Âm :
Tứ xà đồng kiếp bổn lai không,
Ngũ uẩn sơn cao diệt bất công.
Chân tánh linh minh vô quái ngại,
Niết bà sanh tử nhậm già lung.
Thạch mã xỉ cuồng nanh,
Thực miêu nhật nguyệt minh.
Đồ trung nhân cộng quá,
Yên thượng nhân bất hành.
Dịch :
Bốn rắn chung rương trước giờ
không,
Núi cao năm uẩn đâu chủ ông.
Chân tánh sáng ngời không chướng
ngại,
Niết bàn sanh tử mặc che lồng.
Ngựa đá nhe răng cuồng,
Ăn mạ nsgày tháng kêu.
Đường cái người đồng qua,
Trên ngựa người chẳng đến.
Giảng :
“Tứ xà đồng kiếp bổn lai không”. Tứ xà là bốn
con rắn, kiếp là cái rương, đúngra là cái giỏ hay cái chum. Bổ lai không là
xưa nay không thật. “Tứ xà đồng khiếp” xuất xứ từ những kinh luận sau đây :
Kinh Kim Cang Minh Tối Thắng Vương, Luận Trí Độ quyển 22, kinh Đại Niết Bàn
quyển 23, Đạt Ma Đa la Thiền kinh. Tại sao Phật Tổ hay dùng câu này ? Vì sắc
thân con người do đất nước gió lửa hợp thành. Chất cứng thuộc về đất, chất
ướt thuộc về nước, động thuộc về gió, ấm thuộc về lửa. Thân chúng ta hiện có
đây do bốn chất căn bản đó hợp thành, chúng hợp mà không hòa, luôn luôn
chống trái không thuận. Vì chống trái nhau nên thân này giống như cái giỏ
đựng bón con rắn vậy. Bốn con rắn đựng trong cái giỏ luôn luôn chống trái
nhau. Rắn hổ lửa thì chống với rắn nước. Rắn hổ mây thì chống với rắn hổ
đất. Do bốn rắn chống trái nhau, nên lúc nào chúng ta cũng thấy khó chiụ.
Nếu thiếu lửa thì thân này lạnh phát run, dư lửa thiếu nước thân gầy nóng
bức, dư nước dư đất thân mập mạp nặng nề, dư gió thì thân mình đau nhức. Như
vậy bốn đại hợp lại thành thân người, tuy nó ở chung mà đối nghịch nhau.
Muốn được bình an chúng ta phải theo dõi canh chừng để đều hòa bốn con rắn
ấy. Chúng ta nuôi bốn con rắn trong một cái giỏ mà nó cứ cắn lộn nhau hoài,
điều phục cho nó nằm yên là làm một việc rất cay đắng chứ không phải dễ. Như
vậy ngày nào cái giỏ hư, bốn con rắn chạy ra thì ngày đó chúng ta khỏi điều
phục, khỏe quá rồi. Tạo sao cái giỏ hư hoại bốn con rắn sắp đi mỗi đứa mỗi
nơi, chúng ta tiết nuối lo sợ ? Có phải chúng ta mãi mãi thích làm kẻ điều
hòa bốn con rắn không ? Sống cả đời sáu bảy mươi năm quí vị xét kỹ xem mình
đã làm gì ? Có phải chỉ lo điều hòa bốn con rắn không ? Hôm nay nghe trong
người hơi nóng, tìm thứ gì mát ăn vô. Ngày mai nghe trong bụng hơi lạnh sôi
ruột, phải kiếm thứ gì ấm ấm ăn vô. Cứ như thế mà làm từ năm này đến tháng
nọ. Lo cho đến ngày cuối cùng thì sao ? Thân này tan rã bốn đại phân tán,
giống như cái giỏ mục nát bốn con rắn mỗi con chạy mỗi nơi. Khi ấy ông chủ
nghĩ sao về tương lai ? Có nên kiếm cái giỏ khác chắc chắn hơn bắt rắn về
nuôi nữa, hay là để nó chạy đi cho ông chủ được thảnh thơi sung sướng ?
Người nào muốn tiếp tục nuôi rắn là khờ khạo.
Người nào hoan hỷ cho bốn con rắn tự do ra đi để mình đươc tự do là người
khôn. Thế mà lắm người mất thân này, mong kiếm thân sau đẹp và khỏe mạnh
hơn. Đó là người thích bắt rắn về nuôi, hay nói cách khác là chấp nhận đi
trong luân hồi sanh tử. Qua ví dụ này, thấy chúng ta thật đáng thương, cả
mấy chục năm trời chỉ lo nuôi dưỡng điều hòa bốn đại, cuối cùng nó cũng tan
rã, không ai giữ được lâu dài mà cứ lo nuôi nó hoài, có vô lý không ? Thứ
nữa, lẽ ra bốn đại tan rã thì mình vui mừng, vì thoát được cái ách đau khổ,
nhưng trái lại khi nó sắp tan hoại chúng ta lại tiết rẻ khóc than. Bốn con
rắn nó phá hoài mà lại thương, muốn tìm điều kiện để tiếp tục nuôi ! Thật vô
lý ! Chẳng những hiện tại vô lý mà tương lai cũng vô lý. Đức Phật thấy rõ
cái vô lý ấy mới dạy chúng ta thoát ra, đó là thoát ly sanh tử luân hồi.
Nghĩa là đời này lỡ bốn con rắn thì phải cho ăn cho uống, nhưng đến khi cái
giỏ mục nát bốn con rắn chạy đi, ông chủ vui cười, không lo sợ, nếu lo sợ là
tiếp tục nuôi rắn, là còn luân hồi sanh tử. Như vậy giải thoát sanh tử không
có gì lạ là không tiếp tục nuôi rắn nữa. Phải nhớ, ông chủ không thèm nuôi
rắn, chứ không phải không có bốn con rắn là không có ông chủ. Thường chúng
ta sợ mất rắn rồi mất mình luôn. Rắn đi mất chứ ông chủ thì bất sanh bất
diệt. Hiểu tường tận chỗ này chúng ta mới thấy Phật Tổ tha thiết dạy chúng
đừng dại khờ tiếp tục nuôi rắn, rốt cuộc chỉ là khổ đau. Phật Tổ thường dan
kinh luận để nhắc chúng ta, đối với thân này phải biết nó như cái giỏ nuôi
bốn con rắn, từ xua tới giờ nó không thật. Biết được như vậy thì không còn
tự hào ngã mạn, không còn thấy mình là quí là cao. Biết được như vậy là
người thấy được lẽ thật, thấy được lẽ thật này mới là tu, tu một cách chân
chính. Chỉ một câu đầu của bài kệ đủ nhắc chúng ta tỉnh giác rồi.
“Ngũ uẩn sơn cao diệt bất tông”. Nghĩa là núi
cao năm uẩn đâu chủ ông. năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Bốn đại hay
bốn con rắn nói ở câu đầu là sắc uẩn, sắc uẩn thuộc về phần sắc chất, thọ,
tưởng, hành, thức thuộc về phần tinh thần. Thân năm uẩn có hai phần sắc chất
và tinh thần, nó không có chủ tể, chỉ là tướng giả dối tạm bợ. Ý hai câu này
dạy chúng ta không nên chấp thân giả hợp tạm bợ này vì nó không thật bền.
“Chân tánh linh minh vô quái ngại, Niết bàn
sanh tử nhậm già lung”. Chân tánh sáng ngời không chướng ngại, Niết bàn sanh
tử mặc che lồng. Nơi thân năm uẩn có chân tánh sáng ngời không ngăn che
không chướng ngại. Niết bàn sanh tử là hai từ đối đãi che đậy khiến chân
tánh không hiển lộ được. Chân tánh không hình tướng, hằng sáng ngời không có
tên Niết bàn hay sanh tử. Vì muốn cảnh tỉnh chúng ta chạy theo niệm sanh
diệt, đức Phật nói Niết bàn là vô sanh để phá niệm sanh diệt. Niết bàn và
sanh tử là ngôn ngữ giả lập thuộc về tươ`ng đối đãi, nếu còn đối đãi là còn
che đậy. Lại nữa chân tánh sáng suốt nơi mỗi người vượt ngoài tướng đối đãi,
nếu dùng danh từ đối đãi để nói là làm cho nó bị che khuất. Chỉ có bốn câu
kệ mà Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy tường tận thân tâm này phần nào là hư
dối tạm bợ, phần nào là hằng hữu chân thật. Và, Ngài cũng nói rõ nếu còn
dùng ngô ngữ để đặt tên để diễn tả chân tánh là còn làm chướng ngại ngăn
che, chân tánh không hiển lộ. Như vậy người tu muốn đến chỗ cứu cánh thì
không được kẹt dính ở hai bên, nếu còn kẹt hai bên thì không thoát khỏi sanh
tử. Bốn câu này đơn giản mà đầy đủ ý nghĩa, hướng dẫn chúng ta tiến tới đạo
lý chân thật.
“Thạch mã xỉ cuồng nanh, thực miêu nhựt nguyệt
minh”. Nghĩa là ngựa đá nhe răng cuồng, ăn mạ ngày tháng kêu. Hai câu này
Ngài nói nghe lạ lùng làm sao ! Ngựa đá mà biết nhe răng biết ăn mạ và biết
kêu. Nói như thế thật là vô lý ! Tuy nhiê, Ngài dùng những ngôn ngữ vô lý
như vậy để nói cho chúng ta không suy nghĩ. Chuyện không hề có mà vẫn nói,
nói cho người nghe không có chỗ để suy gẫm. Thế nên trong nhà thiền có câu :
“Suốt ngày nói mà không động lưỡi,suốt ngày ăn cơm mà không dính răng”. Tức
là nói mà không cho suy nghĩ, nghe rồi bặt tâm tư. Các Ngài không dạy pháp
tu nào cả, chỉ bảo chúng ta buông hết mọi nghĩ suy. Nghe mà không cho suy
nghĩ phân biệt phải quấy hay dở, vậy có tu chưa ? - Đó là chỗ kỳ đặc của nhà
thiền ! Nghe nói “Ngựa đá nhe răng cuồng, ăn mạ ngày tháng kêu”, chúng ta
suy nghĩ cái gì ? Nghe câu nói vô lý thì bặt nghĩ suy.
“Đồ trung nhân cộng quá, mã thượng nhân bất
hành”. Đường cái người cùng qua, trên ngựa người chẳng đến. Đường cái thì ai
cũng đi, chuyện đó là chuyện rất bình thường, chính cái bình thường đó là
kết quả tốt . Người ngồi trên ngựa thấy không đi, không đi mà đến chỗ đặc
biệt. Như vậy đạo lý chân thật không phải ở chỗ kỳ đặc mà ở ngay trong cái
bình thường, nếu chúng ta nhận ra và biết sống thì được giải thoát. Tóm lại
ý hai câu này Ngài dạy chúng ta thấy cái bình thường là cái đưa chúng ta đến
gần với đạo. Chỉ có bốn câu kệ mà Ngài đã nói lên lý thiền cho mọi người
nhận ra.
|