![]() |
THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP BA H.T THÍCH THANH TỪ |
![]() |
![]() |
||
ĐỜI THỨ MƯỜI BA SAU LỤC TỔ (tt)Ở Phần Đàm Sư họ Trần, quê ở Thiệu Võ, lúc bé thông minh mẫn tiệp đọc sách chóng thuộc. Cha mẹ mến thương cho học làm thơ sanh, chuẩn bị thi Tiến sĩ, Sư xin xuất gia tự thệ bỏ ăn, buộc lòng cha mẹ phải cho. * Được làm đại Tăng, Sư đi hỏi đạo đến Tào Sơn y chỉ với Kỳ lão Nhã Công. Thời gian khá lâu, Sư từ giã lên Vân Cư. Xem thấy ở đây núi khe tuyệt đẹp, Sư định chọn làm chỗ ở trọn đời. Đọc Hoa Nghiêm Thập Minh Luận đến ?là chân trí tuệ không thể tánh, vì không hay tự biết không tánh là tánh của không tánh. Vì không hay tự biết không tánh, gọi là vô minh?. Hoa Nghiêm Đệ Lục Địa nói ?vì không rõ đệ nhất nghĩa, gọi là vô minh. Nên biết chân trí tuệ vốn không tánh nên không hay tự liễu. Nếu gặp liễu duyên mà liễu thì vô minh diệt, đây là yếu môn thành Phật?. Sư nguyện đem pháp môn này làm hưng thịnh Phật giáo. Song hiện nay các nơi ai có thể nói lời này, rồi tự nói: Có ông già Tích Thúy (Huệ Nam). Ngay ngày này, Sư đến Hoàng Bá yết kiến Thiền sư Huệ Nam. Đêm ấy nói chuyện đến sáng, Huệ Nam chỉ quí mến mà chưa cho nhập thất. Sư luôn luôn trình ngữ, Huệ Nam chỉ lặng thinh. Một hôm, nhân lấy hòm kinh, sẩy tay đánh rơi tiếng vang nhẹ, Sư liền đốn ngộ, Sư chạy thẳng đến phương trượng trình bày sở ngộ. Huệ Nam nói: - Ngươi là anh hùng trong nhà ta đủ chánh nhãn phải khéo gìn giữ. Khi ấy trong hội nơi đây hàng long tượng lẫn lộn, mà Sư nghị luận vượt hẳn làm nghiêng cả bốn tòa, tiếng tăm vang dội. Sư đến Song Lãnh, Thiền sư Thuận hỏi: - Lão sư trong am thích hỏi học giả ?dẹp hết cổ họng môi lưỡi nói lấy một câu?, Thủ tọa từng nói được chăng? Sư cười rồi nói kệ: - Cha chồng nếm giấm ba tấc lưỡi, cô dâu rửa mặt rờ trúng mũi, Đạo Ngô đáp thoại dây lưng, Huyền Sa giở sách là giấy trắng.? Khi ấy, Thuận khen là kẻ sĩ danh không uổng. Niên hiệu Hy Ninh năm đầu (1068), Sư lãnh chúng tại chùa Viên Thông Lô Sơn. Học giả qui tụ như chỗ Thiền sư Huệ Nam. Mùa xuân năm sau, Huệ Nam viên tịch, tháng mười Sư nhận lời thỉnh của bốn chúng khai pháp ở Thạch Môn. Tăng hỏi: - Gặp trường thì đùa là sao? Sư đáp: - Lò hồng chợt xuất con rùa sắt. Tăng hỏi: - Hiên nhà treo trống Sư thân đánh, đầu sào trăm thước việc thế nào? Sư đáp: - Sơn tăng chẳng tin kế sống này. Tăng suy nghĩ. Sư bảo: - Kẻ chẳng rên rỉ. Tăng lễ bái đứng dậy, buông góc ca-sa xuống, hỏi: - Khi cởi y lột giáp thì thế nào? Sư đáp: - Mừng được sói nướng rồi, cung tên treo trên vách. Tăng lại vắt góc ca-sa lên hỏi: - Khi chỉnh lại y giáp thì thế nào? Sư đáp: - Chẳng đến bờ Ô Giang, biết anh chưa chịu thôi. Tăng liền hét. Sư bảo: - Kinh ta. Tăng vỗ một vỗ. Sư nói: - Cũng là trong chết được sống. Tăng lễ bái. Sư nói: - Sẽ bảo tài thâu Yên phá Triệu, nguyên lai chỉ là kẻ bán muối lậu. Sư bảo: - Thiền đức! Nếu hay một niệm hồi quang phản chiếu, nhằm dưới gót chân mình lột giày xem xét coi, đáng gọi là cửa động khe mở, lầu các lớp lớp, mười phương khắp hiện hải hội đồng bày. Bèn là phàm thánh hiền ngu núi sông quả đất dùng hải ấn tam-muội một ấn mà ấn định, lại không có mảy may rơi sót. Sơn tăng nói như thế, nếu ở trong chúng có bản sắc nạp Tăng nghe đó, liền bịt tai mà đi, kia cười vỡ miệng. Đại chúng hãy nói, dưới cửa bản sắc nạp Tăng làm sao nói một câu? Sư im lặng giây lâu nói: - Bên trời tuyết chôn ngàn thước đá, cửa động bên đông gãy cành tùng. Sư thượng đường giây lâu, nhìn xem đại chúng nói: Thạch Môn nguy hiểm cổng sắt chắc, đưa mắt nhìn xem muôn nhẫn cao, trâu sắt không sừng xông được vỡ, trong biển Tỳ-lô dấy ba đào. Hãy nói chẳng dính ba đào làm sao nói một câu? Sư im lặng giây lâu nói: - Một câu chẳng nghĩ Vô Trước hỏi, đến nay vẫn tạo dã bàng Tăng. Sư hạ tòa. * Sư trụ chưa được mấy năm, tháng sáu Tri sự tranh nhau, không thể ngăn được, Sư liền bảo chúng: - Lãnh chúng chẳng nghiêm, chánh tọa không đức, tôi có thẹn với Hoàng Long. Sư gọi Duy-na đánh chuông họp chúng, từ biệt đi hành cước dặn: - Sau khi tôi tịch hỏa thiêu rồi lấy xương để trong tháp Phổ Thông, để thấy chết sống không rời thanh chúng. Nói xong, Sư tịch, thọ năm mươi chín tuổi. * Ở Bạch Vân Sư họ Cát, quê ở Hàn Dương, thuở nhỏ học Nho, đến hai mươi tuổi theo Úc sơn chủ ở Trà Lăng xuất gia. Sư đến tham vấn Dương Kỳ. Một hôm Dương Kỳ hỏi: Bổn sư ngươi là ai? Sư thưa: Hòa thượng Úc ở Trà Lăng. Dương Kỳ bảo: - Ta nghe ông ấy qua cầu bị té có tỉnh, làm một bài kệ kỳ đặc, ngươi có nhớ chăng? Sư tụng rằng: Ngã hữu minh châu nhất khỏa, Cửu bị trần lao quan tỏa, Kim triệu trần tận quang sanh, Chiếu phá sơn hà vạn đóa. Dịch: Ta có một viên minh châu, Đã lâu vùi tại trần lao, Hôm nay trần sạch sáng chiếu, Soi tột núi sông muôn thứ. Dương Kỳ cười liền đi. Sư ngạc nhiên suốt đêm không ngủ. Hôm sau, Sư đến thưa hỏi, gặp ngày cuối năm, Dương Kỳ hỏi: - Ngươi thấy mấy người hát sơn đông hôm qua chăng? Sư thưa: - Thấy. Dương Kỳ bảo: - Ngươi còn thua y một bậc. Sư lấy làm lạ thưa: - Ý chỉ thế nào? Dương Kỳ bảo: - Y thích người cười, ngươi sợ người cười. Sư liền đại ngộ. Sư hầu Dương Kỳ thời gian khá lâu, mới từ đi nơi khác. Đến Lô Phụ, Thiền sư Nột ở Viên Thông cử Sư trụ trì chùa Thừa Thiên, tiếng tăm vang dội. Kế Sư lại trụ Viên Thông, Pháp Hoa, Long Môn, Hưng Hóa, Hải Hội, nơi nào chúng cũng tụ họp rất đông. Tăng hỏi: - Thế nào là Phật? Sư đáp: - Chảo dầu không chỗ lạnh. Tăng hỏi: - Thế nào là đại ý Phật pháp? Sư đáp: - Đáy nước thả trái bầu. Tăng hỏi: - Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Sư đáp: - Quạ bay thỏ chạy. Tăng hỏi: - Chẳng cầu chư Thánh chẳng trọng kỷ linh, chưa phải là việc phần trên của nạp Tăng, thế nào là phần trên của nạp Tăng? Sư đáp: - Nước chết chẳng chứa rồng. Tăng hỏi: - Khi thế ấy đi thì sao? Sư đáp: - Lừa chết ngươi. Sư thượng đường: Chim có hai cánh bay chẳng xa gần, đường bay một góc đi không trước sau, hàng Tăng gia các ông tầm thường cầm muỗng buông đũa trọn nói tri hữu, đến khi leo lên núi tại sao lại thở gấp. Chẳng thấy nói: ?người không nghĩ xa ắt có lo gần?. Sư dạy chúng: Phật đất chẳng độ nước, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật vàng chẳng độ lò đúc, Phật thật ngồi ở trong. Đại chúng! Ông già Triệu Châu một lúc đem mười hai phần xương tám muôn bốn ngàn lỗ chân lông dồn vào trong lòng các ông rồi. Ngày nay Viên Thông (Sư) trông thấy bất bình vì người xưa nói ra. Sư lấy tay vỗ giường thiền nói: Nên biết núi biển về minh chủ, chưa tin càn khôn lấp người lành. Sư dạy chúng: Thân Phật đầy dẫy nơi pháp giới, khắp hiện trước tất cả quần sanh, tùy duyên cảm ứng đâu chẳng khắp, mà thường ở nơi tòa bồ-đề. Đại chúng! Thế nào nói đạo lý tùy duyên cảm ứng? Chỉ là khoảng khảy móng tay cả đại địa hàm sanh căn cơ một lúc nên được khắp đủ, mà chưa động đến một đầu mảy lông, bèn nói là tùy duyên cảm ứng mà thường ở tòa này. Ví như Sơn tăng ngày nay nhận thỉnh đến Pháp Hoa, ngày mai cùng đại chúng từ biệt nhau, vào trong huyện khai đường rồi mới trở về viện. Hãy nói lại lìa tòa này hay không? Nếu nói lìa là việc thường thế gian. Nếu nói chẳng lìa, làm sao thấy được việc chẳng lìa ấy? Đâu chẳng phải ?vô biên cõi nước kia đây chẳng cách đầu mảy lông, mười đời xưa nay trước sau chẳng lìa đương niệm?? Lại đâu chẳng phải ?tất cả vô tâm một lúc tự khắp?? Nếu thế ấy chính là cầm gậy đập mặt trăng. Đến trong đây cần phải ngộ mới được. Ngộ rồi cần phải gặp người mới được. Các ông nói đã ngộ rồi thì thôi, lại đâu cần gặp người. Nếu ngộ rồi gặp người, chính khi duỗi tay phương tiện rõ ràng tự có một con đường xuất thân, chẳng làm mù con mắt học giả. Nếu chỉ ngộ được đầu cây cải khô, chẳng những làm mù con mắt học giả, chính mình cử động liền bị chạm bén đứt tay. Các ông xem! ?Thầy tôi là Dương Kỳ hỏi Sư ông Từ Minh: Khi chim vắng kêu chão chẹt, mây từ vào núi chùm thì thế nào? Sư ông đáp: Ta đi trong cỏ rậm, ngươi lại vào thôn sâu. Thầy tôi thưa: Quan chẳng cho lọt mũi kim, lại xin một câu hỏi. Sư ông liền hét. Thầy tôi thưa: Khéo hét. Sư ông lại hét. Thầy tôi cũng hét. Sư ông hét luôn hai tiếng. Thầy tôi liền lễ bái.? Đại chúng nên biết, ngộ rồi lại gặp người là: nhằm trên đầu đường chữ thập cùng người gặp nhau, lại ở trên ngàn ngọn núi nắm tay, nhằm trên ngàn ngọn núi gặp nhau, lại ở đầu đường chữ thập nắm tay. Vì thế Sơn tăng thường có tụng ?chỗ ở người kia ta chẳng ở, chỗ đi người kia ta chẳng đi, chẳng phải vì người khó chung họp, trọn là Tăng tục cốt phân minh?. Đây là Sơn tăng sắp đi mở toang túi vải, một lúc ném ở trước mặt mọi người rồi vậy. Người có mắt chớ lấy làm lạ. Trân trọng. Sư thượng đường: Cổ nhân để lại một lời nửa câu, khi chưa thấu sờ đến giống hệt vách sắt, bỗng nhiên một hôm sau khi nhìn được thấu, mới biết chính mình là vách sắt. Hiện nay làm sao thấu? Sư lại nói: Vách sắt! Vách sắt! * Sư thượng đường: Nếu quả thật được một phen xuất hạn, liền nhằm trên một cọng cỏ hiện lầu quỳnh điện ngọc, nếu chưa quả thật được một phen xuất hạn, dù có lầu quỳnh điện ngọc lại bị một cọng cỏ che lấp, thế nào được xuất hạn? Tự có một đôi tay khéo ấy, đâu từng xem nhẹ vũ tam đài. * Đến niên hiệu Hy Ninh thứ năm (1072), Sư viên tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. * Ở Bảo Ninh Sư họ Trúc, quê ở Tứ Minh, thuở bé dung nhan tuấn tú, còn trẻ đã làm đại Tăng, thông Thiên Thai giáo. Sư đến tham vấn Thiền sư Minh Giác ở Tuyết Đậu. Minh Giác thầm biết Sư sẽ gánh vác đại pháp, nói cợt Sư là: Tọa chủ Anh Tường. Sư nổi giận xuống núi, trông về Tuyết Đậu lễ thề: Tôi đời này đi hành cước tham thiền đạo lý chẳng bằng Tuyết Đậu thề chẳng trở về quê. Sư liền đến Phần Đàm, mấy năm mà nghi tình chưa tan. * Nghe tin Dương Kỳ dời đến Vân Cái khéo khai hóa học giả, Sư liền đi thẳng đến đây. Qua một câu đối đáp, Sư liền đốn sáng tâm ấn. Dương Kỳ tịch, Sư theo Thiền sư Thủ Đoan là bạn đồng học nghiên cứu cùng tột chỗ huyền áo. Sau này, Sư trụ ở Bảo Ninh cho đến tịch. Có vị Tăng hỏi: - Thế nào là Phật? Sư đáp: - Gần lửa trước phỏng. Tăng hỏi: - Thế nào là đạo? Sư đáp: - Trong bùn có gai. Tăng hỏi: - Thế nào là người trong đạo? Sư đáp: - Rất kỵ đạp đến. Tăng hỏi: - Cổ nhân nói: ?gió lạnh thổi lá rụng, vẫn vui cố nhân về?, chưa biết ai là cố nhân? Sư đáp: - Hòa thượng Dương Kỳ viên tịch đã lâu. Tăng hỏi: - Chính hiện nay lại có người nào là tri âm? Sư đáp: - Ông mù trong thôn thầm gật đầu. Sư thượng đường: Sơn tăng hơn hai mươi lăm năm quảy đãy mang bát nhằm trong hoàn hải tham thiện tri thức hơn mười vị, nhà mình trọn không có chỗ thấy, có vị tôn túc giống như đá cứng, tham vấn cũng không có chỗ hay để lợi ích cho nhau, từ đây một đời chỉ làm người không hiểu chi cả, thật tự đáng thương. Bỗng bị gió nghiệp thổi đến phủ Giang Ninh, vô cớ bị người xô đến đầu đường chữ thập, trụ cái viện rách, làm chủ nhân cơm cháo tiếp đãi kẻ Nam người Bắc, việc bất đắc dĩ, tùy thời có muối có giấm đủ cháo đủ cơm, mặc tình qua ngày. Nếu là Phật pháp, chẳng từng mộng thấy. Sư thượng đường: Gió thu mát, vận tùng hay, khách chưa về nhớ cố hương. Sư im lặng giây lâu nói: Nằm dài trên giường có cháo có cơm. Sư thượng đường: Cành phụng kêu đất mưa vỡ, sáng về trên gối tiếng oanh hát, ểnh ương ếch nhái một lúc kêu, Diệu Đức Không Sanh trọn chẳng hội, ba cái thành quần, bốn cái thành đội yểu yểu điệu điệu phiêu phiêu diêu diêu, nhằm nam bắc đông tây bẻ được hoa lê, hoa lý một vòng hai vòng. * Ở Pháp Vân Sư họ Đổng, buổi đầu quê ở thôn Trọng Thơ Thái Khương, ông cha Sư đều làm quan đất Dĩnh bèn thành người Dĩnh Châu. Mẹ Sư không con đến trước tượng Phật cầu khẩn, khấn rằng: Được con sẽ cho làm Phật sự. Sau đó bà sanh được Sư dung mạo trang nhã. Sư vừa tròn một tuổi thì mẹ mất. Đến lớn Sư học rộng chí cao, song không có ý làm quan, lại tịch cốc học đạo. Sư nhà nghèo ở ẩn nơi Bút Công, ý chí cang cường cả ngày ngồi lặng lẽ. * Niên hiệu Gia Hựu thứ tám (1063), Sư đến kinh đô ghi danh ở viện Địa Tạng Hiển Thánh, thi đậu làm đại Tăng. Thầy Viên Thành và Luật sư Huệ Trấp nói với người: Thiện Bổn sau này sẽ nổi danh cả nước. Nhân đó bảo Sư học Tỳ-ni và nghe Pháp Hoa. Ban đêm Sư mộng thấy một đồng tử giống như tượng vẽ Thiện Tài chắp tay nói: Nam. Đến thức, Sư nói: Chư Thánh gia bị cho ta, muốn ta đi phương Nam thưa hỏi thiện tri thức. * Bấy giờ, Thiền sư Viên Chiếu đang hóa đạo ở Trung Ngô. Sư đến Cô Tô yết kiến Thiền sư Viên Chiếu tại Thụy Quang. Ở đây, Sư thâm ngộ được tông chỉ, hầu hạ năm năm đạt tột chỗ huyền yếu. Trí nghiên cứu chiêm nghiệm của Sư dọc ngang tự tại, vượt khỏi qui củ tầm thường. Đến niên hiệu Nguyên Phong thứ bảy (1084) mùa xuân, Sư dời Cửu Giang dạo Hoài Sơn lễ tháp Tổ. Mến cảnh núi rừng thanh lịch của Phù Sơn, Sư có ý ở đây trọn đời, bèn trụ tại núi Đại Tịch. Khá lâu, Sư lại bị thỉnh khai hóa ở chùa Song Lâm tại Vụ Châu. Vùng Uyên Đông đạo tục rất sùng mộ, gọi Sư là Phó Đại sĩ tái sanh. Sau Sư dời trụ chùa Phù Từ ở Tiền Đường nối tiếp Viên Chiếu. Ở đây chúng đến trên ngàn, thí chủ cung cấp vẫn đầy đủ. * Vua Thần Tông nghe danh Sư, xuống chiếu mời trụ chùa Pháp Vân tại kinh đô, ban hiệu là Đại Thông Thiền sư. Sư thường dạy chúng: Thượng sĩ dùng thần nghe pháp, Trung sĩ dùng tâm nghe pháp, Hạ sĩ dùng tai nghe pháp. Hãy nói, lại có một người đến dùng cái gì nghe? Sư cầm cây gậy gõ giường thiền một cái nói: Cao là đến, thấp là đến, lanh lảnh viên âm thênh thang khắp, mười phương trong ngoài lại không khác, chớ dùng không dây mà tự trói. Sư lại nói: Án Sơn thuyết pháp Chủ Sơn nghe, Chủ Sơn thuyết pháp Án Sơn nghe. Án Sơn Chủ Sơn một lúc thuyết, hãy nói đem cái gì nghe? Quí vị! Nếu khéo nghe, ba đời chư Phật nói ra diệu pháp thảy đều hiện tiền. Lại có chăng? Chùy sắt không lỗ vẫn việc rỗi, cười ngất Tỳ-da cây dùi xưa. Sư lại nói: Chỗ thấy của nạp Tăng nghịch thuận khó trùm, tiêu nhiên riêng đến ứng vật lại về, hoặc cao nương thế tục mà bày, hoặc dẹp giấu nơi bụi bặm. Nắm đứng thì băng sanh mặt nước, buông đi thì trên gấm nở hoa, lão Lô chẳng biết đi đâu tá, bóng trong mây trắng cười hà hà. Sư hét một hét xuống tòa. Sư thượng đường im lặng giây lâu nói: Hiểu chăng? Diệu chỉ của Tổ Phật chỉ ở trước mắt, tuệ nhật trước núi, mây sanh dưới chân, hồ trong sóng lớn. Xa tiếp trời dao, chiều hát thuyền chài, đêm dạo trăng lau, ngày vui chơi trên thuyền, nghe tiếng ty trúc. Lại nói nghe tiếng ngộ đạo, thấy sắc minh tâm, giống như ném đi trái đào ngọt, leo núi bẻ lê chua. Sư xuống tòa. Sư từ xin trụ am ở Hồ Tây. Lúc trụ am Sư đóng cửa không cùng người thế gặp nhau ngót mười năm. Hàng sĩ đại phu quí cao phong Sư muốn yết kiến mà không được. Niên hiệu Đại Quan thứ ba (1109) tháng mười hai, Sư co ba ngón tay nói với thị giả: Chỉ có ba ngày. Đúng ba ngày sau Sư tịch. * 11. THIỀN SƯ TU NGUNG CHỨNG NGỘ Ở Đầu Tử Sư họ Lương, quê ở Triệu Thành Tấn Châu. Thuở nhỏ Sư chẳng lễ miếu thần, chẳng chịu đi học, thường nói: Sẽ làm thầy trời người, đâu ưa việc này. Sư bèn đi dạo khắp nơi, đến pháp tịch Thiền sư Viên Chiếu ở Thụy Quang Tô Châu, thưa hỏi tông chỉ. Nhân nhắc lại ?Bồ-tát Vô Trước hỏi Thiên Thân: Di-lặc nói pháp gì, Thiên Thân đáp: nói pháp ấy?, Sư chợt có tỉnh, từ đây sớm chiều thưa hỏi. Một hôm, đi vào nhà vệ sinh đè nhào bình nước đổ bể, Sư tỉnh ngộ, làm kệ: ?Một khoảng này, một khoảng này, muôn lượng vàng ròng cũng phải tiêu. Trên đầu nón, dưới lưng bao, gió lành trăng sáng đầu gậy khêu.? Từ đây tiếng Sư vang dậy. * Ban đầu Sư trụ Tư Thọ ở Thọ Châu, kế trụ Thiếu Lâm ở Tây Kinh, rồi dời sang Chiêu Đề, sau trụ Đầu Tử ở Thơ Châu, danh đức càng rộng, trong tùng lâm đồng gọi là ?Ngung Hoa Nghiêm?. * Sư đăng tòa, có vị Tăng vừa ra. Sư nói: - Lầm. Tăng thưa: - Chỗ nào là lầm? Sư bảo: - Chẳng tin ta nói. Tăng hỏi: - Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp, vì sao Triệu Châu lại có ba bậc tiếp người? Sư đáp: - Vào nước thấy người dài. Tăng thưa: - Tại sao học nhân chưa hội? Sư bảo: - Gọi chẳng xoay đầu là sao? Tăng hỏi: - Thế nào là tâm Tổ Tổ truyền nhau? Sư đáp: - Mấy sao quanh cung nguyệt. Tăng hỏi: - Khi liền thế ấy đi thì sao? Sư đáp: - Bá Nhạc tạm buông roi, ngựa gầy khoe tám giỏi. Tăng hỏi: - Thế nào là đệ nhất nghĩa? Sư đáp: - Trăm tạp nhạp. Sư lại nói: - Chót núi Lăng-già ai hay gá bước, trước non Thiếu Thất nước rỉ chẳng thông, chính khi ấy ông già đầu vàng mở được miệng, Tăng Hồ mắt biếc mở được mắt. Tuy nhiên như thế, việc không một bề, tiên thánh may có nghĩa môn thứ hai, đủ cùng các người nói Đông nói Tây. Vì thế nói: - Xuân xanh hạ trưởng thu rụng đông khô, bốn mùa thay đổi luân chuyển đường dài. Ngươi ngu tâm sanh kia đây, người đạt một vị không khác. Sư im lặng giây lâu nói: - Thiểm Phủ trâu sắt nuốt voi lớn, Gia Châu Phật nhằm ẩn tơ sen. Sư lại nói: - Gió xuân cây xưa gõ, mù sớm phủ sông hàn, mỗi mỗi đều bày hiện, bày hiện cũng sai lầm, xem xem ngay đây là gì? Làm gì kẻ mắt sáng không hang ổ, nhả chẳng được, nhai chẳng bể. Sư hét một tiếng xuống tòa. * Sư đăng tòa nói: Vòi vọi Thiếu Thất hằng chấn quần phong, có khi trong mây bày ra, có khi mù đậy không dấu, có khi chợt hiện ở trước, có miệng nói chẳng được, bị người gọi là Tăng Hồ nhìn vách. Các nhân giả! Làm sao khỏi được lỗi này, thôi thôi chẳng bằng giữ khóa. Sư lại nói: - Giọt sương sàn cỏ, tiếng gió cây xưa, trăng sáng rọi ngàn núi sắc hàn, sông trong trôi muôn khoảnh sóng mòi, nơi đây tiến được cùng quí vị cắt đứt các dòng. Nếu chưa như thế, chẳng khỏi theo mòi đuổi sóng. Thí như nước trong sông, chảy xiết đua nhau qua, mỗi mỗi chẳng biết nhau, các pháp cũng như thế. Sư cầm cây gậy nói: - Cây gậy là các pháp, là biết nhau chẳng biết nhau? Nếu biết nhau sớm đã bị biết trói, nếu chẳng biết nhau nương đâu chỉ chú. Sư lia cây gậy một cái nói: - Một chữ BIẾT là cửa các thứ diệu. Lại nói: Lầm! Sư xuống tòa. * Phú Trịnh Công mỗi khi đàm luận với Sư, Sư liền cho là phi, mà Trịnh Công nói lý không thôi. Một hôm, Sư bảo Trịnh Công: Đợi được Sơn tăng gật đầu là phải. Từ đây Trịnh Công nói ra, Sư đều lắc đầu chưa từng có đáp. Chợt một hôm giữa đêm Trịnh Công chợt tỉnh, thẳng đến gõ cửa. Sư đã đóng cửa ngủ, nghe tiếng liền gọi: - Tướng công đáng mừng việc lớn đã xong, đêm khuya lại chẳng mở cửa sáng sớm gặp nhau. Đến sáng gặp nhau, Sư thấy ở xa, chưa nói một câu đã gật đầu. Trịnh Công rất vui. * 12. THIỀN SƯ THIỆN NINH PHÁP ẤN Ở Kim Sơn Sư người Giang Châu, xuất gia với Hòa thượng trụ trì chùa Cam Lồ. Sư đến pháp hội Viên Chiếu thầy trò cơ cảm duyên hợp từ xưa. Trước tiên, Sư trụ chùa Vạn Thọ pháp tắc rất nghiêm chỉnh, lấy mình làm mẫu mực, chúng đều kính phục. * Sư thượng đường, có vị Tăng ra hỏi: - Thiên Hoàng nói thế ấy, Long Đàm nói thế ấy, chưa biết Hòa thượng nói thế nào? Sư nói: - Tay cầm roi bạch ngọc, ly châu trọn đập nát. Tăng thưa: - Thối thân có phần. Sư bảo: - Biết lỗi ắt cải. Tăng hỏi: - Thế nào là ý Tổ sư Tây sang? Sư bảo: - Đuôi cân không quả. Tăng hỏi: - Ý này thế nào? Sư đáp: - Đấu vuông có đáy. Tăng hỏi: - Thế nào là Phật? Sư đáp: - Mày như trăng khuyết, mắt tợ sao băng. Tăng hỏi: - Thế nào là Pháp? Sư đáp: - Nghĩa liệt chen nhau, sao chia đồng rộng. Tăng hỏi: - Thế nào là Tăng? Sư đáp: - Dáng xưa oai vệ ý khí trượng phu. Tăng hỏi: - Gậy tre tùy thân gặp trường thì đùa, ngày nay mở trường thi Phật, thỉnh Thầy phương tiện? Sư bảo: - Văn chẳng thêm điểm. Tăng thưa: - Đáng gọi xưa nay ít nghe. Sư bảo: - Là đề mục gì? Tăng suy nghĩ. Sư liền đánh, bèn nhìn tả hữu nói: - Tại mắt nói thấy, tại tai nói nghe, tại mũi nói ngửi, tại lưỡi luận bàn, tại thân chạm biết, tại ý phan duyên, tuy nhiên như thế, chỉ thấy đầu dùi bén, chẳng thấy đầu xuổng lụt. Nếu là Vạn Thọ thì chẳng thế, có mắt nhìn chẳng thấy, có tai lắng chẳng nghe, có mũi chẳng biết mùi, có lưỡi không đàm luận, có thân chẳng chạm biết, có ý chẳng phan duyên, một niệm tương ưng sáu căn giải thoát. Dám hỏi chư Thiền đức! Hãy nói cùng trước là đồng hay khác? Nếu có nạp Tăng đủ mắt ra đây thông tin tức, nếu không lại vì mọi người lớp lớp chú phá: Buông ra thì xe ngựa lại qua, nắm lại thì dưới trên chẳng có, nếu là hàng tác gia thạo chiến, mặc tình phải quấy đè lột. Sư nói: Nắm máy huyền ở trong tay, treo gương xưa ở trước đài, có yêu nghiệt gì dám chống cự, đáng gọi sáng ngời pháp giới tự tha mà cảnh trí toàn thâu, rỡ rỡ chân nguyên kia đây mà thánh phàm đều vắng. Do đây mà suy, Tăng đường Phật điện đối sắc hiện thân, kho trù ba cửa cùng bày việc ấy, chỉ mời bẻ gãy cây gậy nhằm trước mắt tham lấy. * Sư nói: Nếu là bàn thiền nói đạo, liền thấy có sanh diệt, lại nhắc việc xưa nay, giống hệt chẳng xem thời tiết, đêm qua gió táp mưa sa, sáng nay chóng trừ nóng bức, đến đây khéo hay tham tỏ, Đạt-ma mê là chẳng khác. * Sư nói: Cả đại địa chưa từng có một người chân chánh nêu bày tông giáo. Nếu có một người nêu bày tông giáo, người cả đại địa đều phải cột chặt đầu lưỡi. Đâu phải bảo quí vị bặt dứt thấy nghe khế hợp đạo này hay sao? Nếu kiến giải như thế thí như dùng lửa đom đóm đốt núi Tu-di, trải qua trần sa kiếp trọn không thể được. Đâu chẳng biết Thánh xưa chỉ dạy, cốt yếu người sau thấy đúng, người đạt thấy đúng xưa nay ít nghe, thấu trước tột sau. Buông đi, lời lời thấy thật, câu câu sáng tông; nắm lại, mắt mắt tùy phương, sáng ngời riêng đứng, nhằm chỗ nào thấy cổ nhân? Sư im lặng giây lâu nói: Phải biết biển núi về minh chủ, chưa tin càn khôn riêng có trời. * 13. THIỀN SƯ DUY NHẠC PHẬT NHẬT Ở Tịnh Nhơn Sư họ Trần, quê ở Trường Khê Phước Châu, lúc bảy tuổi theo Thượng nhân Triệt ở viện Tây Lâm xuất gia. Đến lớn, Sư đi tham vấn thiện tri thức, đến pháp hội Viên Chiếu dừng lại đây. Sư đứng hầu nghe nhắc lại nhân duyên ?kiếp hỏa đổng nhiên?, hoát nhiên có tỉnh. Sư ở đây hầu hạ khá lâu. Sau Sư đến trụ chùa Thừa Thiên ở Thường Châu, kế đến chùa Hoa Nghiêm ở Đông Kinh, sau cùng chùa Tịnh Nhơn ở Đông Kinh. Ngày khai đường, vua Triết Tông sai Trung sứ niêm hương. Sư lên tòa vấn đáp xong, bèn nói: Pháp môn này chẳng ở dò bẫy, đâu can hệ vấn đáp, dù cho tột mười phương cõi nước nghiền làm vi trần, mỗi mỗi vi trần đều làm nạp Tăng, mỗi vị như ngài Xá-lợi-phất, Mãn Từ Tử biện luận thấu trời bặt máy trần thế, đến trong ấy một điểm dùng cũng chẳng được. Vì cớ sao? Chúng sanh cùng Phật viên dung tự hay bình đẳng, mỗi người lỗ mũi thấu trời, mỗi mỗi vách đứng ngàn nhẫn. Bởi chẳng biết chân theo vọng chuyển, pháp đuổi duyên dời, tự mê linh quang luống gieo vào đường khác. Vì thế, vua Pháp phá hữu vận lòng từ vô duyên, tạo thuyền chèo ba thừa vớt năm tánh lăn lộn trong sóng vỗ, bóng trăng ở đầm trong, tiếng chuông trong đêm vắng, cho nên có ?trâu đất Hoài ăn lúa, giá gạo Lô Lăng mắc?. Lại chẳng khỏi nhọc Sơ tổ Đạt-ma đến nước này, giáo ngoại hoa lăng, chẳng mài gạch làm gương, trong áo có châu ly, chẳng đếm châu báu cho người, chưa treo buồm xưa, thấy thành công án. Do đó, ngộ lấy diện mục không ngộ, mê là chẳng mê cổng làng, ba đời chẳng riêng mười phương đồng bày, đất ruộng nhà mình cây khô sanh cành, lò hương miếu cổ tro lạnh lại phát lửa. Đâu chẳng tất cả ngữ ngôn văn tự, tư sanh sản nghiệp cùng thật tướng chẳng trái nhau. Nếu vậy, ?dưới cây không bóng nên đồng thuyền? ngư ông đánh trống múa hát, ?giữa có vàng ròng đầy một nước?. Lão già âu ca đồng vui thăng bình, đồng lên cõi thọ, tự là trời dài đất sâu biển lặng sông trong. Hãy nói cùng vui thăng bình một câu làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: La Phù đánh trống Thiều Châu múa. Đứng lâu trân trọng. Vua rất hài lòng ban hiệu là Phật Nhật Thiền sư. ] |