chỉ trong chốc lát mà được ngộ đạo.
Ngày xưa ngài Thiện Hội bị đánh trong chớp mắt được ngộ đạo, chúng ta ngày
nay bị đánh hai ba chèo chắc là lên bờ chạy mất.
Câu “dưới không đất cắm dùi” còn nói lên giai
thoại không đất cắm dùi của ngài Hương Nghiêm. Lúc rời chúng Ngài ở ẩn, khi
cuốc đất lượm sỏi ném trúng bụi tre, nghe tiếng côc vang lên, Ngài đại ngộ
làm kệ :
Một tiếng quên sở tri,
Chẳng cần phải tu trì.
Đổi sắc bày đường xưa,
Chẳng rơi cơ lặng yên.
Nơi nơi không dấu vết,
Oai nghi ngoài sắc thinh.
Những người bật đạt đạo,
Đều gọi thượng thượng cơ.
Ngài Quy Sơn nghe được, nói với Ngưỡng Sơn :
“Trí Nhàn đã triệt ngộ”. Ngưỡng Sơn thưa : “Đây là máy tâm ý thức trước
thuật, đợi con đến nơi khám phá mới chắc”. Ngưỡng Sơn đến thăm, Hương Nghiêm
đọc lại bài tụng trước cho Ngưỡng Sơn nghe, Ngưỡng Sơn nói : “Đó là do trước
kia học tập ghi nhớ mà thành, nếu thật chánh ngộ hãy làm bài tụng khác”.
Hương Nghiêm liền nói kệ :
Năm xưa nghèo chưa thật nghèo,
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo vẫn còn chút đất cắm dùi,
Năm ngay nghèo dùi cũng không.
Ngưỡng Sơn nghe bài kệ trước của Hương Nghiêm
Ngài không tin, e rằng do hiểu biết học hỏi làmra chứ chưa thật ngộ, nên mới
bất ngờ bảo Hương Nghiêm làm bài kệ khác. Hai câu cuối cùng của bài kệ này
Hương Nghiêm nói năm xưa nghèo càn có đất cắm dùi, năm nay nghèo không có
dùi để cắm. Người thế gian thường nói nghèo không có đất để cắm dùi. Còn
Ngài nói không có dùi để cắm, cái nghèo đó mới thật là nghèo. Như vậy đất và
dùi dụ cho ngã và pháp. Ý Ngài Hương Nghiêm nói rằng tu đến chỗ rốt ráo ngã
pháp không còn.
Bài kệ này Ngài Tịnh Không dẫn ý hai câu
chuyện trên để dạy chúng ta tu phải đến chỗ rốt ráo như người xưa, không còn
chấp ngã chấp pháp, không còn kẹt thì mới đạt đến chỗ cứu cánh là nhận ra
thể chân thật của mình. Nếu nói rằng tôi không còn chấp ngã chấp pháp nhưng
chưa nhận ra thể chân thật của mình thì chưa rốt ráo.
Có vị tăng đến hỏi: Từ trước chỉ thẳng là nói
cái gì ?
Sư đáp :Ngày ngày đi gặt lúa,
Giờ giờ kho lẫm không.
Con chẳng hội.
Nhật nguyệt hằng sáng, mây nổi phủ che.
Sư nói kệ :
|