CỬA THỨ NHÌ: PHÁ TƯỚNG LUẬN (tt)
Hỏi: - Như
kinh đã nói: Lục ba-la-mật cũng gọi là lục độ, chỗ gọi là bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Nay nói lục căn thanh tịnh
gọi là ba-la-mật làm sao mà thông hội được? Lại lục độ cái nghĩa nó như
thế nào?
Đáp: - Muốn tu
lục độ phải tịnh lục căn, hàng phục lục tặc:
- Hay xả nhãn
tặc (giặc mắt) lìa được cảnh sắc thì gọi đó là bố thí.
- Hay cấm nhĩ
tặc, nơi thanh trần kia không cho nó buông lung gọi đó là trì giới.
- Hay nhiếp phục tỉ tặc, đồng bình đẳng
với các mùi thơm, hôi, tự tại điều hòa gọi đó là nhẫn nhục.
- Hay chế phục
thiệt tặc, không tham các vị và các sự ca ngâm xướng vịnh gọi đó là tinh
tấn.
- Hay hàng phục được thân tặc, đối với các
cái xúc dục mình lặng lẽ, không động thì gọi đó là thiền định.
- Hay điều
được ý tặc, không thuận theo vô minh, thường tu giác tuệ thì gọi đó là trí
tuệ.
Lục độ là vận
chuyển vậy. Lục ba-la-mật như là chiếc thuyền (hay chiếc bè) hay vận
chuyển chúng sanh đến nơi bờ kia cho nên gọi là lục độ.
Ngay nơi sáu
căn của mình tu thì Ngài cho rằng đó là đủ cả lục độ rồi, như là con mắt
thấy sắc mà không nhiễm sắc là bố thí rồi, đã xả ba-la-mật rồi. Lỗ tai
nghe tiếng mà không buồn, thương, giận, ghét thì đó là trì giới rồi. Lỗ
mũi ngửi mùi hôi, thơm bình đẳng là nhẫn nhục rồi đó.
Như vậy mình
thấy hằng ngày sáu căn của mình lúc nào cũng có tu lục độ được hết. Nếu
qui lục độ về sáu căn thì mình tu hằng ngày. Nói như vậy, chúng ta thấy
danh từ nghe hơi cách biệt, khó hiểu. Nhưng sự thật chính khi qui hướng
như vậy đó thì chúng ta mới thấy cái tu nó vững. Hằng ngày, hằng giờ sáu
căn mình tu luôn luôn không có dừng. Còn nói lục độ là pháp ở bên ngoài,
thì tu bố thí khi nào có việc cần giúp người ta mới bố thí, như vậy coi
như mình chờ có cơ hội mới làm được phải vậy không? Chớ còn hằng giờ, hằng
phút mình đâu có làm hạnh bố thí. Nói lục độ ngay nơi sáu căn thanh tịnh
thì giờ phút nào mình cũng tu lục độ hết. Như vậy là mới chuyển hướng được
sáu căn ô nhiễm trở thành sáu căn thanh tịnh. Sáu căn ô nhiễm trở thành
tịnh rồi thì đó là trở về giác chớ gì? Đó là ra khỏi bờ mê. Như vậy không
phải lục độ là gì nữa? Cho nên hiểu như vậy thì thấy rõ đó là lục độ; sáu
căn thanh tịnh đó là lục độ. Như vậy chúng ta nhớ cái miệng mình không có
tham các vị và không có ưa ca ngâm thì gọi đó là tinh tấn rồi, phải vậy
không? Hằng ngày tới bữa ăn cảm thấy vị ngon, vị dở mà mình không ưa,
không ghét đó là mình có tinh tấn rồi và khi nào muốn nghe ca mình ngưng
nó lại, đó là có tinh tấn rồi chớ không phải xa đâu. Chớ còn chờ ngày đêm
không ngủ mới tinh tấn thì cái tinh tấn đó còn xa.
Hỏi: - Trong
kinh nói: Đức Thích-ca Như Lai khi còn làm Bồ-tát từng uống ba đấu và sáu
thăng sữa đặc mới thành Phật đạo, như vậy trước nhân uống sữa rồi sau mới
chứng Phật đạo thì đâu chỉ quán tâm mà được giải thoát ư?
Cái dẫn này là
dẫn ở trong sử, sau khi cô mục nữ đem cúng dường sữa, Ngài uống sữa xong
khỏe khoắn, xuống sông tắm rồi lên trải cỏ ngồi thiền từ đó tới thành Phật
đạo. Như vậy kết luận rằng nhờ uống sữa với cái đấu lượng chừng đó cho nên
mới thành Phật.
Đáp: - Thật
như chỗ ông biết nói ra đều không có hư dối. Quyết rằng nhân uống sữa rồi
sau đó mới thành Phật. Nhưng mà nói uống sữa đó có hai thứ: Phật đã uống
sữa đó không phải là cái thứ sữa bất tịnh ở thế gian, mà chính là cái chân
như thanh tịnh vậy.
Ba đấu là chỉ cho tam tụ tịnh
giới.
Sáu thăng là chỉ cho lục
ba-la-mật.
Tu thành Phật
đạo là do uống sữa pháp thanh tịnh như thế mới chứng được Phật quả. Nếu
nói Như Lai uống sữa bò, do tinh ba của sữa nó phối hợp những điều bất
tịnh ở thế gian thì đâu phải là chê bai, làm nghi lầm lắm ư? (chê bai,
nghi lầm đức Phật vậy ư?) Vì chân như tợ kim cang bất hoại. Cái pháp thân
vô lậu hằng lìa tất cả các khổ thế gian, đâu phải cái sữa bất tịnh như thế
để mà nuôi dưỡng no đủ cái khát đói?
Như kinh nói
con trâu (chỉ kinh Niết-bàn) ấy, nó chẳng ở chỗ cao nguyên mà nó cũng
chẳng ở chỗ ẩm thấp, nó chẳng ăn các thứ lúa mạch, các thứ lúa gạo hay là
bắp, mà nó cũng không cùng những con trâu đực ở chung. Thân con trâu ấy
hiện ra sắc vàng tử ma. Con trâu ấy tức là chỉ cho Tỳ-lô-giá-na Phật vậy.
Do lòng từ bi thương xót tất cả cho nên pháp thể thanh tịnh lưu xuất ra ba
món tịnh giới, lục ba-la-mật cái pháp nhũ vi diệu như thế để nuôi dưỡng
tất cả những người cầu giải thoát. Con trâu chân tịnh như thế, cái sữa
thanh tịnh chẳng phải chỉ có đức Như Lai uống nó được thành Phật đạo, mà
tất cả chúng sanh nếu hay uống được nó cũng đều được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác hết.
Như vậy đó là
sữa: tam tụ tịnh giới, lục ba-la- mật phát xuất từ pháp thân của Như Lai,
chớ không phải là sữa thường mà chúng ta thường ngày biết.
Hỏi: - Trong
kinh đã nói Phật dạy chúng sanh phải tu tạo ngôi già-lam và đúc hoặc vẽ
hình tướng Phật, đốt hương, tán hoa và thắp đèn sáng luôn ngày đêm sáu
thời, đi nhiễu tháp hành đạo, trì trai, lễ bái các thứ công đức đều thành
Phật đạo. Nếu chỉ quán tâm mà tổng nhiếp hết các hạnh, nói việc như thế
vậy là hư dối sao?
- Đáp: Phật đã
nói ở trong kinh có vô lượng phương tiện, do tất cả chúng sanh độn căn,
kém yếu không ngộ được cái nghĩa thậm thâm, sở dĩ mượn cái hữu vi mà dụ
cho cái vô vi.
Nếu có người
chẳng tu nội hạnh duy chỉ cầu bên ngoài mong làm thánh, cầu được phước
không có thể được (vô hữu thị xứ).
Như vậy ý Ngài
nói rằng sở dĩ trong kinh mà có chép những đoạn dạy rằng: Chúng sanh phải
tu tạo ngôi già-lam, rồi phải đúc tượng Phật, vẽ tượng Phật Bồ-tát để thờ,
rồi phải thắp hương, tán hoa, phải thắp đèn lưu ly sáng luôn ngày đêm, rồi
sáu thời hành đạo không dừng, trì trai lễ bái. Do công đức đó được thành
đạo. Hỏi vậy, bây giờ Ngài chỉ dạy quán tâm không thì như vậy mấy chuyện
kia bỏ sao? - Đây, Ngài mới trả lời: Nói rằng chúng ta tu, Phật sở dĩ nói
ra trong kinh như vậy là Ngài dùng vô lượng phương tiện. Trong những
phương tiện đó là vì những người độn căn kém yếu, không ngộ được cái nghĩa
sâu xa của Phật, cho nên mượn cái hữu vi để mà chỉ cho cái vô vi, mà mình
không chịu tu ở bên trong, chỉ cầu bên ngoài muốn được phước thì không thể
nào được hết.
Nói già-lam là cái gì?
Già-lam đó là
tiếng Ấn Độ. Ở Trung Hoa dịch là thanh tịnh địa là chỗ đất thanh tịnh
(già-lam là đất thanh tịnh). Nếu hằng trừ được ba độc, thường tịnh được
lục căn, thân tâm lặng lẽ trong ngoài thanh tịnh, ấy là tu tạo già lam.
Như vậy, chúng
ta cất không biết bao nhiêu chùa, ngày ngày sáu căn giữ cho thanh tịnh là
cất chùa rồi đó. Làm ngôi già-lam thanh tịnh, cất chùa là như vậy. Mình
bây giờ không lo sáu căn thanh tịnh, mà lo sắm sửa những thửa đất cho rộng
hoặc cất chùa cho lớn rồi gọi đó là tu tạo già-lam, như vậy là khác với
cái nghĩa của Ngài muốn nói rồi.
Nói đúc tạc
hình Phật hay là vẽ hình tượng Bồ- tát... ấy là tất cả chúng sanh cầu Phật
đạo vậy. Chỗ gọi rằng tu các giác hạnh (tu các hạnh giác ngộ) nó giông
giống Như Lai, cái chân dung, diệu tướng nó mường tượng hình dáng, chân
dung, diệu tướng của Như Lai.
Đây là cái tạo
tác, đúc tượng bằng đồng hay là vẽ họa những tượng bằng giấy... không phải
vậy!
Nghĩa là nói
rằng chúng ta tu tập cái hạnh giác giông giống như cái diệu hạnh, diệu
tướng của Như Lai, như vậy đó là chúng ta đã đúc tượng Phật, chúng ta đã
vẽ tượng Phật rồi.
Thế nên người
cầu giải thoát dùng cái thân làm lò hương, dùng cái pháp làm lửa, dùng cái
trí tuệ làm thợ khéo léo, dùng tam tụ tịnh giới và sáu ba-la- mật làm
khuôn mẫu để mà đúc. Còn để lọc cái chân như Phật tánh ở trong thân (tức
là lọc luyện chân như Phật tánh ở trong thân) khắp vào tất cả ở trong cái
mô phạm, giới luật như lời dạy mà vâng làm, một cũng không thiếu sót, tự
nhiên được thành tựu được cái hình tượng chân dung Phật. Chỗ gọi rằng cứu
kính thường trụ vi diệu pháp thân, không phải những pháp hữu vi bại hoại.
Nếu người cầu đạo không hiểu đúc tạc cái chân dung như thế nương vào cái
gì mà nói là công đức? (Nếu không chịu đúc tả chân dung Phật giống như ở
đây dạy, hỏi nương vào đâu mà nói công đức?)
Lại nói là đốt
hương cũng không phải là cái hương có tướng ở thế gian, mà chính là cái
hương vô vi chánh pháp vậy. Trong hương đó thì mùi hôi nhơ của vô minh, ác
nghiệp thảy khiến nó tiêu diệt... Hương chánh pháp ấy có năm thứ:
- Một là hương giới: Chỗ gọi rằng năng
đoạn các cái ác hay tu các cái lành.
- Hai là hương
định: Chỗ gọi rằng thâm tín Đại thừa, tâm không còn thối chuyển.
- Ba là hương
tuệ: Chỗ gọi rằng thường ở nơi thân tâm, trong thì tự quán sát (ở trong mà
tự quán sát thì gọi đó là hương tuệ).
- Bốn là hương
giải thoát: Chỗ gọi rằng hay đoạn tất cả vô minh kiếp phược, gọi là hương
giải thoát.
- Năm là hương
giải thoát tri kiến: Chỗ gọi rằng quán chiếu thường sáng suốt, thông đạt
không có ngại.
Năm thứ hương
thơm như thế gọi là cái hương tối thượng, thế gian không có gì sánh bằng.
Phật khi còn
tại thế, khiến các vị đệ tử dùng lửa trí tuệ thiêu những cái hương vô giá
như thế để cúng dường mười phương chư Phật. Thời nay chúng sanh không hiểu
cái nghĩa chân thật của Như Lai đã chỉ cho, mà cứ đem lửa bên ngoài đốt
những thứ hương trầm ở thế gian hoặc là huân lục các hương có chất ngại
rồi mong mỏi được phước báu thì làm sao mà được?
Mình chỉ tu
bên ngoài cầu phước báu, thắp hương hết cây này đến cây khác, đốt hoài hết
tiền thôi thì làm sao mà được phước báu? Phước báu là phải có năm thứ
hương trên, năm thứ hương đó mà đốt hằng ngày thì được phước báu vô lượng
vô biên.
Lại nói tán
hoa là sao? Nghĩa cũng như thế. Chỗ gọi rằng diễn nói chánh pháp các hoa
công đức.
Nói tán hoa
tức là tán chánh pháp ra cho thiên hạ được nghe, được lãnh hội. Diễn nói
chánh pháp cho người ta nghe, người ta hiểu, người ta tu là tán hoa. Cho
nên nói rằng tán hoa công đức.
Làm lợi ích
cho hữu tình tán thiên (tức là mình tán hoa khắp tất cả). Đối với tánh
chân như khắp thì trang nghiêm. Đây là hoa công đức Phật khen ngợi, cứu
kính thường trụ không có thời kỳ nào tàn héo. Nếu lại có người tán được
cái hoa như thế thì được phước vô lượng, nếu nói Như Lai dạy chúng sanh
cắt chặt những cái lụa là hoặc là thương tổn những cỏ cây để lấy làm hoa
mà tán thì không phải vậy. Vì cớ sao? Bởi vì người trì giới thanh tịnh đối
với các vạn tượng sum la trong trời đất không khiến cho xúc phạm, nếu lầm
xúc phạm còn mắc cái tội rất lớn, huống lại ngày nay cố tình hủy hoại, phá
tịnh giới thương tổn vạn vật để cầu được phước báu, thì muốn lợi ích mà
trở lại còn tổn giảm.
Mình bây giờ
cắt cây, bẻ lá làm thương tổn chúng sanh cho mình được phước như vậy trái
quá rồi thấy không? Thành ra tán hoa là tán cái gì? Tức là đem giáo lý
Phật chỉ dạy cho mọi người. Như bây giờ tôi tán hoa cho quí vị đó, chớ còn
mình cứ đem cái hoa cắt ở trong bình chưng mà trong bình hôi hám mà nói
tán hoa hay cúng dường Phật, như vậy là làm thương tổn chúng sanh mà muốn
được phước làm sao mà được?
Còn nói đốt
đèn lưu ly thường cho sáng suốt ngày đêm: Tôi thấy cái đó thật vô lý. Thắp
cái đèn sáng trên bàn Phật, nói cái đó được phước vô lượng vô biên thì
không biết phước sao? Có người nói nhờ thắp đèn sáng, ở ngoài trông vô
thấy tượng Phật trang nghiêm mà phát tâm cho nên có phước. Nói như thế thì
nghe cũng có lý, mà lý đó nhẹ lắm. Ở đây Ngài nói thắp đèn sáng như vầy:
Thường sáng
như mặt trăng (tức là cái đèn thường sáng suốt ngày đêm đó) tức là cái tâm
chánh giác, cái giác tức là mình liễu dụ cho ngọn đèn. Thế nên tất cả mọi
người cầu giải thoát lấy thân làm đài của ngọn đèn, lấy tâm làm tim của
ngọn đèn, còn giới hạnh đó là thêm dầu (giới hạnh là châm dầu cho đèn) mà
soi khắp tất cả vô minh, si ám, hay lấy những cái phát minh này thứ lớp mà
khai thị cho nhau, tức là một ngọn đèn thắp một ngọn đèn, rồi từ ngọn đèn
này qua trăm ngàn ngọn đèn, đèn này qua đèn khác không cùng tận nên gọi là
chong đèn sáng mãi. Trong quá khứ có đức Phật tên là Nhiên Đăng cái nghĩa
cũng như thế.
Hồi xưa hiệu
của đức Phật Nhiên Đăng là đốt đèn, đốt như thế rồi thành Phật, chớ không
phải đốt như mình, sao đốt đèn hoài mà không thành Phật? Tại vì mình không
biết lấy thân làm đài đèn, lấy tâm làm tim đèn, lấy cái giới hạnh làm dầu.
Cái đèn đó đốt lên là để chiếu phá vô minh, si ám, rồi cái đèn này mồi cho
đèn kia, mồi hoài không hết, đó là đăng đăng truyền minh vô tận, vô tận
đăng là vậy.
Chúng sanh ngu
si không hội được lời nói phương tiện của Như Lai, chuyên hành cái hư vọng
chấp trước hữu vi, bèn đốt đèn dầu ở thế gian để chiếu soi trong cái nhà
trống, gọi đó là y theo lời Phật dạy, đó là lầm rồi! Vì cớ sao?
Phật phóng hào
quang, cái tướng hào quang sáng ở giữa chân mày hay chiếu soi muôn ngàn
thế giới, đâu nhờ cái ngọn đèn dầu thô như thế để làm lợi ích. Xét kỹ cái
lý này đâu không phải như vậy? Lại sáu thời hành đạo ấy, chỗ gọi rằng ở
trong sáu căn (mình nói là ngày đêm sáu thời hành đạo là gì?) trong tất cả
thời thường hành đạo, tu các giác hạnh, điều phục sáu căn, luôn luôn không
bỏ gọi là lục thời hành đạo.
Do đó lục thời
hành đạo với mình thì cứ chia ra Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu gì đó..., mỗi thời hành
đạo thì đó gọi là lục thời. Nhưng không phải, lục thời hành đạo tức là nơi
sáu căn thường dùng giác hạnh chiếu soi nó, đó là lục thời hành đạo. Như
vậy hai cái hành đạo khác nhau, cái kia thì đúng giờ nào đi tụng kinh một
thời, rồi đúng giờ kia đi tụng kinh một thời. Như vậy quí vị thấy hai
người hành đạo ai tỉnh hơn ai? Nếu hành ở sáu căn thường thường tỉnh giác
mình thấy cái đó mới tỉnh giác chứ. Thành ra nói lục thời mà thời nào cũng
tu hết, nghĩa là luôn luôn tất cả thời đều tu hành, thường hành Phật đạo,
tức là tu các giác hạnh để điều phục sáu căn của mình luôn luôn không bỏ
thì gọi đó là lục thời hành đạo.
Còn nói nhiễu
tháp hành đạo là sao? Chữ tháp là chỉ cho thân vậy. Phải tu các giác hạnh
tuần nhiễu nơi thân tâm (tức là xung quanh thân tâm) mỗi niệm, mỗi niệm
chẳng dừng gọi đó là nhiễu tháp.
Quá khứ các vị
Thánh đều hành cái đạo này đến được Niết-bàn. Thời nay người đời không hội
được lý này, chẳng ở trong mà hành, chỉ chấp ở ngoài mà cầu đem cái thân
chất ngại đi nhiễu cái tháp luống tự nhọc công.
Đi quanh cái
tháp ngày đêm hoài như vậy cho là đi nhiễu tháp hành đạo, mà không ngờ
nhiễu tháp hành đạo là tuần hành nơi sáu căn của mình, tức là ngay nơi
thân mình luôn luôn dùng cái giác hạnh hoài, tu mãi, không bỏ lơ, không
quên sót, đó là nhiễu tháp hành đạo.
Bây giờ nói
trì trai. Thông thường mình hay tự khoe tôi từ bé chí trưởng trì trai
thanh tịnh. Trì trai như thế nào? Tưởng rằng không ăn thịt cá đó là trì
trai phải không? Ở đây Ngài dạy:
Trì trai đó là
phải nên hội được cái ý, nếu không đạt được cái ý đây thì luống nhọc công
phu.
Chữ trai là tề
vậy. Chỗ gọi rằng đồng tề tức là nghiêm chỉnh thân tâm (tề là chỉnh tề, là
nghiêm chỉnh thân tâm). Trì trai là nghiêm chỉnh thân tâm không để cho nó
tán loạn.
Trì đó là hộ
vậy. Chỗ gọi rằng các giới hạnh như pháp mà hộ trì, ắt ở ngoài thì cấm sáu
tình, ở trong thì chế phục tam độc, siêng năng cần mẫn giác sát, thân tâm
thanh tịnh. Rõ được cái nghĩa như thế gọi là trì trai.
Về ăn có năm
thứ:
Một là pháp hỉ thực, chỗ gọi rằng y theo
chánh pháp hoan hỉ phụng hành, gọi đó là pháp hỉ thực.
Hai là thiền
duyệt thực, chỗ gọi rằng trong ngoài đều lóng lặng, thân tâm vui thích gọi
là thiền duyệt thực.
Ba là niệm thực, chỗ gọi rằng thường niệm
chư Phật, tâm và miệng tương ưng gọi là niệm thực.
Bốn là nguyện
thực, chỗ gọi rằng đi, đứng, nằm, ngồi thường cầu nguyện lành, gọi là
nguyện thực.
Năm là giải
thoát thực, chỗ gọi rằng tâm thường thanh tịnh, không nhiễm theo trần tục.
Năm cái thực
này gọi là trì trai. Nếu lại có người không có thực như năm cái thứ tịnh
như thế, tự nói rằng trì trai đó thì không có lẽ phải vậy (không có trì
trai năm thứ trên thì không phải là trì trai vậy).
Bây giờ thiếu
gì người ăn thì ăn hoa quả, rau trái mà động tới thì sân đùng đùng, phải
vậy không? Vậy mà nói tôi trì trai đó. Trì trai như vậy thì trai mà không
có trai chút nào hết. Rồi cũng mưu mô, kế này mưu kia để mà gạt thiên hạ
thì cái trì trai kia có nghĩa gì đâu! Cho nên Ngài chủ trương trì trai
của Ngài tức là năm thứ: - Pháp hỉ thực. - Thiền duyệt thực. - Niệm thực.
- Nguyện thực. - Giải thoát thực. Nếu ăn năm thứ đó gọi rằng trì trai, còn
nếu chưa ăn năm thứ này chưa phải là trì trai.
Chỉ đoạn cái
món ăn vô minh liền cho là hiểu gọi là phá trai. Nếu cũng có phá trai thì
làm sao mà được phước?
Đây câu này
nghe nói thì hơi tối nghĩa, chúng ta thấy như không rõ. Nói trì trai là
phải ăn năm cái món ăn đó thì tức là trì trai, còn nếu không ăn năm món ăn
đó thì chưa phải là trì trai. Như vậy trì trai có nghĩa là chỉ đoạn trừ
cái ăn mà để đoạn được cái vô minh, thì mới gọi là trì trai. Còn nếu liền
khởi cái hiểu không phải ở trong năm thứ ăn này, không phải là cốt phá vô
minh, mà còn khởi cái hiểu khác thì gọi đó là phá trai chớ không phải trì
trai. Nếu phá trai thì làm sao mà được phước?
Ở đời này có
những người mê không hiểu được cái lý này, thân tâm buông lung, đều làm
các việc ác, tham dục, buông lung tâm tính, không hổ thẹn, chỉ dứt cái món
ăn bên ngoài (không ăn thịt cá) tự cho là trì trai, ắt là không có lẽ phải
vậy.
Bây giờ nói lễ
bái.
Lại lễ bái
phải như pháp biết phải do cái lý thể ở trong cho sáng sủa rồi sự mới tùy
theo đó mà quyền biến. Hội được cái nghĩa như thế mới gọi là y pháp.
Phàm nói lễ
tức là kỉnh vậy, nói bái tức là phục.
Mình kỉnh phục
tức là lễ bái, phải vậy không?
Chỗ gọi rằng cung kính chân tánh, nép phục
vô minh gọi là lễ bái.
Nếu hay cái ác
tính hằng diệt, thiện niệm hằng còn, tuy chẳng có lý tướng gọi rằng lễ
bái. Cái tướng ấy tức là pháp tướng vậy.
Ở đây nói rằng
chúng ta mà hằng ngày, hằng đêm đối với cái ác tính mà mình dứt, cái thiện
niệm hằng còn thì tuy rằng đối với cái lý tướng, tức là hình thức lễ bái
mình không có, nhưng mà cũng gọi rằng lễ bái, thấy không? Mình không có
thắp hương lạy Phật mà hằng dứt cái tình ác, hằng đầy đủ những niệm lành,
như vậy đó đối với cái lý tướng thì coi như mình không, những vẫn gọi rằng
lễ bái. Vậy tướng đó là tướng gì? Tức là pháp tướng. Mình sống đúng pháp
thì gọi đó là lễ bái Phật.
Thế Tôn muốn
khiến người thế tục tiêu biểu cái tâm khiêm hạ cũng dùng cái lễ bái, cho
nên phải khuất phục cái thân ở bên ngoài rồi thị hiện cái cung kính ở bên
trong. Giác ở ngoài, sáng ở trong, tánh và tướng tương ưng với nhau. Nếu
lại có người không có hành cái lý pháp mà chỉ chấp cầu ở bên ngoài, trong
thì buông lung tham, sân, si, thường làm nghiệp ác, ngoài thì rỗng không,
nhọc nhằn cái thân tướng, dối làm thiện những cái oai nghi, không hổ thẹn
với các bậc thánh, luống dối kẻ phàm, không khỏi luân hồi, đâu có thành
công đức?
Đây, Ngài quở
rằng: có những người không hiểu được lý pháp như vậy. Cái lý pháp là gì?
Tức là luôn luôn đối với thân mình thì cung kính Phật, luôn luôn thân mình
nép phục trước đức Phật, còn đối với tâm mình thì cung kính về cái giác. Ở
ngoài thì giác, ở trong thì minh, như vậy thì tánh tức là giác minh, tướng
là cung kính nép phục, hai cái nó phù hợp nhau, đó là biết hành theo lý
pháp. Chớ còn mình bây giờ chỉ cầu bên ngoài, tới giờ thì lễ Phật, lạy
thôi là lạy mà ở trong thì buông lung tham, sân, si rồi thêm làm những
nghiệp ác. Do đó chỉ có bên ngoài cầu Phật, lạy Phật suông, chỉ có cái giả
hình bên ngoài như vậy đó là hổ thẹn với Phật, và đó là luống dối với kẻ
phàm, người đó không khỏi bị luân hồi, như vậy làm sao có công đức? Cho
nên nhiều khi những người thấy coi như cung kính Phật vô cùng, ngày đêm lễ
bái có vẻ tận tụy lắm, mà bản thân mình, lòng mình không chịu hạn chế lòng
tham, sân, si, không dẹp trừ những tánh xấu, những cái hạnh hư mà cứ cho
rằng lễ Phật như vậy đó là mình tu. Như vậy đó là mình hổ thẹn với Phật,
đó là mình dối gạt kẻ phàm. Thấy ông đó thì tầm thường, ổng tu lắm phải
không? Đó là mình gạt người thì như vậy phải luân hồi, làm sao có công đức
được?
Như thế tôi
nói lại: ở đây đối với Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài chỉ thẳng vào lý tánh mà Ngài
không đặt nặng vào sự tướng. Lý tánh nó thật là chỗ giác ngộ, sự tướng chỉ
là phương tiện bên ngoài, thành ra nếu chúng ta chưa hẳn sống được với lý
tánh hằng ngày như Ngài nói, thì ít ra chúng ta cũng mượn cái tướng mà
hiển cái tánh thì được; chớ còn nếu chúng ta chỉ tướng không, lạy Phật
cũng lạy hình tướng mà trong tâm không biết tu thì cái đó cũng không có
lợi gì. Còn nếu lạy bên ngoài mà để thấy được cái tánh trong thì không có
lỗi, phải không? Vì vậy cho nên chúng ta có thể mượn tướng để hiển tánh,
nương tướng để mà bày tánh thì được, còn nếu mình nặng về tướng mà không
hiển được tánh thì như vậy trở thành si.
Hỏi: - Như
trong kinh nói: “chí tâm niệm Phật ắt sẽ được vãng sanh về Tây Phương Tịnh
độ”, do một môn này liền ưng thành Phật, đâu có nhờ quán tâm mà cầu được
giải thoát?
Đáp: - Phàm
niệm Phật thì phải chánh niệm. Liễu nghĩa là chánh, còn không liễu nghĩa
là tà. Chánh niệm thì quyết được vãng sanh, còn tà niệm làm sao được đến
cõi kia ư?
Phật là giác,
gọi là giác sát nơi thân tâm, chớ khiến khởi ác. Niệm là nhớ, chỗ gọi rằng
hằng nhớ giữ cái giới hạnh không quên, tinh tấn trọn liễu cái nghĩa như
thế gọi là niệm. Cho nên biết niệm là ở nơi tâm chẳng phải ở nơi lời nói,
cũng như nhân cái nôm mà tìm được cá, mà khi được cá thì phải bỏ cái nôm.
Nhân lời nói mà tìm ý, được ý thì phải quên lời nói. Đã xưng gọi là niệm
Phật thì phải biết cái đạo niệm Phật. Nếu tâm không thật mà miệng niệm cái
tên suông, ba độc ở trong nó lẫy lừng, nhân ngã nó đầy bụng, thì đem cái
tâm vô minh hướng bên ngoài cầu Phật luống lại rỗng công (là cái công phu
luống uổng). Vả lại, tụng cùng với niệm cái nghĩa lý nó cách xa nhau. Ở
miệng thì gọi là tụng, tại tâm thì gọi là niệm, cho nên biết niệm từ tâm
khởi thì gọi đó là cái cửa giác hạnh. Còn tụng là từ trong miệng, tức là
cái tướng của âm thanh. Chấp ở bên ngoài mà cầu lý trọn không có lẽ phải.
Như bây giờ,
chúng ta có cái mà chúng ta hay hiểu lầm. Nói niệm Phật cầu vãng sanh rồi
lúc đó mình niệm sao? Niệm Nam-mô A-di-đà Phật, như vậy niệm hay đọc? Cái
chỗ lầm: mình niệm hay đọc? Bởi vì niệm là tâm, mà đọc là miệng, mà mình:
Nam-mô A-di-đà Phật tức là miệng mình đọc chớ đâu phải là niệm. Niệm tức
là tâm nó niệm, còn đọc là miệng nó đọc. Đọc tụng là miệng, còn niệm đó là
tâm, mà bây giờ mình nói niệm Phật, như vậy đó là lầm rồi, cho nên Ngài
nói: “Niệm tức là tâm, mà đọc tụng tức là miệng.” Như vậy nếu chúng ta nói
niệm Phật là gì? Tức là tâm nhớ cái giác hạnh của Phật, để mà xét nét lại
mình đừng cho nó lầm lẫn.
Cho nên biết
quá khứ các vị Thánh, chỗ tu về niệm Phật đều không phải nói ở bên ngoài
mà chỉ xét ở trong tâm.
Tâm tức là
nguồn tất cả pháp lành. Tâm là chủ của muôn công đức. Niết-bàn thường lạc
đều do chân tâm mà sanh. Ba cõi luân hồi cũng từ nơi vọng tâm mà khởi. Tâm
là cái cửa của xuất thế. Tâm là cái bến của giải thoát (quan tâm tức là
bến bờ hay là cửa của giải thoát). Biết được cửa rồi thì đâu lo khó vào?
Biết được cái cửa biển hay là bến đò rồi thì đâu có lo gì mà không xong?
(không qua được?)
Như vậy chúng
ta phải hiểu được cái ý nghĩa tu như vậy đó. Đó là nói về niệm Phật.
Hỏi: - Như
trong kinh Ôn Thất nói: “Người nào mà tắm gội cho chúng Tăng thì được
phước vô lượng.” (Trong kinh Ôn Thất nói: những người sắm được bảy món để
cho chúng Tăng tắm gội thì được phước vô lượng). Bảy món đó là gì?
Đáp: - 1. Nước
trong, 2. Lửa nấu, 3. Thái đậu, 4. Cành dương chi, 5. Nước tro sạch, 6.
Câu cao, 7. Nội y.
Có bảy thứ này để sẵn trong nhà tắm cho
chư Tăng tắm thì có phước vô lượng. Đây là nói trong kinh Trung A-hàm (tức
là trong kinh Ôn Thất), người nào sắm bảy thứ đó cúng dường chư Tăng thì
có phước nhiều lắm. Nhưng nói bảy món đó thì chúng ta có cảm tưởng kinh
A-hàm nặng về hình thức. Ấn Độ hồi đó sông ngòi ít lắm mà hồ, giếng thì
nhà cửa xung quanh thì đông, cho nên chư Tăng ít được tắm lắm. Vì vậy,
Phật bảo bảy ngày mới tắm một lần. Do đó thời bấy giờ ai mà sắm được bảy
thứ đó sẵn sàng trong nhà tắm cho chư Tăng thì có phước lớn, nên Phật mới
khen ngợi công đức đó. Ở đây, Ngài giải thích bảy món đó theo chỗ nhận xét
của Ngài.
Theo Ngài thì
đây là nằm trong cái hỏi:
“Tắm gội cho
chư Tăng mà được phước vô lượng, đây là bằng vào sự pháp, cái công đức mới
thành. Nếu dùng sự quán tâm thì đâu có thể tương ưng?”
Sở dĩ trong
kinh Ôn Thất nói rằng sắm được bảy món đó cho chư Tăng tắm gội thì được
phước vô lượng, như vậy bảy món đó là hình thức bên ngoài. Bây giờ bảo
quán tâm nó đầy đủ công đức thì làm sao mà được?
Ngài mới giải
thích:
“Tắm gội cho
chư Tăng mà được phước vô lượng đó không phải là việc hữu vi của thế gian.
Thế Tôn thường vì các vị đệ tử nói kinh Ôn Thất, muốn khiến cho những
người họ thọ trì cái pháp tẩy dục (chữ Ôn Thất tức là cái nhà nước ấm, tức
là thân vậy). Sở dĩ đốt lửa đó là lửa trí tuệ, còn nước sạch ấm đó là chỉ
cho giới. Còn tắm gội ở trong thân là chỉ cho tắm gội ở trong thân chân
như Phật tánh. Thọ trì bảy pháp dùng để tự trang nghiêm, phải biết rằng
thường ngày những vị thông minh, thượng trí đều hội được cái ý của Phật,
như lời Phật dạy mà tu hành, công đức được thành tựu đều lên quả Thánh.
Thời nay chúng sanh không lường được việc ấy, đem việc nước thế gian gội
cái thân chất ngại, tự cho rằng y theo kinh, đều là lầm vậy.
Vả lại, cái
chân như Phật tánh không phải là cái hình phàm phu phiền não, trần cấu,
xưa nay nó không tướng, đâu có thể đem nước chất ngại mà gội rửa, cái thân
vô tri tự nó không thể tương ưng làm sao mà ngộ đạo? Nếu muốn thân này
được tịnh thì phải quán sát cái thân này bản nhân tham dục, bất tịnh mà
sanh ra; nó là ô uế, nhơ nhớp dẫy đầy. Trong ngoài đều dẫy đầy sự nhơ
nhớp, nếu gội cái thân này cầu cho nó tịnh thì chẳng khác nào như mình xối
nước trên cái hầm đất, rửa cái hầm đất có hết mới gọi là tịnh.
Tỷ dụ như có
một cái hầm bằng đất mà mình muốn cho cái hầm đó sạch thì rửa chừng nào
mới sạch? Chừng nào xối nước mà tan hết đất thì chừng đó mới sạch, phải
vậy không? Thân này muốn nó sạch thì chừng nào mới sạch? Vì nó là gốc bất
tịnh rồi, nghĩa là cái lớp mà nó tràn ra mình gội rửa nó, mình cạo nó sạch
một lát nó cũng tràn ra nữa, vì nguyên nó là cái thể bất tịnh thì không có
bao giờ tịnh được hết. Chỉ tịnh là chừng nào nó hết trơn cái gốc bất tịnh
đó thì nó mới tịnh được. Vì vậy cho nên muốn cho nó tịnh là chuyện không
có.
Lấy đây mà
nghiệm thì biết rõ cái thân bên ngoài không phải là cái ý của Phật nói
vậy. Thế nên mượn cái việc thế gian để tỷ dụ cho cái chân tâm, ẩn nói bảy
việc cúng dường công đức, bảy việc này để dụ cho bảy pháp. Tất cả chúng
sanh do bảy pháp này gội rửa trang nghiêm hay trừ được tam độc vô minh,
cấu uế. Bảy pháp ấy là:
1. Tịnh giới
để rửa sạch lỗi lầm, ví như là nước sạch mà mình rửa sạch các trần cấu
vậy.
2. Trí tuệ là quán sát trong ngoài, ví như
là đốt lửa hay làm cho nước sạch nó ấm.
3. Phân biệt
là giản trạch, lựa bỏ cái ác, ví như là thái đậu (xà bông) làm sạch các
chất dơ.
4. Chân thật
nghĩa là đoạn hết các vọng tưởng, ví như là cành dương nó làm tiêu hơi hôi
ở trong miệng.
Bên Ấn Độ
người ta nhai cành dương để hết cái hơi hôi trong miệng, sáng thức dậy,
người ta lấy cành dương nhai hoài, đó là để trừ cái hơi hôi ở trong miệng,
cũng như bây giờ mình đánh răng buổi sáng bằng kem.
5. Chánh tín
để quyết định không còn nghi ngờ gì nữa, ví như là nước tro sạch làm cho
thân mình không bị gió (tắm nước tro sạch làm cho thân mình không bị gió).
6. Nhu hòa,
nhẫn nhục, cam chịu ví như là câu cao nó làm cho trơn láng cái da bên
ngoài.
7. Hổ thẹn là
hối các nghiệp ác, ví cũng như là cái nội y để ngăn cái hình xấu xí của
mình.
Bảy pháp báu
như trên, là cái nghĩa bí mật ở trong kinh, đều là vì các vị Đại thừa, lợi
căn mà nói chớ không phải là vì kẻ tiểu trí hạ liệt phàm phu. Sở dĩ người
thời nay không thể ngộ rồi lén thầm thấy kim thời, cái hiểu biết cạn cợt,
chỉ lấy sự tướng làm công phu, rồi rộng bày ra những việc phí tiền phần
nhiều thương tổn cái thủy lục (tức là nước nôi) rồi vọng lập ra những
tượng, tháp rồi luống sắp những người phu dịch để chứa nhóm cây lựa đất,
rồi tô xanh vẽ lục. Đem hết cái tâm lực mà làm tổn mình, nơi người chưa
hiểu để mà hổ thẹn thì đến chừng nào mới được giác ngộ.
Thấy hữu vi
thì siêng năng mến đắm, nói vô vi thì họ mờ mờ như mê.
Nghĩa là thấy
cái hữu vi thì thích lắm, ưa lắm, theo tìm còn nói đến vô vi thì ngây ngây
như kẻ mê, không biết gì.
Vả lại ham một
chút lòng từ của hiện đời mà đâu có giáp được cái đau khổ của đời sau. Cho
tu học này luống tự nhọc nhằn, trái với cái chánh mà trở về theo cái tà,
nói gì là được phước?
Chỉ hay nhiếp
tâm chiếu soi ở trong, giác quán rõ ràng ở ngoài, dứt sạch ba độc hằng
khiến nó tiêu mất, đóng cửa sáu giặc không khiến nó sanh nhiễm. Tự nhiên
hằng sa công đức, các thức trang nghiêm, vô số pháp môn, mỗi mỗi đều được
thành tựu siêu việt phàm tình, chứng lên thánh quả, mục kích không xa, ngộ
chỉ trong chốc lát, không có phiền nhọc gì, cho đến đầu phải bạc (không có
nhọc nhằn gì đâu xa, chờ đầu bạc mới được). Cái chân môn nó là y lý, đâu
có thể trình bày cho tường tận được. Lược nói quán tâm một ít phần của nó.
Nên nói kệ rằng:
Ngã bản cầu tâm tâm tự trì
Cầu tâm bất đắc đãi tâm tri
Phật tánh bất tùng tâm ngoại đắc
Tâm sanh tiện thị tội sanh thì.
Dịch:
Ta
xưa cầu tâm tâm tự giữ
Cầu tâm không được đợi tâm biết
Phật tánh không từ ngoài tâm được
Tâm sanh bèn là lúc tội sanh.
Như vậy bốn
câu kệ này Tổ lại kết thúc cả
một môn cho chúng ta thấy, nghĩa là chúng ta tu hành xưa nay là cốt cầu
được tâm, cầu được tâm thì không thể được mà đợi tâm thì biết, cầu được
tâm thì tự nhiên tự tâm nó gìn giữ. Tại sao cầu tâm không được? Mà đợi tâm
thì biết? Vì khi mình cầu tâm thì tâm đã mất rồi thì lấy cái gì mà cầu nó.
Tâm đó là tâm rồi mà còn cầu tức là nó có hai tâm. Vì vậy cho nên cầu tâm
mà cầu không được. Nhưng mà bây giờ mình không cần cầu nữa, mình chỉ hết
vọng thì tự nhiên biết tâm chớ gì? Cho nên đợi tâm tri, đãi tâm tri tức là
hết đối đãi thì liền biết được tâm. Phật tánh nó không ngoài tâm mà được,
không phải cầu ngoài tâm mà được. Nếu tâm vừa dấy niệm sanh lên thì lúc đó
tội đã sanh rồi. Tâm dấy niệm lên thì tội theo đó mà sanh. Ai muốn hết tội
thì đừng có dấy tâm, dấy tâm là có tội. Chúng ta kiểm lại coi một ngày
mình có bao nhiêu tội?
Ngã bản cầu tâm bất cầu Phật
Liễu tri tam giới không vô vật
Nhược dục cầu Phật đản cầu tâm
Chỉ giá tâm tâm tâm thị Phật.
Dịch:
Ta
xưa cầu tâm chẳng cầu Phật
Rõ
biết tam giới không không vật
Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm
Chỉ cái tâm tâm tâm ấy là Phật.
Ngài nhấn mạnh
tâm tâm tâm ấy là Phật
chớ không có gì khác hết. Mình cứ đi tìm ông Phật ngoài tâm mà không thấy
tâm mình chính là Phật. Như vậy nếu người nào cầu Phật, ngay nơi tâm mình
mà cầu. Cầu mà không cầu nghĩa là hằng trở về với tâm thì đó là cầu Phật.
Ngoài tâm ra thì không có một vật gì thật hết. Cho nên mới nói: “Rõ biết
tam giới không không vật.” Muốn cầu Phật thì chỉ cầu nơi tâm thôi, chính
cái “tâm tâm” đó mới là Phật chớ không có cái nào khác. Ngay nơi tâm đó,
chính nó là Phật.
] |