CỬA THỨ NHẤT: TÂM KINH TỤNG (tt)
8. Sắc tức thị không không tức thị sắc.
Chẳng không, không chẳng có
Chẳng sắc, sắc không hình
Sắc không về một mối
Đất tịnh được yên lành
Chẳng không, không vi diệu
Chẳng sắc, sắc phân minh
Sắc không chẳng phải tướng
Nơi đâu dựng thân hình.
Nếu chúng ta thấy rõ ngay nơi cái không
đó, nó không thật là không; ngay nơi sắc đó, nó không thật là sắc thì
không nó không thật, mà sắc cũng không là sắc thật, phải vậy không? Như
vậy, không chẳng thật là không, sắc chẳng thật là sắc tức là sắc không
đồng một nguồn, đồng trở về một mối. Sắc cũng là giả sắc mà không cũng là
giả không, thì không và sắc đều là hư giả, đồng một nguồn hư giả. Như vậy
sắc, không đều là hư giả, mà hư giả thì nó có khác nhau gì đâu? Tỉ dụ như
bây giờ tôi có hai hình nhân làm bằng gỗ rồi tô điểm, mặc áo đồ bên ngoài,
rồi trang điểm thành một người nam, một người nữ lắp vào một bộ máy ở
trong, cho nó hoạt động: nó cũng đi, cũng múa, cũng nói... Khi đó có kẻ
quê mùa không biết đó là hai tượng gỗ do máy mà nó cử động thì họ chấp đây
là người nam, kia là người nữ, người này đẹp, người kia xấu... Nhưng nếu
chúng ta biết hai người đó làm bằng máy, bằng gỗ thì chúng ta nói sao?
Nam, nữ gì cũng là gỗ hết, tuy hai mà một. Ông nói nó là hai nhưng tôi
thấy chỉ là một, một loại gỗ, một loại người máy mà thôi chớ không có nam
nữ gì hết, không có thật. Mình thấy thật mới chia nó hai, cái này khác cái
kia. Còn thấy nó là giả chỉ là một mối giả. Bây giờ mình biết sắc là giả
sắc, không giả không như vậy nó là hai hay là một? Không và sắc đều là giả
thì đồng một cái giả thôi chớ gì. Ở đây nói giả cho nên đồng một nguồn.
Như vậy tịnh độ đắc an ninh, hiện tại mình ở trong cực lạc an ninh rồi
không có gì hết. Vì sắc, không, mình không thấy nó là hai nữa, nó chỉ là
một mối giả mà thôi. Như hồi nãy tôi nói thân này, sắc tức là chỉ cho có,
không tức là chỉ cho không. Có và không là để tượng trưng cho sanh và tử.
Đối với thân ở ngoài sắc tướng hợp thì gọi là có, rã ra thì gọi là không.
Cũng như thân mình hợp lại gọi là sanh, rã ra thì gọi là tử. Nói sắc,
không mình không nói hai thì sanh tử còn thấy hai đâu? Sanh tử không hai
thì ngay nơi đây là Tịnh độ an ninh rồi, không còn tìm Tịnh độ ở đâu nữa
mà ngay cõi này đã là Tịnh độ rồi. Tại sao là Tịnh độ? Vì hết còn sợ khổ
vì chết đói, hết sợ khổ vì chết lạnh, hết còn sợ khổ vì chết, không còn sợ
khổ nữa, không còn sợ cái tan rã đó nữa thì tự nhiên là an lành rồi nên
cho đó là an ninh.
Chẳng không,
không vi diệu. Chẳng sắc, sắc phân minh.
Sắc không
chẳng phải tướng. Nơi đâu dựng thân hình.
Nếu mà - không
phải không thì cái không đó mới là diệu. Không phải không, mình thấy ngay
cái không là không thật là không. Trong cái sắc mình cũng biết nó là
không, như vậy cái không đó mới là cái không diệu, cái không diệu đó tức
là chân không đó.
- Không phải
sắc, sắc phân minh. Cái sắc mà mình thấy không thật là sắc, thì cái đó
mình mới rành rẽ về cái sắc. Cái sắc là cái tướng giả hợp mà mình biết rõ.
Như vậy sắc không đều không phải tướng, như bên này người ta gọi tướng là
có sắc, bên kia nói tướng là không, nhưng sự thật sắc và không là hai
tướng đều là hư giả, hai tướng hư giả hết thì lúc đó tướng mà không phải
tướng. Như vậy chỗ nào mà mình lập ra thân hình? Tướng mà không thật tướng
thì thân mình thật chỗ nào? Như vậy mình nhận sắc tức không, không tức sắc
thì ngay nơi đó mình biết thân mình nó không thật rồi, phải vậy không? Cái
thân không thật thì còn cái gì mà đau khổ, còn cái gì mà luyến ái về thân?
Chúng ta thấy ngay đó mà phá mất cái chấp ngã. Sở dĩ chúng ta đau khổ là
vì chúng ta thấy thân là thật, chúng ta đau khổ là vì thấy chúng ta thật,
là vì thấy vọng tưởng thật. Bây giờ ngay nơi thân của chúng ta, thấy sắc
tức là không, không tức là sắc, thì còn thấy cái gì là thật nữa? Mà thân
không thật thì đau khổ với cái gì chớ? Đó là nói về sắc ấm.
9. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Thọ tưởng nạp muôn duyên
Hành thức rộng dung khoan
Biến kế tâm nên dứt
Bệnh “ta” chẳng tương can
Giải thoát tâm vô ngại
Phá chấp ngộ tâm nguyên
Nên nói “cũng vậy đó”
Tánh tướng thật một ban.
Thọ tưởng nó nhận các duyên, vì thọ là do
sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà sanh ra cái thọ khổ, thọ vui, không khổ,
không vui... Rồi nhân cái lãnh thọ đó mà có cái tưởng, tưởng đó là vui rồi
thích, tưởng cái kia là khổ rồi ghét... cho nên thọ và tưởng là hai thứ
chạy theo duyên bên ngoài. Còn hành và thức hai cái này lượng của nó rất
là sâu mà thầm kín ở bên trong. Nên tâm biến kế cần phải dẹp. Tâm biến kế
tức là tâm chấp (Biến kế sở chấp theo Duy thức học). Còn ở đây nói thọ và
tưởng vì hai cái đó chạy theo các duyên, hai cái đó diệt rồi thì bệnh chấp
ngã, bệnh về ngã nó không còn dính dáng gì nữa hết.
- Giải thoát
tâm vô ngại - Phá chấp ngộ tâm nguyên: Nếu mà mình phá được cái tâm biến
kế, tâm biến kế là cái gì? Do xúc mình thọ, thọ rồi mình khởi tưởng, như
vậy thọ và tưởng đó mình không còn mắc kẹt nữa thì tâm biến kế hết, như
vậy thì tự nhiên mình không còn bệnh chấp ngã. Mà bệnh chấp ngã hết rồi
thì tâm mình được giải thoát vô ngại. Do phá chấp mà ngộ được nguồn tâm.
- Nên nói
“cũng vậy đó” - Tánh tướng thật một ban: Vì vậy cho nên đoạn trước nói:
“thọ tưởng nạp muôn duyên” bởi vì nếu ngay nơi bốn uẩn: thọ, tưởng, hành,
thức mà mình đều phá chấp, thấy được nguồn tâm rồi thì tất cả đều như thế
(tức là đều trở về nguồn tâm hết) thì lúc đó tánh và tướng đều rõ ràng.
“Thực một ban” tức là một loại, tức là nó không còn riêng rẽ đây là tánh,
kia là tướng riêng biệt, mà tánh và tướng đều trở về nguồn. Như vậy là
Ngài đã giảng cho chúng ta thấy chỗ quán về ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức.
10. Xá-lợi Tử.
Nói “Xá” nhằm thân tướng
Còn “Lợi” nhắm một tâm
Bồ-tát vận trí tuệ
Bốn tướng chắn đường xâm
Đạt đạo lìa nhân chấp
Thấy tánh pháp không âm
Chư lậu đều dứt trọn
Toàn thể ấy vàng ròng.
- Nói “Xá” là luận về thân tướng - Nói
“Lợi” là nói về chủng tâm (chữ Xá, Ngài cho là cái tướng của thân, còn nói
Lợi là nói về hạt giống của tâm). Xá-lợi là chỉ cho thân tâm. Người đạt
đạo lìa chấp hay đạt đạo thì lìa cái chấp nhân ngã. Nếu thấy tánh thì pháp
không còn tiếng, tức là không còn mắc kẹt. Đạt đạo thì không còn chấp
nhân, mà thấy tánh không còn chấp pháp. Người đạt đạo là ngườøi không còn
chấp nhân, người thấy tánh là người không còn chấp pháp. Như vậy thì “các
lậu thảy đều sạch hết, khắp toàn thân là chân kim” chớ không có gì hết.
Như vậy nếu chúng ta đạt đạo, mà đạt đạo là sao? Là thấy được bản tâm
mình, nhận ra bản tánh của mình đó là đạt đạo. Thấy bản tâm, nhận ra bản
tánh thì người đó không còn chấp ngã, chấp pháp. Như vậy tất cả đều là
vàng ròng, đều là chân thật.
11. Thị chư pháp không tướng.
Chư Phật nói không pháp
Thanh văn chấp tướng cầu
Tìm kinh kiếm lẽ đạo
Bao giờ học tâm thôi
Viên thành tướng chân thật
Chợt rõ bỏ ý tu
Thênh thang vượt pháp giới
Tự
tại hết lo âu.
Cái chữ “Không” mà Phật nói trong kinh
Bát-nhã đó không phải là chữ không đối đãi với chữ hữu. Hàng Thanh văn
không hiểu rồi cứ chạy tìm cái tướng không, như vậy dù mình có tìm trong
kinh để đạt đạo lý thì tìm hoài cũng không ra, không biết ngày nào mà tâm
mình hết loạn. Bị vì mình thấy đây là không, kia là có, rồi cứ nghe nói:
chư pháp không tướng, rồi nói cái tướng không pháp. Tướng không rồi cứ
tưởng cái không ở ngoài này còn cái có là ở đây, ngoài này là không, không
đối với cái có. Hiểu như vậy thì người đó không hiểu được ý Phật, nói chữ
“Không” trong kinh Đại thừa. Chữ “Không” đó là sao?
Viên thành tướng chân thật- Chợt rõ bỏ ý tu
Thênh thang vượt pháp giới- Tự tại hết lo âu.
Nếu thấy chữ
“Không” đó là tánh viên thành chân thật, cái “Không” đó là cái “Không”
của kinh Đại thừa. Đây tôi nói lại danh từ trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Tổ
Mã Minh lập là cái gì Không? Thưa rằng ở trong đó có chia ra: trong Như
Lai tàng có Như thật không và Như thật bất không. Chữ “Không” này là chỉ
cho Như thật không ở trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, chỉ cho cái kho tàng
Như Lai nó không có tất cả
pháp sanh diệt, bởi không có tất cả pháp sanh diệt cho nên nói nó là không
tướng. Tướng không đó là không có tất cả pháp sanh diệt, chớ không phải
không cái kho tàng Như Lai. Bởi không hiểu, nghe nói không rồi tưởng đâu
cái không là cái tướng hư không, đó là lầm. Vì vậy cho nên Tổ Bồ-đề-đạt-ma
mới nói rằng: chữ không đó là chỉ cho cái tướng viên thành chân thật của
Như Lai tạng. Nếu mình sớm thấy được thì cái tâm tu nó liền dừng, không có
gì phải tu hành nữa, vì thấy được cái đó rồi, sống được với cái đó thì tức
nhiên còn gì phải tu. Tự nhiên mình vượt khỏi hết tất cả pháp giới, vượt
ngoài pháp giới, tự tại không còn gì phải lo sầu nữa. Như vậy Ngài nói cái
tướng “Không” của các pháp đó là chỉ cho cái tánh viên thành thật của tất
cả, cái tánh viên thành thật đó là nó ly khai biến kế sở chấp và y tâm
khởi. Nói gọn lại, tánh viên thành thật đó là cái vượt ngoài các pháp sanh
diệt. Vì vậy cho nên cái tánh viên thành thật đó chẳng phải sanh chẳng
phải diệt, chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải tăng chẳng phải
giảm. Chớ còn nói cái không như là không ngoài này rồi nói nó không sanh
không diệt, không cấu không tịnh, không tăng không giảm thì không đúng. Vì
sao vậy? Vì trong cái không ngoài này, nó đã không rồi thì còn gì nói
tăng, giảm, cấu, tịnh? Cái không đây là chỉ cho cái không Như Lai tàng,
cái Như lai tàng này nó không phải là cái sanh cái diệt. Như vậy thì cái
gì không sanh không diệt?
12. Bất sanh bất diệt.
Lô-xá thể thanh tịnh
Không tướng tự nhiên chân
Như hư không rộng khắp
Muôn kiếp vẫn trường tồn
Chẳng chung chẳng riêng rẽ
Không cựu cũng không tân
Lẫn lộn mà không nhiễm
Ba
cõi một mình tôn.
Cái thể Lô-xá-na tức là cái thể pháp thân
thì luôn luôn nó thanh tịnh, nó không có tướng cho nên xưa nay nó là chân.
Bởi vì có sanh có diệt đều nằm hẳn trên cái tướng. Tướng hợp thì gọi là
sanh, tướng tan thì gọi là diệt, mà pháp thân thanh tịnh này nó không có
tướng, bởi không có tướng cho nên nói không sanh không diệt mà lâu nay nó
hằng chân. Như hư không đều khắp hết, nghĩa là nó rỗng rang như hư không
đều khắp hết. Muôn kiếp cái thể nó vẫn còn mãi mãi không mất, như vậy cái
bất sanh bất diệt đó là chỉ cho pháp thân.
- Chẳng chung
chẳng riêng rẽ - Không cựu cũng không tân: Hòa quang trần tức không có
nhiễm (tức hòa quang đồng trần): hòa cái thanh tịnh đó ở trong cái cõi ô
trược này mà vẫn không bị nhơ uế.
- Ba cõi một
mình tôn: tức là tôn trọng trên hết trong tam giới. Như vậy ngay trong tam
giới không có cái gì quí bằng pháp thân. Pháp thân là trên tất cả; pháp
thân nó có theo chúng ta vào luân hồi hay không? Quí vị nên nhớ các Thiền
sư thường hay hỏi chỗ đó; hỏi: “Pháp thân có theo chúng ta luân hồi
không?” Nếu mà đứng về pháp thân thì nó không bị luân hồi, cho nên mới nói
nó là không. Nhưng mà nó hòa quang đồng trần cho nên cũng gọi là có, thành
ra có là đứng về mặt hòa quang đồng trần. Chữ hòa quang đồng trần là sao?
Là hòa cái ánh sáng trong cái bụi bặm. Ngay trong cái thân mình đây nó có
cả hai mặt: quang và trần, tứ đại là trần mà cái thể thanh tịnh ở trong đó
nó không bị ô nhiễm là quang. Ngay nơi thân mình nó rõ ràng, bây giờ mình
lọc trần ra đừng dính nữa thì quang nó hiện ra phải không? Như vậy nếu
đứng về mặt hòa quang đồng trần thì cũng vẫn theo nhau vào luân hồi, còn
đứng về mặt thể thanh tịnh của nó thì chưa từng sanh tử, chưa từng đi đâu
hết thì nói gì là luân hồi? Cho nên chỗ đó các vị Thiền sư có khi nói luân
hồi, có khi nói không luân hồi, trúng hết không có trật. Vì vậy cho nên
chúng ta học kinh Bát-nhã nghe nói bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh,
bất sanh bất diệt thì biết cái gì sanh diệt, cái gì bất cấu bất tịnh...
Chớ còn không thì đọc như là cái máy phóng thanh vậy. Kêu la om sòm mà
không biết cái gì là cái gì hết. Sở dĩ Thiền sư nói không tướng, cái tướng
“Không” của các pháp ấy là gì? Là cái tướng viên thành thật hay là chỉ cho
cái Không Như Lai tàng hay là chỉ cho cái pháp thân, ngay nơi pháp thân đó
nó không sanh, không chết. Tại sao nó không sanh không diệt? Bởi vì nó từ
xưa đến nay là không tướng, mà không tướng thì lấy gì gọi là sanh? Lấy gì
gọi là diệt? Bởi vì nó là khắp hết cho nên nói cái gì là tăng? Cái gì là
giảm? Nó là thường còn, cho nên nói cái gì là còn, là mất? Vì vậy cho nên
nó không có gì tăng giảm hết, sanh diệt cũng không có.
13. Bất cấu bất tịnh. Tại sao nói là bất cấu bất tịnh?
Chân như vượt ba cõi
Dơ
sạch vốn không ngơ
Vì
thương phương tiện mở
Nói nhặt cùng nói thưa
Cõi không không “vô hữu”
Hiện xuống bánh xe đưa
Xưa nay không một vật
Huống hai thứ lọc lừa.
Hồi nãy nói là
Lô-xá-na mà Lô-xá-na thanh tịnh, rồi nói viên thành thật, rồi nói chân
như, đều chỉ cho cái tướng “Không” của các pháp. Cái tướng không của các
pháp cũng gọi là chân như thì chân như đó siêu việt hơn tam giới, ngoài
tam giới. Mà đã ngoài tam giới thì còn cái gì nữa mà nói cấu, nói tịnh?
Cho nên xưa nay cấu tịnh là không. Nhưng sở dĩ đức Phật nói có cấu có tịnh
là vì sao? Như chúng ta học ở trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Tổ cũng nói
nhiễm huân, tịnh huân vậy. Nói nhiễm nói tịnh đó là căn cứ trên phương
tiện mà nói. Cho nên sở dĩ trong kinh đức Phật nói có cấu có tịnh đó là
đứng về phương tiện mà nói, khi thì Ngài nói thô, khi thì Ngài nói tế vậy
thôi.
Nói rằng: “nó
thuộc về cái không giới” (không giới này không phải tánh không) mà không
giới là cái không Như Lai tàng, nói không có tất cả các pháp sanh tử, vì
vậy cho nên nói là không giới, mà cái không Như
lai tàng đó nó hiện ra một
vầng sáng rỡ ở giữa hư không vậy. Xưa nay không có một vật, đã không có
một vật thì đâu có hai thứ. Đã không có một vật thì nói gì là hai thứ mà
cấu mà tịnh, phải vậy không? Vì vậy cho nên nói cái thể chân như nó vượt
hơn tam giới, nó là một vầng sáng rỡ, xưa nay không có một cái gì mà nói
là hai mà cấu mà tịnh?
14. Bất tăng bất giảm.
Thể Như Lai không tướng
Đầy dẫy mười phương không
Trên không khôn lập có
Trong có chẳng thấy không
Nghe như tai gió thoảng
Xem như nguyệt trên sông
Pháp thân nào thêm bớt
Ba
cõi gọi chân dung.
Cái thể Như
Lai nó không thêm, không bớt. Tại sao không thêm, không bớt? Vì cái thể
Như Lai ấy là vô tướng. Bởi vô tướng cho nên nói đầy khắp mười phương hư
không, trên hư không khó mà an lập có được, cho nên trong cái có chẳng
thấy cái không.
Chữ “Dung”
trong bài kệ người ta nghi chữ “không” mới đúng (có thể in lầm). Như vậy
nói rằng: Cái thể Như lai
đó (chỉ cho pháp thân chớ gì) mà cái pháp thân đó, chúng ta thấy nó ra
sao? Nhìn thấy các pháp ở trong pháp thân ấy, chẳng khác nào như mình nhìn
thấy mặt trăng ở trong nước vậy, không có cái gì thật hết. Cũng như mình
nghe gió thổi bên tai vậy. Bởi vì đối với các pháp mà sánh với pháp thân
thì các pháp nó là sao? - Là hư giả. Cũng như mặt trăng ở trong nước có
thật không? Cũng như gió bên tai nghe ù ù mà nắm bắt không được, phải vậy
không? Như vậy đối với cái thể pháp thân, căn cứ vào thể pháp thân mà nhìn
các pháp ở trên nhân gian này chẳng khác nào như trăng trong nước, như gió
thổi bên tai thì pháp thân làm sao mà có tăng có giảm, phải không? Pháp
thân đầy khắp, các pháp ở thế gian không làm sao mà dính mà nhiễm được nó,
vì các pháp ở thế gian đều là hư giả như trăng trong nước, như gió bên
tai, không có gì thật hết; mà không thật thì làm sao nhiễm được pháp thân
mà nói tăng nói giảm? Vì vậy tam giới này đều gọi là chân không. Chân
không là sao? Vì trong tam giới không có gì thật có mà chỉ có một pháp
thân thanh tịnh, tam giới là huyễn hóa như trăng đáy nước chớ không có
thật. Thấy như vậy thì chúng ta biết được cái thể thanh tịnh của pháp
thân. Chữ “Không tướng” trong kinh Bát-nhã là chỉ cho “Pháp thân”. Tướng
không của các pháp là pháp thân chớ không phải là cái tướng trống rỗng,
nên nhớ như vậy. Vì vậy tướng “Không” nó không sanh không diệt, không nhơ
không sạch, không thêm không bớt, vì nó là đầy khắp, tất cả các pháp trong
tam giới không nhiễm ô nó được.
15. Thị cố không trung (Thế nên trong cái không đó).
Bồ-đề ngoài chẳng có
Cũng chẳng ở trung gian
Chẳng tướng chẳng chẳng tướng
Cân nhắc mất cơ quan
Thế giới chẳng thế giới
Bốn trời sáng ba quang
Bản lai không chướng ngại
Đâu là chỗ chắn ngang.
Ngoài tâm
không có Bồ-đề nên nói Bồ-đề không ở ngoài, không ở ngoài thì ở chặng giữa
tìm cũng khó được. Mà ở đây nói cái không đó (thị cố không trung) thì đó
là một lối nói tạm chớ đừng có lầm chữ ở trong rồi mình đặt ra ở ngoài đối
đãi đó. Vì vậy cho nên không phải tướng, cũng không phải không tướng. Vì
sao? Vì còn để cái tâm lường xét thì nó đã mất cái chỗ thiết yếu đó rồi.
Cho nên nói rằng mất cơ quan. Vừa dấy cái tâm lường xét trong ngoài là đã
mất cái chỗ thiết yếu đó rồi.
Thế giới chẳng
thế giới - Bốn trời sáng ba quang.
Nếu chúng ta
xét thấy rõ thế giới này là không thật, bởi nó không thật cho nên nói nó
là không phải thế giới, thì tự nhiên là cái trí tuệ sáng suốt của chúng ta
(tam quang này là chỉ cho ba cái ánh sáng) chiếu soi khắp tứ thiên (bốn
cõi trời). Ba cái ánh sáng tức là chỉ cho ba thân Phật (Pháp, Báo, Hóa) tự
nhiên mà soi sáng.
Bản lai không chướng ngại - Đâu là chỗ
chắn ngang.
Ở trong cái tự tánh thanh tịnh hay là
trong cái pháp thân thanh tịnh (nói trong pháp thân thanh tịnh là một lối
gượng nói) mình đừng mắc kẹt cái đối đãi trong ngoài mà lượng xét thì
trong cái đó nó là rộng rãi mênh mang, nó không có chỗ nào mà chướng ngại
hết. Vì vậy nên nói không có chướng ngại.
16. Vô sắc, vô thọ tưởng
hành thức.
Không sắc bản lai không
Thọ tưởng vẫn chung đồng
Hành thức cũng như vậy
Có
hết lại về không
Chấp có đâu thật có
Theo không lại lạc không
Sắc không tâm lìa hết
Chừng ấy mới thần thông.
Không và sắc xưa nay là không. Không thọ ý
trở lại đồng tức là không sắc thì cũng không thọ. Như vậy mình biết cái
sắc nó đã không thì cái thọ cũng không. Hành và thức cũng không, trong cái
không đó nó cũng không có, có tận trở về không, nếu mà có hết thì sẽ trở
lại thành không.
- Chấp có đâu
thật có - Theo không lại lạc không. Chỗ này là cái chỗ khó. Nếu chúng ta
chấp có thì thật là chẳng có, còn nếu chúng ta bám vào không thì lại rớt ở
trong không. Tại sao chấp có thì lại không thật có? Vì tất cả pháp ở giữa
này là hư giả mà chúng ta chấp thật có thì đó là lầm. Tự nhiên chấp thật
có thì nó không phải thật rồi, thấy không? Cho nên chấp thật có thì không
phải thật có. Nếu nói không ngơ thì đã lạc vào chấp không rồi, phải vậy
không? Như vậy cũng là bệnh. Chấp có, chấp không đều là bệnh hết.
- Sắc không
tâm lìa hết: tức là tâm mình lìa cả chấp không thì như vậy mới được cái
thần thông. Thần thông là sao? Bây giờ giả sử mình không chấp, không chấp
không, mình liền biến hóa được không? Bây giờ chúng ta không chấp thật có
và thật không, các pháp giữa này mình thấy không phải thật có, không phải
thật không, thì lúc đó là không chấp. Nhưng không chấp như vậy chúng ta
liền có thần thông hay không? Bây giờ thử trong một giờ nào đó đừng chấp,
coi có thần thông hay không? - Có chớ sao không? Thần thông là tự tại mà.
Nhớ không? Tự tại thần thông, cho nên người ta nói thần thông là tự tại.
Nếu không chấp thì mình tự tại, không mắc kẹt, không mắc kẹt tức là thần
thông rồi chớ còn gì nữa. Vậy mà không chịu, cứ tưởng thần thông là biến
hóa không hà. Thần thông là tự tại, mà không chấp tức là tự tại.
Như vậy để
biết rằng ở trong cái tánh không hay là trong cái chân không đó nó không
có tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức tức là đối trong ngũ uẩn. Ngũ uẩn mà
mình không chấp nó là thật thì người đó có thần thông rồi. Nói gọn lại,
nếu ai đối với ngũ uẩn mà không chấp nó thật thì người đó có thần thông.
Còn người nào chấp thật một trong năm uẩn cũng là không có thần thông, dù
có tu tới đâu cũng không có thần thông, dù biến hóa được cũng không có
thần thông nữa. Chỗ đó mà chúng ta thấy là căn cứ trên năm uẩn mà nói. Như
vậy năm uẩn mà mình biết rõ ràng xưa nay nó không thật, thì như vậy là
mình được thần thông. Nếu chấp có hoặc chấp không thì đều mắc kẹt.
17. Vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý.
Sáu căn không tự tánh
Theo tướng đặt bày thôi
Sắc duyên theo tướng vọng
Nhân ngã lưỡi đùa chơi
Mũi dối phân mùi ngửi
Thân ý đắm tình đời
Sáu nơi ham mến dứt
Muôn kiếp chẳng luân hồi.
Hồi trước tôi nói không năm uẩn, bây giờ
tới không sáu căn: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Nói năm uẩn là nói một
cách tổng quát. Nhiều khi nghe nói năm uẩn, mà năm uẩn gì tôi không biết,
bây giờ tôi thấy tôi có lỗ tai, con mắt, thân, ý... Bây giờ ngay đó đức
Phật cũng nói sáu cái: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu cái đó nó cũng
không có thật luôn nữa. Tại sao? Vì ở trong cái chân như thanh tịnh nhìn
thấy sáu căn này như nhìn thấy cái gì? Như thấy bóng trăng trong nước, như
thấy hoa đốm trong hư không, nếu đứng về mặt chân như mà nhìn. Vì vậy cho
nên nó là bóng trăng đáy nước, là hoa đốm trong hư không thì làm sao nói
nó thật được? Cho nên nói nó không nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Ngài mới
giải thích sáu căn không tự tánh, nó không thật, là hư giả.
- Theo tướng
đặt bày thôi: Theo tướng đó rồi mình tạm an bày đó thôi.
- Sắc duyên
theo tướng vọng: Sắc chia ra để rồi duyên theo. Sắc là con mắt, âm thanh
là lỗ tai. Nhân ngã thật là khôi hài: nhân đó mà chia ra mình, chia ra
người. Cái lưỡi mình tự đùa cợt mà chơi chớ không có cái gì thật hết. Lỗ
mũi thì ngửi cái gì? Ngửi mùi thơm, mùi hôi, rồi lại chia ra cái mùi thơm
mình thích, cái kia hôi mình ghét. Thân ý mong muốn cái tình trái nhau.
Tại sao trái? Mình có người nào thỏa mãn được như ý mình mong muốn hay
không? Có ai trên đời này muốn cái gì đều thỏa mãn cái ấy hết hay không?
Mà muốn thỏa mãn người ta có thỏa mãn được hay không? Chúng ta cứ tưởng
tượng nếu thế gian này có người muốn gì được cái ấy (mà ông bà mình gọi là
được sách ước đó, ước gì được nấy) thì người đó ước riết rồi ước tới đâu
nữa? Bây giờ nếu nghèo thì họ ước có tiền, phải vậy không? Có tiền rồi họ
ước cái gì nữa? Ước tới nhà lầu, xe hơi. Có tiền, có nhà lầu, có xe hơi
rồi ước tới làm quan (cho có danh vọng), rồi ước đủ thứ... ước cho đừng
chết nữa phải vậy không? Ước đừng chết để hưởng chớ còn có đủ hết rồi mà
chết thì đâu có hưởng được, thành ra ước riết rồi cái gì có ở thế gian này
đều gom về tay họ hết. Như vậy cho nên ở thế gian này không có cái gì vừa
ý của mình, thỏa mãn ý thích của mình. Nếu mà mình chạy theo ý thích mà ý
thích đó không được thỏa mãn tức là đau khổ chớ gì? Vì vậy cho nên thân, ý
dục tình trái là vậy: thân, ý của mình nó mong muốn trái với tâm tình của
mình.
- Sáu nơi ham
mến dứt: Bây giờ Ngài mới chỉ sáu cái tham ái của mình, nó dứt được rồi
thì vạn kiếp bất luân hồi, muôn kiếp không còn luân hồi nữa. Cái tham ái
của sáu căn dứt được thì dòng luân hồi mình cắt đứt. Dễ quá, tham ái của
sáu cái này mình cắt đứt rồi thì dòng luân hồi nó rời ra chớ gì. Bây giờ
chúng ta thử kiểm lại coi tất cả cái mà chúng ta bây giờ đương ưa thích,
đương đeo đuổi mà phải khổ, phải giành giựt với nhau, có cái gì ngoài cái
đòi hỏi của sáu căn không? Giành ăn là vì cái lưỡi, giành món đẹp là vì
con mắt, giành những lời nói hay là tại lỗ tai, giành những xúc chạm ưa
thích thì đó là vì thân, rồi thỏa mãn cái ý thức hệ của mình là ý. Như vậy
tất cả những đau khổ, giết chóc ở cõi nhân gian này đều là do sáu cái đó,
nó là manh mối dẫn giặc về cướp hết sự nghiệp của mình, rồi mình đau đớn
lang thang, trôi giạt đầu này đầu nọ thành kẻ bần cùng và cô lộ là cũng
tại sáu cái thứ này, thấy không? Bây giờ ngang nơi sáu thứ này mà cắt đứt
ngay cái tham ái của nó rồi thì dòng luân hồi bị cắt đứt, quí vị thấy có
cái gì mầu nhiệm lạ lùng đâu? Ai cũng có quyền làm việc đó hết mà. Ở giữa
này có ai không có quyền làm việc đó không? Như vậy thì đâu có dành riêng
cho ai, ai cũng có thẩm quyền mà dứt cái đó. Như vậy thì ai cũng có quyền
giải thoát hết, chỉ có những người chưa chịu làm mà thôi. Chưa chịu làm mà
còn nuôi dưỡng, những người đó tự nhiên là không ra khỏi, chớ sáu căn đó
mà mình đừng bị tham ái nữa thì tức nhiên hết luân hồi. Vì vậy mà nói vô,
nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý.
Thành ra chữ “Vô” ở đây là căn cứ trên
tánh không. Tánh chân không đó nó không có những cái như thế này, bởi
không có những cái như thế này cho nên ý kinh cũng dạy cho mình nó không
có những thứ đó, vì cái đó là không thật, mà không thật thì tham ái làm
gì? Chúng ta vì thấy nó là thật cho nên cái đòi hỏi của lưỡi thì ngon, dở
thì ghét; đòi hỏi của lỗ mũi thì thơm, hôi thì ghét... Như vậy nếu chúng
ta chạy theo làm nô dịch cho nó nữa thì chắc đời đời bôn tẩu không dừng
phải không? Còn nếu sáu căn này mà mình không bị nô lệ cho nó nữa, thì tự
nhiên ngồi cười hoài. Thây kệ, tới bữa ăn có rau luộc ăn cũng tốt, muối
tiêu cũng tốt cái gì cũng tốt hết, cười thôi. Còn nếu tới bữa ăn mà thấy
rau luộc, nước tương, không có cái gì thêm làm canh riêu nữa thì cái mặt
nó héo lại, thì tức nhiên mình có cái gì rồi. Cái khổ trong đó rồi, thấy
không? Héo rồi sau đó sanh ngầm trong bụng nữa: “Bữa nay sao ông tri nhật
này tàn nhẫn quá.” Như vậy chúng ta thấy cái đau khổ theo đó. Nếu chúng ta
sống được như vậy thì cuộc luân hồi chấm dứt ngay từ đó. Tu ngay nơi sáu
căn đó. Nãy giờ nói năm uẩn là thân mà sáu căn cũng thuộc về thân.
- Vô sắc thanh
hương vị xúc pháp: tức là không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Căn
cứ trong cái tánh không đó tức là trong cái pháp thân thanh tịnh của mình
thì nó không có cái sắc thật, cái thanh, hương, vị, xúc, pháp thật, không
có sáu trần thật.
Người chứng được căn bản trí rồi thì họ
không còn thấy có thanh, có sắc là thật, không thấy có thanh sắc thì
hương, vị, xúc từ nơi cái gì mà ra? Sắc, thanh không thật thì hương, vị,
xúc cũng là giả dối mà thôi. Như vậy thì sáu trần đều từ hư vọng dấy khởi
chớ không có gì thật, mà sáu trần đã từ hư vọng dấy khởi thì cái tâm của
kẻ phàm phu tự lầm, tự nghi hoặc ở trong đó tự lầm đuổi theo.
- Sanh tử thôi
sanh tử - Bồ-đề chứng một khi - Pháp tánh không vô trụ - Chỉ sợ ngộ chầy
chầy: Sanh tử thôi sanh tử nghĩa là sanh tử hay dừng được sanh tử là từ
đâu? Là từ Bồ-đề chứng, khi mà mình chứng được Bồ-đề mới là dứt được sanh
tử, chớ nếu mình còn chạy theo sáu trần là mình cũng vẫn còn mê lầm trong
cái sanh tử, còn làm phàm phu chìm đắm nơi sanh tử. Bây giờ muốn dứt được
sanh tử thì khi mình chứng được Bồ-đề, lúc đó mới dứt được sanh tử, thì
khi ấy mình thấy cái pháp tánh nó không dừng trụ nơi nào hết, chỉ e rằng
cái ngộ của mình nó chậm trễ mà thôi. Khi mình ngộ rồi thì thấy pháp tánh
sao? Mà sở dĩ mình còn mắc kẹt trong sanh tử là vì mình ngộ muộn mà thôi.
Như vậy sáu
căn nó đã không thật, sáu trần cũng không thật. Sáu căn không thật tức là
dứt luân hồi, sáu trần không thật cũng là ngộ được đạo. Vì vậy mà tôi
thường khuyên quí vị nhìn ra thì thấy sáu trần không thật, ngó vào thì
thấy sáu căn không thật, vọng tưởng không thật, cái tứ đại không thật...
Như vậy là cái tu thiết yếu để mà cởi sạch dòng luân hồi đó.
* |