Âm :
Như Lai thành chánh giác,
Nhất thiết lượng đẳng thân.
Hồi hỗ bất hồi hỗ,
Nhãn tình đồng tử
thần.
Chân thân thành vạn tượng,
Vạn tượng thành chân thân.
Nguyệt điện vinh đan quế,
Đan quế tại nhất luân.
Dịch :
Như Lai thành chánh giác,
Tất cả lượng bằng thân.
Xoay lại chẳng xoay lại,
Trong mắt con ngươi nằm.
Chân thân thành vạn tượng,
Vạn tuợng thành chân thân.
Cung trăng thành quế đỏ,
Quế đỏ tại một vầng.
Giảng :
“Như Lai thành chánh giác, nhất thiết lượng
đẳng thân”. Như Lai thành chánh giác tất cả lượng bằng thân. Nghĩa là khi
giác ngộ thành Phật (thành chánh giác) thì pháp thân trùm khắp không giới
hạn, nên thiền sư Thường Chiếu nói : “ngoài đại thên sa giới chỗ nào chẳng
là nhà”. Ý hai câu này nói, khi tu thành Phật hằng sống được với pháp thân
thanh tịnh, thì mọi hành động tới lui qua lại, đều phát xuất từ tâm thanh
tịnh. Mọi việc thuận nghịch xảy đến, Ngài nhìn nó bằng con mắt trí tuệ sáng
suốt, dưới cái nhìn của Ngài, mọi sự vật đều phơi bày rõ ràng không có gì mờ
mịt u tối. Thế nên các thiền sư thường dạy, hãy lo tu cho thành Phật, chớ
đừng lo thành Phật không biết thuyết pháp. Vì tu thành Phật nói ra lời nào
cũng là pháp hết, còn tâm chúng sanh thì nói ra lời nào cũng là nhân phiền
não. Tăng ni ở đây tu đừng nghĩ rằng mình ở thiền viện, không học trường lớp
không có cấp bằng mai kia không có phương tiện làm lợi ích chúng sanh. Thử
hỏi muốn giáo hóa chúng sanh dùng cái gì để giáo hóa ? Dùng triết học dùng
sự khôn ngoan đối đãi của thế gian dạy cho người, hay dùng đạo đức chân
chánh ? Nếu dùng đạo đức chân chánh để giáo hóa chúng sanh thì học không
chưa đủ, mà cần phải tu cho ngộ đạo mới có đủ trí đức để ra giáo hóa mọi
người.
Ngày xưa thầy tôi (Hòa thượng Viện Trưởng)
thường nhắc đến Hòa thượng Phi Lai, ai tới học đạo Ngài không dạy gì hết mà
chỉ bảo về niệm Phật đi. Một lời nói như vậy đã đủ cho người học tu rồi.
Ngày nay chúng ta thuyết pháp từ sáng tới chiều mà người nghe ít ai lãnh
hội. Hoặc có người nghe chỉ nói suông, gặp duyên nói toan là lời siêu Phật
vượt Tổ, chính bản thân thì sống chẳng ra gì. Đó là tại cái lỗi của người
thuyết pháp chưa sống được với những lời mình nói. Người nghe pháp cũng chưa
sống được với những điều Phật Tổ dạy trong kinh luận, do vị giảng sư giảng
giải cho mình nghe. Thế nên tăng ni học đạo nếu học cho thông để nói suông
cho người khác nghe, mà thiếu tu thì chắc rằng sự truyền bá Phật pháp không
kết quả bao nhiêu. Còn người nghe pháp chỉ chú trọng vào văn chương hay lời
giảng lưu loát của giảng sư, mà không quan tâm đến đạo đức tác phong của
người giảng, không thật tâm ứng dụng lời dạy vào đời sống hằng ngày của
mình, thì người nghe cũng không được lợi lạc bao nhiêu. Có nhiều người bỏ
thời giờ bàn huyền nói diệu mà quên sống cho mình, thật đáng thương. Người
dù ít học mà thật tu(ít học là không học nhiều học rộng cả Phật học lẫn thế
học, mà chỉ học Phật pháp căn bản rồi nắm vững để tu cho sáng đạo) sau khi
sáng đạo tùy duyên ra hướng dẫn cho người tu không ngăn ngại. Bằng chứng cụ
thể là Lục Tổ không học trường lớp nào hết, chỉ nghe câu kinh Kim Cang rồi
vô chùa giả gạo sáu tháng, kế đó vào ẩn trong rừng với bọn thợ săn mười lăm
năm ra giáo hóa thành Tổ. Ngày nay có ai dám chê Ngài không ? Mấy vị cử nhân
Tiến sĩ cũng phải học với Ngài. Mỗi người chúng ta ai cũng có trí vô sư,
sống được với trí này thì cái học bên ngoài là thứ yếu. Hiểu chỗ này rồi quí
vị mới không nghĩ rằng mình tu mãi rồi dốt, sau này không làm được phật sự,
không làm lợi ích cho ai. Phải nhớ, nhờ tu đức Phật mới chứng tam minh, lục
thông, chứng nhất thiết chủng trí, thành bật thế gian giải... Có thật tu thì
tâm an định trí tuệ sáng. Nếu giả tu, tu ngoài hình thức, tâm toan tính đủ
thứ, tài sắc danh lợi vẫn say đắm như người chưa biết tu thì tâm càng ngày
càng tối thêm, hiện tại không an lạc tương lai càng mờ mịt.
“Hồi hỗ bất hồi hỗ, nhãn tình đồng tử thần”.
Xoay lại chẳng xoay lại, trong mắt con ngươi nằm. Xoay lại là ngó vào trong,
chẳng xoay lại là ngó ra ngoài, con ngươi nằm trong con mắt. Con ngươi và
con mắt tuy hai tên mà không có hai thể. Nếu nói con ngươi thì thấy như một
và nếu nói con ngươ và con mắt thì thấy như hai. Thật ra con ngươi và con
mắt tuy hai tên mà là một thể, không tách rời nhau được. Thể chân thật nơi
mình có sẵn, không tìm kiếm ở bên ngoài cũng không xoay lại bên trong tìm,
nó sẵn có như vậy nên nói hồi hỗ không hồi hỗ. Hồi hỗ là nhìn vào, không hồi
hỗ là nhìn ra, nhìn ra thì tìm ở ngoài, nhìn vào thì tìm ở trong. Nhưng thể
chân thật đã có sẵn không ở trong không ở ngoài, giống như con ngươi nằm sẵn
nơi con mắt, không phải tìm kiếm đâu cả, ngay con mắt là có con ngươi. Ngay
nơi thân này có thể chân thật, không cần phóng ra hay nhìn vào để tìm. Tìm
là không hợp đạo lý. Lâu nay chúng ta có cái lầm, nghe nói đạo là muốn tìm
đạo ở chỗ này ở chỗ kia, hoặc nghe nói chân tâm thì tìm vào trong coi chân
tâm ở chỗ nào. Học đạo như thế là sai lầm, nên ở trên Ngài nói “Xoay lại
chẳng xoay lại, trong mắt con ngươi nằm”.
“Chân thân thành vạn tượng, vạn tượng thành
chân thân”. Chân thân tức là pháp thân trùm khắp cả vạn tuợng và vạn tượng
không rời pháp thân. Sau đây Ngài dùng ví dụ hết sức rõ ràng :
“Nguyệt điện vinh đan quế, đan quế tại nhất
luân”. Nghĩa là cung trăng thành quế đỏ, quế đỏ tại một vầng. Người xưa
tưởng tượng trên cung trăng có cây quế đỏ và chú cuội. Vậy cây quế đỏ ở cung
trăng là ở trong cung trăng hay ở ngoài cung trăng ?Ở đây Ngài lấy ví dụ cây
quế với cung trăng không tách rời không xa lìa, để nói rằng pháp thân và vạn
tượng cũng không tách rời nhau. Ý nghĩa đó rất là rõ ràng.
|