![]() |
THIỀN SƯ TRUNG HOA TẬP BA H.T THÍCH THANH TỪ |
![]() |
![]() |
||
ĐỜI THỨ MƯỜI BỐN SAU LỤC TỔ (tt) Ở Pháp Vân Sư thuở thiếu niên đi du phương, yết kiến Thiền sư Cơ ở Viên Thông. Sư vào thất, Cơ nhắc lại ?Tăng hỏi Đầu Tử: người đại tử khi sống lại thì thế nào, Tử đáp: chẳng cho đi đêm đợi sáng sẽ đến?, ý thế nào? Sư đáp: - Ân lớn khó đền. Cơ rất vui bèn sai thủ chúng. Đến chiều vì chúng cầm phất tử, cơ chậm lại vụng, chúng đều cười, Sư đỏ mặt. Hôm khác nơi Tăng đường, Sư pha trà nhân chạm bình trà rơi xuống đất, thấy cái bình nhào liền được ứng cơ tam-muội. Sau Sư nương Chơn Tịnh, nhân đọc bài kệ của Tổ: Tâm đồng cõi hư không. Hiện đồng pháp hư không, Khi chứng được hư không, Không pháp phải pháp quấy. Sư hoát nhiên đại ngộ. Mỗi khi nói chuyện với người Sư bảo: Tôi ở Thiệu Thánh thứ ba ngày hai mươi mốt tháng mười một ngộ được thiền tấc vuông. Sư trụ Qui Tông, sau chiếu dời về Cư Tịnh. Có vị Tăng hỏi:- Đạt-ma Tây sang truyền cái gì? Sư đáp:- Châu, Tần, Hán, Ngụy. Tăng hỏi:- ?Xưa Tăng hỏi Vân Môn thế nào là câu thấu pháp thân, Vân Môn đáp: trong Bắc Đẩu tàng thân?, ý chỉ thế nào? Sư đáp:- Lòng son mảnh mảnh. Tăng thưa:- Nếu là con thì chẳng thế. Sư hỏi:- Ông lại làm sao? Tăng thưa:- Đêm qua ngưỡng đầu xem Bắc Đẩu, dường như lại giống nhân bánh trong. Sư bảo:- Chỉ nhớ nước cỏ, ngoài ra không biết gì. Sư thượng đường: Tây sang ý Tổ giáo ngoại biệt truyền, chẳng phải bậc đại căn khó bề chứng nhập, người chứng nhập chẳng bị văn tự ngữ ngôn xoay chuyển, thanh sắc phải quấy làm mê, cũng không có khác Vân Môn, Lâm Tế, có lạ Triệu Châu, Đức Sơn. Vì thế nói đạo phải rõ trong có lời là không lời, trong không lời là có lời. Nếu nhằm trong ấy tiến được, đáng gọi trọn ngày mặc áo mà chưa từng mang một sợi tơ, trọn ngày ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo. Như thế quở Phật mắng Tổ có lỗi lầm gì? Tuy nhiên như thế, muốn được chẳng chuốc nghiệp vô gián, chớ chê chánh pháp của Như Lai. Sư hét một tiếng xuống tòa. * Sư thượng đường cầm cây gậy nói: Qui Tông biết chém rắn, Hòa Sơn giỏi đánh trống, vạn tượng cùng sum la đều từ trong đây đi. Sư ném cây gậy nói: Về nhà uống trà. * Sư thường nói với chúng: Lão tăng niên hiệu Hy Ninh thứ tám (1075) chăn màn tại phủ Phụng Tường cung kính, năm này nhào núi Hoa Sơn bốn mươi dặm, đè sập nhà người tám mươi thôn, bọn các ông hậu sanh trái cà trái dưa bao giờ biết được. Có người hỏi: - Trên tòa Bảo Hoa Vương vì sao một bề thế đế? Sư đáp: - Kẻ si! Phật tánh há có hai thứ sao?. * Ở Phần Đàm - (1061 - 1115) Sư họ Lương, quê ở Đường Cố phủ Hưng Nguyên. Thuở trong nôi thấy tượng Phật, Sư liền cười, đến đồng tử Sư chẳng ưa nghe rượu thịt. Sa-môn Hư Phổ ở chùa Kim Sơn đến nhà khất thực, Sư ở trước cửa ứng đối như người lớn. Lúc bấy giờ mới tám tuổi, Sư xin từ cha mẹ theo Hư Phổ về chùa. * Kinh lược Thiểm Tây là Phạm Công đến chùa Hư Phổ, Phổ tuổi già ứng đối lơ là. Sư đứng hầu bên cạnh giải thích rõ ràng tới lui có qui củ, Phạm Công muốn dẫn Sư về Thiểm Tây, Sư từ rằng: Lên núi để cầu ngọc vào biển để tìm châu, mỗi người có chí của mình. Người học đạo có bản hạnh, việc đẹp ở đời không phải là chỗ tâm thích. Phạm Công thầm khen lời này, liền cho xuất gia làm Tăng. Sư đến nương Thiền sư Thừa ở Lương Sơn. Thừa quở rằng: Khu ô chưa thọ giới dám học Phật thừa. Sư vòng tay thưa: - Đàn tràng là giới chăng? Xà-lê phạm hạnh và ba phen yết-ma là giới chăng? Thừa kinh ngạc. Sư cười thưa: - Tuy nhiên đâu dám không vâng lời dạy. Sư bèn đến Luật sư Đường An thọ giới cụ túc. Sư dạo khắp các nơi giảng dạy tại Thành đô. Pháp sư Đàm Diễn thích chỗ anh tài của Sư vỗ về bảo: Ông là pháp thuyền sau này. Phương Nam có các bậc khai sĩ như Chơn Như ở Đại Qui, Chơn Tịnh ở Cửu Phong, nên đến đó cầu đạo. Sư lễ bái vâng dạy, cùng đồng học đến Đại Qui, trụ tại đây khá lâu mà không khế ngộ. Sư đến Cửu Phong yết kiến Chơn Tịnh. Chơn Tịnh hỏi: - Ở đâu đến? Sư thưa:- Hưng Nguyên phủ đến. Chơn Tịnh hỏi:- Vừa rời chỗ nào? Sư thưa:- Đại Qui. Chơn Tịnh hỏi:- Hạ ở đâu? Sư thưa:- Qui Sơn. Chơn Tịnh xòe tay nói:- Tay ta sao giống tay Phật. Sư mờ mịt không biết. Chơn Tịnh quở: - Mới đến câu câu không sai lầm một mảy tơ linh minh thiên chân, vừa nói đến tay Phật liền thành cách ngại, bệnh tại chỗ nào? Sư thưa:- Chẳng hiểu. Chơn Tịnh bảo:- Tất cả hiện thành lại bảo ai hiểu? Sư ở đây hầu hạ hơn mười năm. Một hôm Sư cầm cây gậy vạch mặt hồ cho trống giặt y, nhân đây đại ngộ, chạy đến Chơn Tịnh thuật sở ngộ. Chơn Tịnh quở:- Trong đây lại dám dùng gai sậy ư? Từ đây, Sư càng ẩn giấu mà danh càng bày. Tiết chế Lý Cảnh Chơn thú Dự Chương mến đức Sư thỉnh khai pháp ở Vân Nham. Chưa bao lâu, Phạm Công mời Sư đến Phần Đàm. Sư lời lẽ như tên bay nước lũ, cơ phong như điện chớp, Thiền tăng sợ mà kính. Dưới sự hướng dẫn của Sư có cả ngàn người. Sư tự hiệu là Trạm Đường. Có vị Tăng mới đến yết kiến liền trải tọa cụ. Sư bảo:- Chưa hỏi việc người, Thượng tọa vừa rời chỗ nào? Tăng thưa:- Qui Tông ở Lô Sơn. Sư hỏi:- Qui Tông chỗ nào? Tăng thưa:- Hạ! Sư bảo:- Trong hang ếch làm kế sống. Tăng thưa:- Hòa thượng sao không lãnh thoại? Sư bảo:- Ông đâu chẳng phải từ Qui Tông lại. Tăng thưa:- Phải. Sư bảo:- Kẻ trước lừa sau ngựa. Sư hỏi đệ nhị tòa:- Vừa ở chỗ nào đến? Tăng thưa:- Viên Châu. Sư hỏi:- Hạ ở đâu? Tăng thưa:- Ngưỡng Sơn. Sư hỏi:- Lại thấy tiểu Thích-ca chăng? Tăng thưa:- Thấy. Sư hỏi:- Lỗ mũi dài hay ngắn? Tăng suy nghĩ. Sư bảo: - Ông thầy quê, lời nói đã rơi. * Sư hỏi vị Tăng: - Ông đến làm gì? Tăng thưa: - Con đến vấn an Hòa thượng. Sư bảo: - Mây bay đầu núi nhàn biết mấy, nước chảy dưới khe rất nhộn nhàng. Tăng thưa: - Hòa thượng chớ lừa người. Sư bảo: - Mã Đại sư vì sao từ gót chân ông đi qua? Tăng không đáp được. Sư bảo: - Lại là Xà-lê lừa lão Tăng. * Sư ở Phần Ninh gặp Hòa thượng Tử Tâm, Tử Tâm hỏi:- Ông trở về trong núi này chăng? Sư thưa: - Cần đến lễ bái Sư huynh. Tử Tâm bảo: - Khi ông đến khéo xem phương tiện. Sư thưa: - Cớ sao? Tử Tâm bảo: - Con đường Hoàng Long ta trơn. Sư hỏi: - Đã té nhào bao nhiêu người? Tử Tâm bảo: - Ông chưa đến Hoàng Long gót chân trước đã rít. Sư thưa: - Hòa thượng đâu được đóng cửa tiếp nhau. Tử Tâm lại hỏi: - Lão Chuẩn nuôi nhiều Tăng thế này chỉ là tụ đầu cãi lẽ rồi ăn cơm, ông cứu kính đem cái gì vì người? Sư thưa: - Nhân gió thổi lửa. Tử Tâm bảo: - Nhiễu loạn làm gì? Sư thưa: - Từ đây có chút ít. Sư hỏi lại: - Trong núi Hòa thượng nuôi bao nhiêu chúng? Tử Tâm nói: - Bốn trăm người toàn là Thiền tăng tinh xảo. Sư thưa: - Trong hang sư tử không thú khác. Tử Tâm bảo: - Khi ông đến cũng phải chiếu cố. Sư thưa: - Cũng đợi khi đến. Tử Tâm hỏi: - Khi đến làm sao? Sư thưa: - Kêu lại rửa chân. Tử Tâm bảo: - Ông thầy đất Xuyên mở miệng to thế. Sư thưa: - Thượng tọa Chuẩn từ lâu như thế. Tử Tâm nói: - Ba mươi năm đùa cỡi ngựa. Thấy Tăng xem kinh, Sư hỏi: - Xem kinh gì? Tăng thưa: - Kinh Kim Cang. Sư bảo: - Trong kinh nói ?Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp? phải chăng? Tăng thưa: - Phải. Sư bảo: - Tại sao núi Vân Cư cao, núi Bảo Phong thấp? Tăng thưa: - Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp. Sư bảo: - Ông chỉ làm được kẻ tôi tớ Tọa chủ. Tăng thưa: - Hòa thượng lại thế nào? Sư bảo: - Hãy buông lỗ mũi ông để thở. * Sư hỏi vị Tăng: - An vui chăng? Tăng thưa: - Vô sự. Sư bảo: - Ông còn có việc lớn. Tăng hỏi: - Chưa biết con còn có việc gì? Sư bảo: - Gần đây Kim Cang ở Thượng Lam cùng Thổ Địa ở Thiên Ninh đánh nhau. Tăng không nói được. Sư bảo: - Nguyên lai vô sự. * Một hôm Sư thượng đường: Bảo Phong một đêm ngủ không suy tính, ngày nay thượng đường moi bụng móc ngực thảy suy nghĩ chẳng ra, mà nay đến giờ việc bức ngặt phải ra cửa gấp, liền đưa cây gậy nói: Thượng tọa Chuẩn gần đây làm được cán cây phất tử, hãy tạm đem cúng dường đại chúng, bèn ném xuống nói: Gốc tre lá móc dây gai cột, dạng tựa thiên nhiên riêng một nhà. * Niên hiệu Chánh Hòa thứ năm (1115) mùa hạ tháng sáu, Sư bị bệnh. Thủ tọa đến hỏi thăm: - Ngày gần đây thân thể Hòa thượng thế nào? Sư bảo: - Lừa què leo vách. Thủ tọa thưa: - Hòa thượng cũng nên uống thuốc. Sư bảo: - Cây mục bắc cầu. Thủ tọa thưa: - Cũng biết Hòa thượng chẳng chịu kiêng miệng. Sư hỏi: - Ông làm sao? Thủ tọa suy nghĩ để nói. Sư bảo: - Ông cũng cần phải uống thuốc. Đến ngày hai mươi hai tháng bảy, Sư nói kệ rồi tịch, thọ năm mươi lăm tuổi, ba mươi lăm tuổi hạ. Thừa tướng Trương Vô Tận làm lời bia, Giản Nghị Hồng Câu phụ chép Ngữ lục. * Ở Ngũ Tổ Sư họ Đặng, quê ở Miên Châu, đến ba mươi lăm tuổi mới thế phát xuất gia. Sư thọ giới cụ túc xong đến Thành đô học tập luận Bách Pháp, Duy Thức. Sư nhân nghe Bồ-tát khi vào kiến đạo, trí cùng lý hợp, cảnh cùng thần hội, chẳng phân năng chứng sở chứng. Ngoại đạo ở Ấn Độ thường nạn Tỳ-kheo rằng: Đã chẳng phân năng chứng sở chứng, lại lấy cái gì làm chứng? Tỳ-kheo không đáp được. Ngoại đạo chê bai không đánh chuông trống, chúng lại mặc ca-sa. Pháp sư Huyền Trang sang Ấn Độ cứu được nghĩa này rằng: ?Như người uống nước lạnh nóng tự biết.? Từ đây mới giải được cái nạn này. Sư nói: Lạnh nóng ắt là biết vậy, thế nào là việc tự biết? Sư liền chất vấn thầy dạy: Chẳng biết lý tự biết như thế nào? Giảng sư cũng không giải được, chỉ khuyên rằng: Ngươi muốn rõ lẽ này nên đến phương Nam hỏi những vị truyền Phật Tâm tông. Sư liền mang gói sang phương Nam. Sư gặp các bậc tôn túc đều hỏi câu này, chỗ nghi trọn chẳng phá được. Khi đến Thiền sư Bổn ở Viên Chiếu thì những nhân duyên xưa nay đều hiểu hết. Chỉ hiểu chỗ: ?Tăng hỏi Hưng Hóa: - Khi bốn phương tám mặt đến thì thế nào? Hưng Hóa đáp: - Đánh ở giữa đi. Tăng làm lễ. Hưng Hóa nói: - Hôm qua ta đi phó trai trong thôn đi đường gặp một trận gió to mưa lớn, lại nhằm trong miếu cổ tránh được qua.? Sư đem điều này hỏi Thiền sư Bổn. Bổn đáp: - Đây là nhân duyên dưới tông Lâm Tế, phải hỏi con cháu trong nhà ấy mới được. Sư liền đến yết kiến Thiền sư Viễn ở Phù Sơn thưa hỏi điều này. Viễn bảo: - Ta có một thí dụ nói tương tợ cho ông. Ông giống như kẻ bán củi trong ba thôn, gánh một gánh đến chữ thập (+) đầu đường đứng hỏi người, ở trong nhà ngày nay thương lượng việc gì? Sư thầm nghĩ rằng: Nếu như thế vẫn chưa phải. Một hôm, Viễn bảo: - Ta già rồi e qua mất thì giờ của ông, nên đến nương với Bạch Vân, lão này tuy hậu sanh ta chưa biết mặt, chỉ thấy bài tụng ba gậy của Lâm Tế có chỗ hơn người, ắt hay làm xong việc lớn cho ông. Sư thầm lặng lễ từ. Đến Bạch Vân, Sư nhắc vị Tăng hỏi Nam Tuyền về châu ma-ni để thưa hỏi. Bạch Vân liền nạt. Sư lãnh ngộ dâng bài kệ đầu cơ: Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa Xoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông Kỷ độ mãi lai hoàn tự mại Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong. Dịch: Trước non một mảnh nhàn điền địa Tay chấp tận tình hỏi Tổ ông Mấy độ bán ra rồi mua lại Vì thương tùng trúc dẫn gió lành. Bạch Vân ấn khả, sai coi việc trồng gai. Chưa bao lâu, Bạch Vân đến bảo Sư: - Có một số Thiền khách từ Lô Sơn đến đều có chỗ ngộ nhập, bảo y nói cũng nói được rõ ràng, cử nhân duyên hỏi y cũng hiểu được, bảo y hạ ngữ cũng hạ được, chỉ là chưa hiện tiền. Khi ấy Sư rất nghi, thầm nghĩ: Đã ngộ rồi nói cũng nói được, rõ cũng rõ được, tại sao chưa hiện tiền? Sư bèn nghiên cứu luôn nhiều ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộ, của báu từ trước buông hết, chạy đến yết kiến Bạch Vân. Bạch Vân dùng tay múa chân đạp. Sư chỉ một cái cười mà thôi. Sau Sư nói: - Tôi nhân đây khắp thân xuất mồ hôi, liền rõ được dưới chỗ gió lành. Một hôm Bạch Vân dạy chúng: - Người xưa nói như gương đúc tượng, sau khi tượng thành gương ở chỗ nào? Chúng hạ ngữ đều chẳng khế hợp. Bạch Vân hỏi Sư, Sư lại gần thăm hỏi nói: - Cũng chẳng so sánh nhiều. Bạch Vân cười bảo: - Phải là Đạo giả mới được. Ban đầu Sư ra trụ trì chùa Tứ Diện, kế dời về Bạch Vân. Về già đến trụ Đông Sơn núi Ngũ Tổ. Tăng hỏi:- Cầm gậy lãnh chúng Tổ lệnh đang hành, ngồi cắt yếu tân, ý Sư thế nào? Sư đáp:- Gió thu thổi sông Vị, lá rụng đầy Trường An. Tăng thưa:- Tứ Diện không cửa núi non đẹp, ngày nay mới được chủ nhân về. Sư bảo: - Ông nói đầu đường ở chỗ nào? Tăng thưa: - Tại sao đối diện chẳng biết nhau? Sư bảo: - Đáng mừng đến rồi. Tăng hỏi: - Thế nào là một giọt nước Bạch Vân? Sư đáp: - Giã gạo đập gai. Tăng hỏi: - Người uống thì sao? Sư đáp: - Bảo ông không chỗ để mắt. Tăng hỏi: - Đầu lưỡi người trong thiên hạ bị Bạch Vân ngồi cắt, đầu lưỡi Bạch Vân người nào ngồi cắt? Sư đáp: - Thôn đông ông Vương Đại. Sư thượng đường: Cổ nhân nói: ?Nếu ta vì ông nói liền dứt mất lưỡi của ta, nếu chẳng nói với ông liền câm mất miệng của ta, hãy nói lại có chỗ vì người hay chăng?? Tứ Diện có khi nghĩ vì ông nuốt mất, chỉ bị răng trước cửa làm ngại, nghĩ vì ông mửa hết, lại bị cổ họng nhỏ, hãy nói lại có chỗ vì người hay không? Sư bèn nói: - Tứ Diện tự đến Liễu Hạ Huệ. Sư thượng đường: Bạch Vân chẳng biết nói thiền, ba cửa mở qua hai bên, có người động đến cây chốt, hai cánh quạt đông quạt tây. Sư thượng đường: Một bề thế ấy đi, lộ vắng người thưa, một bề thế ấy đi, cô phụ thánh trước, bỏ hai lối này Tổ Phật không thể gần, giả sử cùng Bạch Vân đồng sanh đồng tử cũng chưa xứng bình sanh. Sao vậy? Phụng Hoàng chẳng phải phàm phu vật, chẳng được ngô đồng thệ chẳng nương. * Tiểu tham Sư nhắc, Đức Sơn nói: ?Đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy.? Trong chúng thông đó rất nhiều, hiểu đó chẳng ít. Hãy nói nhằm chỗ nào thấy Đức Sơn? Có người nào chẳng tiếc tánh mạng thử ra nói xem? Nếu không, Sơn tăng vì đại chúng cùng Lão nhân Đức Sơn thấy nhau vậy. Đợi Đức Sơn nói: ?đêm nay chẳng đáp thoại, người hỏi thoại ăn ba mươi gậy? chỉ nhằm Ngài nói: ?có thoại cũng chẳng hỏi, gậy cũng chẳng ăn?. Các ông nói, lại ăn gậy Đức Sơn chăng? Đến trong đây phải là kẻ ấy mới được. Huống là ta hơn mười năm trên biển kiếm tìm, thấy mấy vị tôn túc tự cho là hiểu đúng. Khi đến trong hội Phù Sơn liền là mở miệng chẳng được. Sau đến dưới cửa Bạch Vân, nhai vỡ được một hạt đậu đá liền được trăm vị đầy đủ. Hãy nói một câu hạt đậu làm sao nói? Sư lại nói: Hoa nở màu gà my sớm thu, người nào hay nhuộm đỏ sợi tơ, có khi gió động cùng nương tựa, dường nhắm trước thềm dấu chẳng thôi. * Sư thượng đường: Hôm qua Sơn tăng vào thành thấy một hàng rào trong là người gỗ, liền lại gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động đi ngồi xanh vàng đỏ trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải xanh bọc lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi ông tên gì, kia nói: Hòa thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì? Đại chúng! Lão tăng bị kia hỏi một câu khiến cho không lời có thể đáp không lý có thể bày. Lại có người vì Sơn tăng nói được chăng? Hôm qua trong ấy rơi cành, ngày nay trong đây nhổ gốc. * Sư dạy chúng: Chân như phàm thánh đều là lời mộng, Phật và chúng sanh đều là Tăng ngữ. Hoặc có người ra nói: Lão Bàn Sơn ghê! Chỉ nói với y: Chẳng nhân Tử Bá hoa nở sớm, đâu được hoàng oanh đậu liễu tơ. Nếu lại hỏi rằng: Lão Ngũ Tổ ghê! Tự bảo: Vâng! Tỉnh tỉnh lấy. * Sư dạy chúng nhắc: Hòa thượng Đức Sơn nhân Tăng hỏi ?chư Thánh từ trước lấy pháp gì dạy người?, Đức Sơn đáp: ?tông ta không ngữ cú, không một pháp cho người?. Tuyết Phong do đây có tỉnh. Sau có vị Tăng hỏi Tuyết Phong: ?Hòa thượng thấy Đức Sơn được cái gì liền thôi đi?, Tuyết Phong nói: ?ta khi ấy đi tay không về tay không?. Ngày nay Bạch Vân nói: ?Nhằm thấu chưa qua.? Có người từ Đông Kinh lại, hỏi y: ?chỗ nào lại?, y lại nói: ?Tô Châu lại?, hỏi y: ?Tô Châu việc thế nào?, y nói: ?tất cả tầm thường?. Tuy nhiên như thế, dối Bạch Vân chẳng được. Cớ sao? Chỉ vì ngữ âm mỗi nơi có khác. Cứu kính thế nào? Tô Châu ấu, Thiệu Bá sen. * Ba ông Phật hầu Sư, trên một cái nhà trạm nói thoại ban đêm, đến khi trở về đèn đã tắt. Sư ở trong tối bảo: - Mỗi người hạ một chuyển ngữ. Phật Giám thưa: - Phụng đẹp múa đêm vắng. Phật Nhãn thưa: - Rắn sắt ngang đường xưa. Phật Quả thưa: - Xem gót chân. Sư bảo: - Diệt tông ta là Khắc Cần vậy. * Niên hiệu Sùng Ninh thứ ba (1104) ngày hai mươi lăm tháng sáu, Sư thượng đường từ chúng: Hòa thượng Triệu Châu có câu rốt sau, các ông làm sao hội, thử ra nói xem? Nếu hội được chẳng ngại sống thích thú tự tại, bằng chưa được thế, việc tốt này làm sao nói? Sư im lặng giây lâu nói: Nói tức nói rồi, chỉ là các ngươi chẳng biết. Cần hiểu chăng? Giàu hiềm ngàn miệng ít, nghèo hận một thân nhiều. Trân trọng! Sư trở về trượng thất tắm gội sạch sẽ, gần sáng nằm kiết tường mà tịch. * Núi Vân Cái Đàm Châu Sư họ Quách, quê ở Thụy Châu. Ngày khai đường, có vị Tăng hỏi: - Chư Phật ra đời trời mưa bốn thứ hoa, Hòa thượng ra đời có điềm lành gì? Sư đáp: - Ngàn nghe chẳng bằng một thấy. Tăng hỏi: - Sau khi thấy thế nào? Sư đáp: - Mù! Tăng hỏi: - Thế nào là pháp thân thanh tịnh? Sư đáp: - Nhà không tớ nhỏ chẳng thành quân tử. Tăng hỏi: - Đem tâm tìm tâm làm sao tìm được? Sư đáp: - Người Ba Tư học tiếng Hán. Tăng hỏi: - Thế nào là chỗ con xuất thân? Sư đáp: - Tuyết Phong nguyên là người Lãnh Nam. Tăng hỏi: - Nói được hành chẳng được, hành được nói chẳng được, chưa biết hành chẳng được làm sao nói? Sư đáp: - Miệng ở dưới gót chân. Tăng hỏi: - Nói chẳng được làm sao hành? Sư đáp: - Đạp đến đầu lưỡi. Tăng hỏi: - Biết Thầy đã chứa báu trong bị, ngày nay chốn này mượn tạm xem? Sư đáp: - Vừa rồi dường bị người mượn đi. Sư thượng đường: Người đi lỗ mũi thấu trời, kẻ lại chân đạp đất thật. Hãy nói Tổ sư ý nhằm chỗ nào? Sư im lặng giây lâu nói: Hằng giận xuân về không chỗ kiếm, chẳng hay trôi thẳng đến trong đây. * Sư thượng đường lớn tiếng gọi: - Thị giả! Thị giả: - Dạ! Sư hỏi: - Đại chúng họp hay chưa? Thị giả thưa: - Đại chúng đã họp. Sư bảo: - Một cái kia vì sao chẳng đến dự tham? Thị giả câm miệng. Sư bảo: - Đến tức chẳng điểm. * Sư thượng đường: Đầy miệng nói chẳng ra, câu câu rất sáng tỏ, đầy mắt xem chẳng thấy, núi núi chồng lẫn xanh, tiếng trống vẫn chẳng hiểu, hà huống là tiếng chuông. Sư hét một hét. * Sư thượng đường cầm ngang cây gậy nói: Răng như đao kiếm mặt tợ mắt sắt, phóng điện sáng sáng chẳng dứt, tay nắm một vạn cân tật-lê, khi rảnh gõ rơi mặt trăng bên trời. Chao một cái. Tăng hỏi: - Thế nào là sư tử ăn thịt người? Sư đáp: - Trước Ngũ Lão phong. Tăng thưa: - Cái này há biết ăn thịt người. Sư đáp: - Ngày nay lượm được tánh mạng. Sư thượng đường: Đầu đội núi Tu-di, chân đạp bốn biển cả, hít thở sấm gió ồn, động dụng sanh năm sắc, nếu hay biết được y, mặc tình năm tháng đổi. Hãy nói người nào biết được y? Sư hét một tiếng nói: - Tớ vườn nhà. * Ở Thượng Phương Ngày khai đường Thủ tọa bạch chùy xong. Sư nói: - Trước bạch chùy quán một lại chẳng thành, sau bạch chùy quán hai lại chẳng phải, đến trong đây dù là mắt sắt tròng đồng, cũng phải vỡ trăm mảnh. Có Thiền tăng nào chẳng sợ nguy vong, thử ra xem? Khi ấy có hai vị Tăng đồng ra. Sư nói: - Một mũi tên rơi hai chim Điêu. Tăng thưa: - Thoại con chưa hỏi đâu được rối loạn. Sư hỏi: - Đâu chẳng phải là tăng Tân La ư? Tăng suy nghĩ. Sư bảo: - Kẻ đánh cây cột cái. Tăng hỏi: - Thế nào là việc bên chưa xuất thế? Sư đáp: - Đáy giếng con ếch nuốt mặt trăng. Tăng hỏi: - Thế nào là việc bên xuất thế? Sư đáp: - Con cò đạp gãy cành lau khô. Tăng hỏi: - Bỏ hai lối này, thế nào là chỗ Hòa thượng vì người? Sư đáp: - Kim Cang dùi ấy thật hoàn hảo, bày ở đầu đường bán cho ai. Tăng hỏi: - Thế nào là con trâu đực nhiều năm? Sư đáp: - Răng thưa mắt mờ. Tăng hỏi: - Chợ ồn gặp nhau việc thế nào? Sư đáp: - Đi đông mua tiện đi tây mua quí. Tăng thưa: - Chợt như chẳng khởi tiện chẳng khởi quí lại làm sao? Sư đáp: - Củ cải Trấn Châu. Tăng hỏi: - Tất cả hàm linh đều có Phật tánh, đã có Phật tánh vì sao lại chun vào thai lừa bụng ngựa? Sư đáp: - Biết mà cố phạm. Tăng hỏi: - Chưa biết nhằm chỗ nào sám hối? Sư đánh nói: - Hãy làm thầy ngựa chết. Tăng hỏi: - Khi thấy mặt trình nhau thế nào? Sư bảo: - Mắt trái nửa cân mắt phải tám lượng. Tăng đưa tọa cụ nói: - Cái này ghê? Sư bảo: - Chẳng nhọc đưa ra. Sư nhìn bên phải bên trái nói: Ông già mặt vàng đi khắp bảy bước, duới gót chân chính nên một chùy, Hồ tăng mắt biếc ngồi ngó chín năm, trên đảnh môn đáng tiếc một thẻ. Đương thời nếu có Thiền tăng vì chúng kiệt lực, hạ được độc thủ này, khỏi phải niêm hoa vi tiếu uổng phá mặt mày, đứng trong tuyết đến gối, trở thành dấu xe. Từ đây đem lầm đến lầm, đem sọt đánh sọt, bèn có năm canh hương thơm ngàn đèn nối sáng, nhằm trên bàn gỗ xướng hai nói ba, nơi đầu cây gậy tức lật chỉ nam vẽ bắc, liền có nhóm tiến trước lui sau hỏi pháp hỏi tâm, có những kẻ nương cửa tựa vách tìm Phật tìm Tổ. Trước sân chỉ bá, liền gọi là ý Tổ Tây sang, trong mặt trời xem núi, lại lầm nhận tự kỷ học nhân. Đâu chẳng biết một đại sự này vốn tự linh minh, tột mé vị lai chưa từng gián đoạn, chẳng nhờ tu chứng há ở nghĩ suy. Dù Thu Tử vẫn có chỗ chẳng biết, chẳng phải hay biện của Mãn Từ. Chẳng thấy Mã Tổ một tiếng hét, Bá Trượng tai điếc ba ngày. Bảo Thọ lệnh hành Trấn Châu, một thành mù mắt. Đại cơ đại dụng như điện chớp không thể dừng, một xướng một đề dường bờ đứt không thể đi. Chính ngay khi ấy chư Phật ba đời chỉ có thể đứng bên xem, sáu đời Tổ sư chứng minh có phần. Đại chúng hãy nói, ngày nay lại có chứng minh hay chăng? Sư im lặng giây lâu nói: Thẻ! * Sư thượng đường: Thập Đắc bửa củi, Hàn Sơn thổi lửa, chỉ có Phong Can trong núi ngồi yên. Hãy nói Phong Can có chỗ gì hay? Sư im lặng giây lâu nói: - Nhà không tớ nhỏ chẳng thành quân tử. * Ở Tịnh Từ phủ Lâm An Sư họ Trương, quê ở Bách Việt. * Sư thượng đường: Tâm ấn Tổ sư chẳng dài chẳng ngắn chẳng vuông chẳng tròn chẳng trong chẳng ngoài cũng chẳng khoảng giữa. Xin hỏi đại chúng quyết định là hình mạo gì? Sư cầm gậy nói: Cổ triện chẳng thành văn, truy bạch khó đồng thể, từ trước tự phân minh, đâu cần lại chuyên tạo. Sư gõ giường thiền xuống tòa. * Sư thượng đường: Ra cửa thấy sông núi, vào cửa thấy điện Phật, linh quang chỗ chạm thông, các người sao chẳng tiến. Nếu chẳng tiến, Tịnh Từ ngày nay chẳng được tiện. Sư thượng đường: Tổ sư nói: Ta xưa đến cõi này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành. Khi ấy Tịnh Từ nếu thấy nói như thế, dùng cây gậy thông đen đập một gậy chết tốt, chôn trên đất không âm dương, khiến Ngài nhả hơi chẳng được, cớ sao nỡ để Ngài gạt người cả nước Đại Đường. Trong chúng có người vì Tổ nhả hơi chăng? Ra đây một lúc chôn hết. * Sư thượng đường: Nếu luận việc này như ném bảo bối, loạn gieo vàng ngọc, người quên mình tự cam nghèo cùng, người có mắt tin lấy đưa ra. Vì thế nói, Diêm-phù có báu lớn thấy ít được lại là hiếm, nếu người đem dâng ta, thành Phật chỉ trong bữa ăn. Sư cầm cây gậy nói: - Như nay một lúc trình tương tợ, khắp mời đại chúng để mắt nhìn lên. Sư ném cây gậy xuống tòa. * Ở Tuyết Phong Sư con nhà họ Du, quê ở Tiền Đường. * Có vị Tăng hỏi: - Khi điện cổ không đèn thì thế nào? Sư đáp: - Vách đông đánh vách tây. Tăng thưa: - Thế ấy ắt chụp được cột cái. Sư bảo: - Chưa dám nhận nhau. Sư thượng đường: Thả lưới đại giáo bắt cá trời người, Hộ Thánh chẳng giống Lão Hồ mắc bùn dính nước, chỉ là thấy thỏ thả chim ưng, gặp nai buông tên. Sư bèn to tiếng gọi đại chúng nói: - Trúng. * Sư thượng đường: Ngày xưa Dược Sơn sớm chiều chẳng tham thiền trải qua cả tháng, một hôm đại chúng vừa họp, Dược Sơn bèn trở về phương trượng. Chư Thiền đức! Khi kia Phật pháp sớm tự đạm bạc, luận ra vẫn so sánh chút ít. Như nay mỗi ngày đánh trống đăng tòa lăng xăng lộn xộn, người hỏi vết xe, người đáp lưỡi như điển chớp, thảy tợ ngày nay huệ mạng ở Linh Sơn nguy như tơ mành, gia phong Thiếu Thất hiểm tợ trứng chồng. Lại đâu bằng Thiền tăng khái nhiên có chí đỡ đứng tông thừa bước ra hét tan đại chúng, chẳng những bên tai im cãi, sẽ khiến chánh pháp còn lâu, há chẳng phải to sao? Nếu như trên gậy chẳng thành rồng, Sơn tăng sẽ ngược hành lệnh này. Sư cầm gậy đuổi tan. Sư thượng đường: Chân mày ngang khắp mười phương, lông mi trên thấu trời xanh dưới suốt huỳnh tuyền, hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào. Sư im lặng giây lâu nói: - Chép. Sư thượng đường: Trên đảnh núi Diệu Cao biển mây mênh mông, trước núi Thiếu Thất tuyết sương mù mịt, đứng riêng đến gối luống tự khổ nhọc, bảy ngày chẳng gặp một trường bối rối, Biệt Phong thấy nhau rơi tại giữa đường, một chiếc giày về Tây xa lại càng xa. Sư xoay cây gậy xuống tòa. Sư thượng đường: Đại đạo chỉ ở trước mắt, cốt là trước mắt khó thấy, muốn biết chân thể đại đạo, sáng nay ngày mười lăm tháng ba, chẳng nhọc đứng lâu. Sư thượng đường: Tất cả pháp chẳng sai, Vân Môn bánh hồ, Triệu Châu trà, trong lầu Hoàng Hạt thổi sáo ngọc, tháng năm Giang Thành hoa mai rụng, hổ thẹn Thượng tọa Thái Nguyên Phù canh năm nghe tiếng trống, trời sáng gảy tỳ bà. Sư hét một hét. * Sư thượng đường: Về nam thưa hỏi chư thiện hữu đi nát giầy cỏ, tuyệt học vô vi ngồi tiêu ngày tháng, phàm tình dễ thoát thánh giải khó quên, chỉ có tơ tóc đều thành rỉ chảy, trong tốt vì nói như đất nâng núi, ứng vật hiện hình như lừa nhìn giếng, dù không so tính vết xe đã thành, nếu luận tương ưng càng không giao thiệp. Gắng, chư nhân giả! Chớ lầm dụng tâm, mỗi người tự về nhà lại cầu việc gì? * 28. THIỀN SƯ CHÍ TUYỀN TỔ ĐĂNG Ở Vân Phong Sư họ Trần, quê ở Việt Đông. Sư thượng đường: Thôi đi hết đi, một niệm muôn năm đi, cây khô tro tàn đi, lò hương miếu cổ đi, một mảnh lụa trắng đi. Đại chúng! Cổ nhân chỗ thấy như mặt trời soi trong không, chẳng mắc hai bên há rơi ấm giới. Than ôi! Cháu con sau này phần nhiều khởi hiểu một bên sắc. Sơn tăng tức chẳng thế, chẳng thôi đi chẳng hết đi, nghiệp thức mênh mông đi, bảy điên tám đảo đi, chữ thập (+) đầu đường ồn vang vang, trong thanh sắc nằm ngồi đi, ba nhà trong thôn bồi đường bít lộ, trong rừng gai góc dạo chơi đi, núi đao cây kiếm chĩa bụng đâm tim, vạc dầu lò lửa lủng da nát xương đi, cử xướng như thế dường như trẻ con ba tuổi đánh cầu thêu. Sư thượng đường: Trúc ốm tùng dài nhỏ giọt hương, gió trôi trăng mỏng độ viêm lương, chẳng biết Nguyên Tây chùa ai ở, hôm sớm chày kình đuổi tịch dương. Sư thượng đường: Chẳng phải gió động chẳng phải phan động, Thiền tăng mất đi lỗ mũi, là gió động là phan động, rõ ràng là cái thùng sơn, hai đoạn chẳng đồng mắt mờ tai điếc. Nước khe như chàm biếc, hoa núi tợ lửa hồng. Có vị Tăng hỏi: - Vào cửa Đức Sơn liền ăn gậy, ý chỉ thế nào? Sư đáp: - Bó gậy trị dân. Tăng hỏi: - Vào cửa Lâm Tế liền bị hét, ý chỉ thế nào? Sư đáp: - Chẳng nói mà giáo hóa. Tăng hỏi: - Chẳng biết Hòa thượng vì người thế nào? Sư đáp: - Một đao hai khúc. Tăng thưa: - Cửa sắt vô phùng mời Thầy mở? Sư đáp: - Tiến ba bước. Tăng thưa: - Hướng thượng không cổng thỉnh Thầy đóng? Sư đáp: - Lui sau một tầm. Tăng thưa: - Chẳng mở chẳng đóng lại làm sao? Sư nói: - Hồng hồng liền đánh. ] |