Âm :
Na dĩ Hứa Do đức,
Hà tri thế kỷ xuân.
Vô vi cư khoáng dã,
Tiêu diêu tự tại nhân.
Dịch :
Hứa Do tập theo đức,
Nào biết đời mấy xuân.
Vô vi sống đồng ruộng,
Người tự tại thong dong.
Giảng :
“Na dĩ Hứa Do đức, hà tri thế kỷ xuân”. Hứa Do
tập theo đức, nào biết đời mấy xuân. Ngài học theo cái đức của Hứa Do nê
không biết đời có mấy xuân. Trong Cổ Học Tinh Hoa có ghi câu chuyện hai ông
Hứa Do và Sào Phu đời vua Nghiêu ở Trung Quốc. Vua Nghiêu là ông vua thời
đại cổ của Trung Quốc, là một vị vua có đức độ nhất vào thời ấy, ông không
muốn cho con mình nối nghiệp vua, ông đi tìm người hiền đức để nhường ngôi.
Một hôm nghe đồn trong khu rừng có một hiền sĩ tên là Hứa Do, vua tìm đến
nơi mời Hứa Do về triều để nhường ngôi. Hứa Do nghe xong bịt lỗ tai rồi bỏ
đi ra ngoài sôngDĩnh Thủy lội xuống sông khoát nước rửa tai. Khi ấy Sào Phủ
cũng dắt trâu ra bờ sông, thấy Hứa Do rửa tai hỏi : “Vì việc gì mà bát phải
rửa tai vậy ?” Hứa Do đáp : “Vua Nghiêu mời tôi về nhường ngôi, nghe đến
danh lợi bẩn lỗ tai nên tôi đến đây để rửa”. Sào Phủ nghe xong gò dây dàm
trâu không cho trâu uống nước và nói rằng : “Tôi định cho trâu uống nước ở
đây nhưng e bẩn cả miệng trâu”. Nói xong dắt trâu lên khúc sông trên để cho
trâu uống nước.
Người xưa nghe danh lợi cho là nhơ lỗ tai, còn
chúng ta ngày nay thì sao ? Giả sử chúng ta đang tu mà có người mời mình ra
giữ chức gì quan trọng trong Giáo hội, hoặc ngoài đời thì thấy dơ lỗ tai hay
là khoái lỗ tai ? Nếuthấy khoái lỗ tai thì đã nhiễm danh lợi rồi, thua người
xưa lắm. Tuy ngài Hiện Quang tu chưa ngộ đạo, nhưng học theo đức của Hứa Do,
đối với danh lợi Ngài không màng là đã hơn chúng ta rồi. Vì không thích danh
lợi nên :
“Vô vi cư khoái dã, tiêu diêu tự tại nhân”. Vô
vi sống đồng ruộng, người tự tại thong dong. Bới không ưa danh lợi nên Ngài
không ở thành thị, chỉ thích ở núi rừng, đồng quê thanh vắng, để làm người
rảnh rang vô sự quên cả tháng ngày. Đó là tâm trạng của Ngài học theo gương
tốt của người xưa. Ngày nay chúng ta tu nếu không khéo thì những từ ngữ “làm
phật sự” sẽ làm lệch hướng nhắm của chúng ta. Nghĩa “làm phật sự” thì quá
rộng, nhiều khi chúng ta kẹt vào danh lợi mà không hay. Tôi nhìn tình trạng
hiện nay thấy cũng đáng lo, có nhiều người khi phát tâm tu thì rất là mạnh
mẽ, lúc mới vào chùa dám dứt bỏ hết những danh lợi mình đang có trong tầm
tay. Nhưng tu một thời gian bị nhiễm danh lợi trở lại. Thế nên khi tu chúng
ta phải cẩn thận đối với danh lợi, xem thường danh lợi tu mới dễ tiến, nếu
còn đắm trước danh lợi thì không tiến được. Người có địa vị cao trong đạo mà
đắm trước danh vị, cũng giống như người phàm tục đuổi bắt danh lợi vậy. Tu
như thế không thật sự tiến đạo mà chỉ tiến về mặt danh và lợi. Nếu tiến về
mặt danh lợi thì chắc chắn là xa đạo.
Sau đây là bài kệ thị tịch :
|
Âm :
Huyễn pháp giai thị huyễn,
Huyễn tu giai thị huyễn.
Nhị huyễn giai bất tức,
Tức thị trừ chư huyễn.
Dịch :
Pháp huyễn đều là huyễn,
Tu huyễn đều là huyễn.
Hai huyễn đều chẳng nhận,
Tức là trừ các huyễn.
Giảng :
“Huyễn pháp giai thị huyễn, huyễn tu giai thị
huyễn”. Pháp huyễn đều là huyễn, tu huyễn đều là huyễn. Pháp là huyễn, tu
cũng là huyễn. Tại sao vậy ? Bởi vì tất cả các pháp đều là phương tiện. Kinh
Viên Giác, Phật dạy : Kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, mặt trăng là chỗ
chúng ta hướng đến, còn ngón tay là phương tiện không phải lẽ thật. Ngoài
ngón tay chúng ta có thể dùng những thứ khác để chỉ mặt trăng, như cây thước
hay cây gậy cũng có thể chỉ được. Vậy ngón tay cây gậy cây thước là phương
tiện, ví là phương tiện nên là cái phụ. Mặt trăng là cái đích để nhìn là
chánh. Cũng vậy, pháp Phật dạy như quán bất tịnh, quán từ bi đều là phương
tiện, cho nên tùy theo căn cơ trình độ mà giáo hóa. Đối trị bệnh đức Phật
dạy quán bất tịnh, đối trị tâm vọng tưởng đức Phật dạy quán sổ tức... Trong
kinh A hàm có ghi lại câu chuyện Phật dạy quán bất tịnh, các thầy Tỳ kheo
quán thấy thân mình bất tịnh quá nhờm gớm bèn nhờ người giết giùm. Đến ngày
Bố tát đức Phật thấy chúng tỳ kheo sút giảm hỏi ra mới biết nguyên do. Phật
quở : “Ta dạy các ngươi quán bất tịnh là để trừ ái dục, khi ái dục hết thì
phải quán tịnh, tại sao phải tự tử ?” Vậy chúng ta thấy pháp tu là thật hay
là huyễn ? Nó chỉ là huyễn dùng để đối trị những phiền não của chúng sanh.
Đức Phật tùy bệnh cho thuốc, nên pháp không phải là chân lý. Kế đến Ngài nói
tu cũng là huyễn. Ví dụ đức Phật dạy quán bất tịnh, chúng ta ứng dụng tu
dùng trí quán tới quán lui, như vậy pháp là huyễn thì tu cũng là huyễn.
“nhị huyễn giai bất tức, tức thị trừ chư
huyễn”. Hai huyễn đều chẳng nhận, tức là trừ các huyễn. Nếu hai cái huyễn đó
chúng ta không còn chấp tức là trừ các huyễn, là sống với lý trung đạo.
Trong bài kệ Mộng của tôi có hai câu : “Gá thân mộng, dạo cảnh mộng”. Mộng
tức là huyễn, thân mộng là thân huyễn, cảnh mộng là cảnh huyễn, cả hai đều
là huyễn cho nên “mộng tan rồi cười vỡ mộng”. Thân cảnh đều là huyễn nên
cười mà ra đi chớ có gì luyến tiếc ! Đó là ý nghĩa thâm thầm mà Phật Tổ dạy
quá rõ ràng.
|