CỬA THỨ NĂM : NGỘ TÁNH LUẬN
Luận về Ngộ
tánh. Vì chúng ta tu nếu mà không nhận ra bản tánh thì sự tu ấy chỉ là tu
trong mê vọng, không thể nào đạt được chánh đạo. Muốn ngộ được bản tánh
thì chúng ta phải khéo nhận ngay nơi mình. Nương nơi lời Phật, Tổ mà thấy
được bản tánh của chính mình, như vậy mới gọi là Ngộ tánh. Đừng mắc kẹt
trong văn tự, ngôn ngữ bên ngoài mà thấy ngay lại mình thì đó mới là chân
thật. Chính ngay trong phần luận này cốt là để cho chúng ta ngộ được bản
tánh mình.
Phàm người học đạo lấy cái tịch diệt làm thể.
Còn người tu phải lấy cái ly tướng làm tông.
Cho nên trong
kinh nói: “Tịch diệt là Bồ- đề. Vì diệt hết các tướng.”
Chúng ta thấy
mở đầu ngộ tánh để chỉ cho chúng ta thấy cái thể tịch diệt đó. Đó là đạo.
Cái thể tịch diệt ở đâu? Tức là ở ngay nơi tâm chúng ta. Cái không động
lặng lẽ như như đó là thể tịch diệt, chính cái đó là đạo. Mà chúng ta muốn
tu về cái đạo ấy, thì tức nhiên phải lìa các tướng bên ngoài. Như vậy cho
nên nói lấy ly tướng làm tông, tức là làm chủ. Đây Ngài mới dẫn kinh làm
chứng. Trong kinh nói rằng: “Tịch diệt đó là Bồ-đề”. Tại sao tịch diệt là
Bồ-đề? Bởi vì diệt hết các
tướng ở bên ngoài.
Phật là giác
vậy. Người có giác tâm được đạo Bồ- đề cho nên gọi là Phật.
Ai cũng có tâm giác hết. Nhân thấy được
tâm giác đó gọi là đạo Bồ-đề. Được đạo Bồ-đề thì gọi là Phật.
Kinh nói: “Lìa
tất cả sắc tướng tức gọi là chư Phật.”
Đó là dẫn
trong kinh Kim Cang để cho chúng ta thấy. Trong kinh dạy rằng: “Lìa tướng
thì gọi là Phật, vì Phật là tịch diệt, mà tịch diệt tức là ly tướng.”
Thế nên biết có tướng ấy là tướng của vô
tướng không thể dùng con mắt mà thấy, chỉ có thể lấy trí mà biết.
Tại sao ở đây
nói rằng: “thế nên biết tướng ấy là tướng vô tướng”? Bởi vì thể Bồ-đề hay
thể tịch diệt đó nó không phải là không, bởi không phải là không cho nên
gọi đó là có tướng. Nhưng có tướng mà không phải là những tướng như tất cả
sự vật có hình tướng ở bên ngoài chúng ta thấy vậy, cho nên nói rằng có
tướng mà tướng đó là vô tướng. Như bây giờ những cái mà mắt chúng ta thấy
được có cái nào không có hình thức đâu? Cái gì con mắt mình thấy được đều
có hình tướng, thì cái đó là cái tướng do mắt thấy. Còn tánh tịch diệt
Bồ-đề nó có cái lặng lẽ thanh tịnh, cho nên gọi là có tướng, nhưng mà cái
lặng lẽ thanh tịnh đó nó không có hình thức như muôn ngàn sự vật mà chúng
ta thấy, vì vậy cho nên gọi là tướng vô tướng. Do đó cái tướng vô tướng ấy
không thể dùng con mắt mà thấy được. Nếu dùng con mắt thấy tức là thấy cái
tướng của sự vật rồi. Mà chỉ có thể dùng trí mà biết. Như vậy mọi người
chúng ta nếu mà tế nhị nhận xét, thì chắc rằng ai cũng nhận biết mình có
một cái tâm chẳng sanh chẳng diệt, khi nhận biết cái đó, nhận biết một
cách không ngờ vực, không còn một chút nào mà nghi nan nữa, thì đó gọi là
thấy tánh. Còn nếu nhận biết mà khi tin khi nghi thì đó gọi là chưa thấy,
chưa biết. Biết mà chưa có thật biết cho nên gọi là không thể thấy. Vì
vậy chữ kiến tánh nó không phải là chữ kiến theo nghĩa thông thường của
con mắt thấy mà theo cái nghĩa nhận ra của trí tuệ, trí nhận ra thì gọi là
kiến tánh. Nói như vậy để chúng ta thấy trong danh từ nhà Phật nói kiến
tánh thành Phật, rồi chúng ta cứ trách hoài: nói kiến tánh mà từ giờ tôi
chưa từng thấy cái đó ra sao mà gọi là kiến tánh? Ở đây Ngài chỉ cho rõ
ràng cái tánh đó nó có tướng mà vô tướng, vì vậy không thể lấy con mắt
thấy được, chỉ dùng trí tuệ mà biết thôi.
Nếu người nghe
một pháp này sanh một niềm tin nơi tâm, thì người này đã do phát cái tâm
Đại thừa hay siêu thoát tam giới.
Người nào nghe
được pháp này tức là nghe pháp kiến tánh này, mà mình có được một niềm tin
trong lòng thì người này đã phát được tâm Đại thừa, và người này sẽ siêu
xuất tam giới. Tại sao chỉ mới có một chút tin mà đã phát tâm Đại thừa?
Chỉ có một chút tin mà ra khỏi tam giới? Vì nếu chúng ta tin được cái đó
(chân tánh), tin được chân tánh mình thì chân tánh đó (như trong Đại Thừa
Khởi Tín Luận nói) nó là rộng lớn không ngăn mé. Như vậy tin được cái đó
là chúng ta đã phát tâm Đại thừa. Rồi chính vì tin cái đó cho nên chúng ta
không còn mắc kẹt hình tướng của tam giới. Như vậy là chúng ta ra khỏi tam
giới.
Nhưng ở đây
Ngài nói tam giới là gì?
Là tham, sân,
si ấy vậy. Ngược tham, sân, si đổi là giới, định, tuệ tức gọi là siêu xuất
tam giới.
Bởi vì khi chúng ta không nhận ra bản
tánh, không thấy mình có một bản tánh thanh tịnh, tịch diệt lặng lẽ thì tự
nhiên mình sống với cái vọng tâm điên cuồng. Vọng tâm điên cuồng đó là tôi
đòi của tham, sân, si. Vì vậy cho nên nói nó lôi cuốn mình lăn lộn trong
tam giới. Bây giờ nếu chúng ta tin được mình có cái bản tâm thanh tịnh đó
thì cái tham, sân, si chỉ là những tướng trạng hư ảo, không thật, cho nên
chúng ta không theo nó mà liền chuyển nó thành ra giới, định, tuệ. Vì lẽ
đó mà chúng ta ra khỏi tam giới.
Nhưng tham,
sân, si cũng không thật tánh, chỉ căn cứ nơi chúng sanh mà nói vậy.
Nói thật tình
thì tham, sân, si nó cũng không thật nữa, không có tánh thật, chỉ căn cứ
nơi chúng sanh mà nói thôi. Vì thường chúng ta ai cũng tự chấp nhận mình
có một trong ba tánh: hoặc là tánh tham, hoặc là tánh sân, hoặc là tánh
si. Mỗi người hình như âm thầm chấp nhận vậy. Nếu người hay thường nóng
thì nói có tánh gì? - Tôi có tánh sân, phải không? Còn người thấy cái gì
cũng muốn hết thì nói tôi có tánh tham, tham cái này, tham cái kia. Còn
người học hành không thuộc thì nói tôi có tánh si. Như vậy chấp nhận mình
có một trong ba tánh tham, sân, si. Nhưng mà xét kỹ tham, sân, si nó không
có tánh thật. Bởi sao? Nếu nó có tánh thật chắc mình dẹp nó không nổi! Bởi
vì nó không thật cho nên mình mới dẹp nó được.
Bây giờ chúng
ta thử kiểm điểm lại coi tham, sân, si nó thật hay không? Tôi nói thí dụ
như nói về tham ăn. Như hồi nhỏ chúng ta không biết gì hết, cha mẹ nuôi
cho ăn cá, ăn thịt, ăn riết quen rồi nói tới ăn chay chúng ta sao? Nó ngỡ
ngàng, nó khó chịu, nghĩa là bữa nào ăn chay nghe nó xót ruột, thèm cá,
thèm thịt. Như vậy cái thèm đó là tham muốn ăn cá, ăn thịt chớ gì? Nhưng
bây giờ thây kệ, cứ vô chùa ăn chay riết năm năm, mười năm rồi bây giờ cái
tham ăn thịt cá nó còn không? Nó mất tiêu thấy không? Như vậy thì cái tánh
tham ăn, nếu nó cố định và thật thì chắc mình không bỏ được, phải vậy
không? Bây giờ đây mình thấy không dùng nó một lúc thì tự nhiên nó mất,
mất không còn thấy tăm dạng nữa. Bây giờ chẳng những thấy không thèm mà
còn ngán nữa. Như vậy để chứng tỏ rằng cái tham nó không có
thật.
Rồi cái si
cũng vậy, như bây giờ chúng ta nổi nóng la ầm ĩ một hồi rồi khi hết nóng
kiểm lại cái nóng hồi nãy nó ở đâu? Cũng không biết nó ở đâu phải không?
Nếu nó có thật tức là hồi nó dấy lên từ đâu mà nó xuất ra, rồi lúc nó lặng
xuống thì nó cũng trở về căn cứ nào đó mới là thật. Còn cái này xuất phát
không biết từ đâu, mà lặng xuống cũng không biết về chỗ nào. Vậy đó mà sao
nói nó thật được. Vì vậy cho nên sau này ngài Vĩnh Gia nói: “Vô minh thật
tánh tức Phật tánh.” Vô minh tức là tham, sân, si chớ gì? Ngay nơi cái
thật tánh của tham, sân, si là Phật tánh chớ không đâu hết. Tại sao mà
Ngài dám nói thẳng như vậy? Bởi vì khi tham, sân, si nó lặng rồi thì lúc
đó nó trở thành cái gì? Tức là trở về tâm tịch diệt chớ gì? Mà tâm tịch
diệt tức là Bồ-đề. Như vậy tự nhiên tham, sân, si mà đến chỗ thật tánh của
nó thì đó là Phật tánh, chớ không có gì xa lạ. Khi nó nổi lên thì nó thành
ra ma quỉ, nổi lên thì thành ma quỉ mà lặng xuống thì thành Phật. Vì vậy
cho nên chúng ta chỉ cần đừng cho nó nổi lên thì chúng ta thành Phật, chớ
đâu có đuổi, đâu có kiếm cái gì, đâu có trừ, đâu có dẹp. Hiểu như vậy thì
mới thấy rõ chỗ tu hành nó không phải là khó khăn lắm, nhưng cũng không
phải dễ!
Hay phản chiếu
rõ ràng thấy được tánh của tham, sân, si tức là Phật tánh.
Nếu mình hay phản chiếu thường thấy một
cách rõ ràng thì cái tánh tham, sân, si là Phật tánh chớ không có gì khác.
Ngoài tham,
sân, si không riêng có Phật tánh.
Ngoài tham,
sân, si không có Phật tánh riêng. Tại sao vậy? Bây giờ chúng ta có ai thấy
tham, sân, si nó dấy lên ngoài tâm chúng ta không? Ngoài tâm mình có tham,
sân, si dấy lên riêng không? Cũng như hỏi ngoài mặt biển có thấy sóng dậy
trên đất bằng không? Như vậy nếu không có sóng dậy trên đất bằng, thì
chính ngay nơi sóng đó là mặt biển chớ gì? Sóng lặng xuống là mặt biển chớ
có tìm ở đâu xa. Bây giờ hỏi chớ ngoài cái tâm của chúng ta ra, tham, sân,
si có nổi ở ngoài không? Nó nổi ở ngoài hư không này chạy vô không? Rõ
ràng nó nổi từ tâm chúng ta, cho nên nó lặng xuống là Phật tánh, nó dấy
lên là tham, sân, si. Như vậy cho nên không có tìm Phật tánh ở đâu xa mà
ngay nơi tham, sân, si nó lặng xuống thì thấy Phật tánh chớ không có gì
hết. Cái tu nó đơn giản như vậy, cho nên chỗ này người Nhị thừa không hiểu
nổi. Tại sao không hiểu nổi? Bởi vì người Nhị thừa là người đối trị, nghĩa
là lấy cái này trị cái kia, mà như vậy thường thường muốn trị cái tham thì
phải bố thí, muốn trị cái sân thì phải nhẫn nhục... Nhưng mà ở đây thì Tổ
nói không có trị gì hết, nghĩa là ngay đó cho nó lặng xuống thì thấy ông
Phật của mình chớ không có trị, không cần đối trị. Như vậy cho nên ở đây
thoát ra ngoài cái pháp môn đối trị, vì đối trị thì còn hai, phải vậy
không? Bởi còn có hai cho nên chưa phải là lý cứu kính. Ở đây chỉ thẳng
không còn hai, ngay nơi vô minh hay là tham, sân, si đó mà lặng xuống là
Phật tánh, chớ không phải ngoài tham, sân, si riêng có Phật tánh.
Kinh nói rằng:
“Chư Phật từ xưa đến nay thường ở trong tam độc nuôi lớn cái pháp trong
sạch mà thành được Thế Tôn.”
Nói chư Phật
xưa nay ở trong tam độc nhờ nuôi lớn cái pháp thanh bạch mà thành được Thế
Tôn. Như vậy, chúng ta bây giờ cũng ở trong tam độc mà nếu chúng ta biết
nuôi lớn cái bạch pháp, thì chúng ta cũng thành Phật được. Như vậy để thấy
rằng tam độc và Bồ-đề nó không rời nhau. Cũng không phải là hai pháp. Nói
như vậy, không phải hai pháp thì chúng ta khó mà tin được: bên này là Bồ-
đề, bên kia là tam độc làm sao mà không hai pháp? Nhưng mà nếu lặng cái
tam độc xuống, không phải Bồ-đề là cái gì? Như vậy nếu là hai pháp thì tam
độc nó lặng xuống thì ở một bên, còn
Bồ- đề nó ở một bên. Nhưng
mà sự thật, lặng tam độc tức là Bồ- đề, nên không phải là hai pháp.
Cũng như bây
giờ chúng ta tạm thí dụ có một người tên là A, người ấy vì hoàn cảnh xã
hội hoặc vì tánh xấu xa của họ cho nên lớn lên họ đi ăn trộm, ăn cướp họ
làm những điều tội lỗi. Anh A này khi đi ăn trộm ăn cướp thì gọi đó là một
kẻ xấu, kẻ ác, kẻ tội lỗi. Bây giờ đây có một người lương thiện biết đạo
lý, gẫn gũi, nhắc nhở, thức tỉnh anh, lần lần anh hồi tỉnh. Anh biết những
hành động, những việc làm trước là tội, là quấy, là ác, là xấu, anh hứa
chừa, anh nguyện bỏ. Rồi từ đó về sau anh không làm chuyện ăn trộm, ăn
cướp nữa thì còn gọi anh A là người xấu nữa không? Như vậy nếu không làm
chuyện trộm cướp, không làm chuyện xấu xa thì tự nhiên gọi đó là lành rồi,
người thiện rồi. Như vậy là bỏ anh A thuở xưa được anh A tốt bây giờ, hay
là cũng chính anh A ấy mà dừng lặng những hành động xấu thì anh A trở
thành người tốt. Như vậy từ đâu mà có được anh A tốt? Như vậy mình đâu
thấy anh A trộm cướp, tội lỗi và anh A lương thiện sau này là hai. Mà chỉ
chịu khó dừng đi những hành động xấu xa của thuở xưa thì tự nhiên thành
người tốt.
Cũng như vậy,
chúng ta muốn tìm ông Phật thanh tịnh, sáng suốt thì chỉ cần dừng cái
tham, sân, si lại, nó lặng xuống rồi thì ông Phật thanh tịnh sáng suốt
hiện ra, chớ đâu có tìm ông Phật đó ngoài cái tham, sân, si hiện giờ. Như
vậy để thấy đừng có nghĩ là hai, cái quan niệm hai là cái quan niệm còn ở
bên đối đãi chưa có phải cứu kính, nhưng mà bởi vì chúng ta đại đa số
người đang sống trong cái đối đãi, cho nên nói tới chỗ đó không ai chấp
nhận được. Nhưng mà xét tới lý cứu kính thì nó như vậy, nó không phải là
cái đối đãi. Tất cả cái đối đãi đều là không thật hết. Chỗ cứu kính thì
không có cái đối đãi nữa. Thấy như vậy rồi chúng ta mới thấy phiền não tức
là Bồ-đề. Thật tánh của tham, sân, si là Bồ- đề, là Phật tánh, thì tức
nhiên phiền não tức là Bồ-đề. Ngay trong tham, sân, si đó mà lặng xuống
thì đó là Phật tánh. Cũng như ngay trong phiền não mà lặng xuống tức là
Bồ-đề chớ đâu có tìm ở đâu khác?
Tam độc là
tham, sân, si vậy.
Nói Đại thừa, nói Tối thượng thừa đều là
nói cái chỗ sở hành của Bồ-tát, không có chỗ nào mà chẳng thừa, cũng không
có chỗ nào thừa, trọn ngày thừa mà chưa từng thừa. Đây là Phật thừa.
Câu này nghe hơi khó hiểu. Tại sao trọn
ngày thừa mà chưa từng thừa gọi là Phật thừa? Chữ thừa là cõi, là nương,
tức là trọn ngày nương nơi đó mà chưa từng nương. Đây mới thật là Phật
thừa. Bởi vì thể tánh tịch diệt này không vắng mặt nơi chúng ta một phút
giây nào hết. Nếu chúng ta nhận ra được thể tánh đó, hằng sống với nó thì
gọi đó là trọn ngày thừa, tức là trọn ngày nương nơi tánh tịch diệt của
chúng ta. Nhưng mà nó có pháp bị nương và người hay nương hay không? Bởi
không có cho nên nói chưa từng nương. Bởi vì trở về tánh tịch diệt ấy thì
nó không có người hay trở về và tánh tịch diệt bị về mà chỉ là hằng sống
lại với nó thôi. Vì vậy cho nên nói trọn ngày thừa mà chưa từng thừa, đó
mới là Phật thừa. Phật thừa là vậy. Phật thừa là trở về sống với tánh tịch
diệt của mình, tánh tịch diệt này nói tên khác là sống với pháp thân thanh
tịnh của mình. Đó là Phật thừa.
Kinh nói:
“Không thừa là Phật thừa.”
Tức là không có cõi nương ấy là Phật thừa.
Chớ còn thấy có thừa để cho mình cỡi mình nương thì chưa phải là Phật
thừa. Thừa đó còn nằm trong đối đãi, có người năng thừa và có pháp bị
thừa.
Nếu người biết
sáu căn không thật, ngũ uẩn là giả danh, toàn thể mà cầu ắt không có định
xứ (tức là không có chỗ nhất định), phải biết người này hiểu được lời Phật
nói.
Người nào mà hiểu được lời Phật nói là
người đó trước hết phải thấy sáu căn không thật, thấy ngũ uẩn là giả danh.
Giả danh không thật, sáu căn không thật và ngũ uẩn không thật nữa, tìm
khắp hết thì biết không có chỗ nhất định. Vì sáu căn không có nhất định,
ngũ uẩn cũng không có nhất định, những người được như vậy mới là người
hiểu được lời Phật nói. Còn người mà chưa được như vậy thì người đó dù cho
đọc thuộc lòng kinh Phật cũng chưa hiểu lời Phật nói nữa.
Kinh nói rằng:
“Ở trong nhà ngũ uẩn ấy là Thiền viện. Ở trong chiếu soi mở sáng tức là
cái cửa Đại thừa. Chẳng nhớ tất cả pháp mới gọi là Thiền định.”
Như vậy danh
từ Thiền viện ở đây khác hơn Thiền viện của chúng ta. Thiền viện của mình
ở đâu? - Ở bên ngoài, có nhà to, có khu vườn rộng, đó là Thiền viện. Ở đây
kinh nói rằng: ngay trong nhà năm uẩn của mình đó, ấy gọi là Thiền viện.
Làm sao ở trong đó mà tu thiền định? Ở trong mình chiếu soi để mở sáng ra
thì lúc đó là mở cửa Đại thừa. Nhà năm uẩn là Thiền viện, trong đó hằng
chiếu sáng thì đó là mở cửa Đại thừa. Còn không nhớ một pháp nào hết, đối
tất cả pháp mà không nhớ thì gọi đó là Thiền định. Bây giờ, chúng ta ngồi
thiền để làm gì? Là cốt quên tất cả pháp chớ gì. Vừa có nhớ một pháp tức
là động tâm rồi hết thiền. Như vậy thiền định là không nhớ tất cả pháp,
không nhớ tức là quên. Vì vậy cho nên người tu lâu là quên hoài, quên hết,
quên cho tới chừng nào quên luôn cả mình nữa thì mới được. Chớ còn quên mà
quên những chuyện xấu của mình nhưng chuyện tốt của mình còn nhớ thì chưa
thật quên. Chuyện dở của mình thì mình quên mà chuyện dở của người thì
mình nhớ cũng chưa thật quên. Quên là quên hết, quên cả thân mình nữa, như
vậy đó mới được.
Nếu rõ được
lời nói này thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền định.
Ai rõ được lời nói đó thì trong bốn oai
nghi đều là thiền định hết. Đi đâu cũng là ở trong Thiền viện hết. Cái
thân ngũ uẩn lê tới đâu cũng là Thiền viện tới đó. Ở trong hằng chiếu soi
đó là mở cửa Đại thừa. Rồi quên tất cả pháp tức đó là thiền định. Như vậy
đi tới đâu cũng ở trong thiền định hết. Bây giờ chúng ta muốn ở thiền định
hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây thì chỉ chịu khó đi đâu cũng
không nhớ tất cả pháp, cái gì cũng thây kệ nó đừng thèm nhớ đó là thiền
định.
Biết tâm là
không gọi là thấy Phật.
Câu này lần
này là lần thứ hai, tức là điệp khúc thứ hai của Ngài: Biết tâm ấy không,
gọi là thấy Phật. Như hồi nãy đã nói, biết tâm không tức là biết bao nhiêu
vọng tưởng dấy lên nó là không, thì gọi là thấy Phật chớ không có gì lạ.
Vì cớ sao? Vì mười phương chư Phật đều do
vô tâm, không thấy nơi tâm gọi là thấy Phật.
Bởi vì mười
phương chư Phật đều do vô tâm mà thành Phật. Vì vậy chúng ta không thấy
tâm mình thì gọi là thấy Phật.
Không thấy tâm
gọi là thấy Phật, sao đơn giản quá vậy? Nếu vọng tưởng không dấy lên tức
là không thấy tâm, hay là tâm vọng tưởng dấy lên mà mình biết nó không
thật thì lúc đó mình liền thấy Phật chớ có gì đâu. Cái nguyên tắc hết sức
là đơn giản: Không thấy tâm là thấy Phật. Còn thấy tâm thì không thấy
Phật. Cho nên người nào nói tôi nghĩ thế này, tôi nghĩ thế kia, người đó
thấy Phật được không? - Không thấy Phật. Người nào mà không thấy mình nghĩ
cái gì hết thì người đó dễ thấy Phật. Nếu mình khởi nghĩ, là mình không
thấy Phật, nếu hết nghĩ tức là thấy Phật. Bởi vì thấy tâm mình tức là tâm
vọng niệm, mình thấy nó là lúc đó ông Phật bị mây che rồi. Còn bây giờ nếu
tâm đó không dấy lên thì ông Phật đâu có bị mây che. Vì vậy cho nên mình
thấy Phật. Như vậy thấy Phật này, không phải Phật Thích-ca, không phải
thấy Phật Di-đà mà chính là thấy Phật Pháp thân của chính mình.
Mình bỏ tâm mà
không có tiếc thì gọi đó là đại bố thí, lìa các động định gọi là đại tọa
thiền.
Chỗ này tại sao gọi là đại bố thí? Nghĩa
là người nào dám bỏ tâm mà không tiếc, người đó là đại bố thí. Bây giờ
chúng ta nghĩ mình bỏ tâm mình có tiếc không? Bây giờ ví dụ như chúng ta
một giờ nào đương ngồi thiền, trong lúc ngồi thiền hơi yên yên, bỗng nó
nghĩ ra cái gì hay quá hay hoặc một đề tài thật hay, hoặc nghĩ ra một bài
thơ hay thật hay, hoặc nghĩ ra một câu chuyện gì giải đáp hay thật hay thì
lúc đó dám bỏ hay không? Khi mà nghĩ ra được như vậy tức nhiên khó mà dám
bỏ lắm! Dám bỏ được cái đó là đại bố thí. Bố thí như vậy mới là đại bố
thí, chớ còn mình bố thí của cải bên ngoài thì chưa phải là đại bố thí.
Chính những tâm niệm mà mình cho là hay đó, mà mình dám buông bỏ mới là
đại bố thí. Chúng ta hằng ngày tu ráng mà nhớ cái đó, cho nên chính thấy
người tu khác hơn những văn sĩ. Tôi thuở xưa cũng hay gần những văn sĩ, họ
đang ngủ hay vô mùng nằm gần ngủ, sực nhớ một cái gì hay, họ liền thức dậy
thắp đèn lên họ viết cho đã, chừng những cái hay đó họ viết rồi họ mới đi
ngủ. Như vậy cho nên họ mới thành văn sĩ. Còn chúng ta ở đây thì lại khác,
trong tâm mình nghĩ cái gì hay cũng bỏ tuốt không luyến tiếc gì hết. Như
vậy mới gọi là đại bố thí.
Lìa các động
và định thì mới gọi là đại tọa thiền. Mình bây giờ cứ nhớ lúc này mình
động, một hồi lại nghe mình định. Còn thấy có định, có động chỉ là tiểu
tọa thiền, chưa phải đại tọa thiền. Chừng nào đi, đứng, nằm, ngồi mà không
còn thấy định thấy động gì nữa hết, thì lúc đó là đại tọa thiền. Đại tọa
thiền là như vậy, nghĩa là không còn có định, động đối đãi nhau mới gọi là
đại tọa thiền. Vì vậy cho nên hồi xưa các vị Thiền sư hay hỏi nhau, ngồi
thiền có xuất nhập thì các ngài nói chưa phải đại định là ý đó. Còn thấy
có xuất có nhập, làm sao mà đại định? Đại định thì không còn thấy có động,
có định nữa.
Vì cớ sao?
Phàm phu một bề hướng về động. Còn Tiểu thừa một bề hướng về định. Nói
rằng ra khỏi hai cái lỗi tọa thiền của phàm phu và Tiểu thừa thì mới gọi
là đại tọa thiền.
Phàm phu thì một bề động, Nhị thừa thì một
bề định, như vậy một bên chăm chăm để định, còn một bên buông nó chạy tứ
tung. Như vậy hai cái đó là hai cái lỗi của phàm phu và Nhị thừa. Bây giờ
chúng ta vượt ra khỏi hai cái đó thì mới gọi là Bồ-tát, gọi là đại tọa
thiền. Làm sao vượt ra khỏi hai cái đó? Vì lẽ đó mà tôi hay khuyên: chúng
ta mà biết chăn trâu chút chút, đừng có ngồi ngó lom lom nó, mà ngồi cũng
vỗ đùi, cũng nhổ cỏ, nhàn hạ vậy đó; rồi mình cũng đi tới đi lui, ngó mây,
ngó nước mà không dính mây, dính nước, cũng không có dính tất cả thì đó
mới là tốt. Đó mới là đại tọa thiền, chớ còn mình chăm chăm vào một cái
nào đó để cho yên rồi cứ lấy cái đó làm tiêu chuẩn hoài, chăm chăm mãi rồi
không khéo lạc vào Nhị thừa, vì chú vào một cảnh để cho nó định, cái định
này chúng ta nhớ đây là nói ngộ tánh. Ngộ tánh định tức là lấy cái định tự
tánh định, mà tự tánh định nó nhẹ lắm, nó không có cái chăm bẳm đè nó lặng
đâu. Cái chăm bẳm đè cho nó lặng thì thuộc định của Nhị thừa. Định của tự
tánh định này, nói, nín, đi, đứng, nằm, ngồi, mà biết cái đó không bao giờ
rời mình, không bao giờ quên nó. Nói tóm lại, không giây phút nào mình
thấy vắng mặt ông chủ của mình. Như vậy đó là đại định.
Cho nên sau
này có một Thiền sư ngồi một mình, một lát kêu: “Chủ nhân ông đâu?” Rồi
ông tự trả lời: “dạ!” rồi bảo: “Tỉnh, tỉnh nghe, đừng để bị lừa.” Rồi ông
tự “dạ”. Cứ một lát thì kêu như vậy. Người ngoài không hiểu ông nói cái
gì? Ông có điên chăng? Đó là một phương tiện để đừng bao giờ quên ông chủ.
Nếu quên ông chủ tức là chạy theo sáu trần. Còn mình biết ông chủ lúc nào
cũng có mặt cho nên ngài Đơn Hà gặp ngài Long Uẩn cứ hỏi: “Long công có
nhà không?” Đã có sờ sờ đó mà cứ hỏi: “Long công có nhà không?” Kêu nhau,
hỏi nhau là ý như vậy đó. Để biết rằng ông thường thường có làm chủ hay
không? Chủ nhà ông có vắng mặt lúc nào không? Chúng ta rất tiếc chủ nhà
không vắng mặt lúc nào, mà chúng ta lại bỏ quên. Vì vậy mà không biết ông
chủ nhà mình ở đâu. Đó là cái bệnh của chúng ta đó, chớ nếu biết ông chủ
nhà của mình không rời mình thì mình cứ sống với ông chủ cho vui. Cái này
mình không thấy, không sống được với ông chủ mà hoàn toàn là sống với lục
tặc. Vì vậy mà Phật mới nói: “Nhận giặc làm con.” Sống theo tam bành lục
tặc đó là nhận giặc làm con chớ gì!
Còn bây giờ nếu biết sống với ông chủ nhà,
đó là đại định. Cho nên đại định của người xưa, đi cày, đi cuốc, đi làm
chớ không phải đại định như mình ngồi lặng mới định. Đi cày, đi cuốc, đi
làm mà định, nghĩa là người ta không bao giờ thấy vắng mặt ông chủ thì đó
là đại định. Chúng ta ráng nhận được cái đó. Nhận được cái đó thì mới thấy
cái cao siêu của thiền này. Còn nếu không nhận được cái đó thì tu lâu sẽ
mắc kẹt trong thiền Nhị thừa, rồi cứ phải chăm chăm vào đó. Cho nên một vị
Thiền sư ngồi yên một chỗ thì bị một sư huynh hỏi: “Làm gì đó?” Ngài trả
lời: “Ngồi chơi.” Ngồi tức là có làm. Có kềm tức là có làm. Vì vậy cho nên
chỗ đó là chỗ lạ lắm, người ngoài không hiểu nổi. Tôi gọi là lạ lắm bị vì
nó nhẹ, nó phơn phớt hà. Biết nó thì không lúc nào thiếu nó, còn không
biết thì kiếm không ra. Dòm Đông, dòm Tây không thấy nó một tí nào hết. Mà
nếu biết rồi thì thấy nó hiện tiền trước mặt, không có lúc nào vắng mặt
nơi mình. Chính cái đó là cái lạ. Cho nên người mà biết sống với cái đó
thì ở ngoài không thấy người đó tu gì hết. Cũng đi, cũng tới, cũng qua,
cũng lại mà hằng không mất. Còn mình không biết thì chạy tìm kiếm, xông
xáo mà vẫn không thấy nó. Nên chỗ này là chỗ phải để tâm, phải biết nhìn
kỹ thì mới thấy.
Nếu khởi được
cái hội này thì tất cả tướng chẳng lìa mà tự hiểu, tất cả các bệnh chẳng
trị mà tự lành.
Nếu mà người nhận được như vậy thì đối với
tất cả tướng không cần lìa nó mà tự mình hiểu. Tự hiểu mình có ông chủ
hiện ra. Tất cả các bệnh tham, sân, si mình không cần trị nó mà nó vẫn
hết. Còn không hiểu vậy mà cố trị nó, nhiều khi nó lâu hết.
Đây là sức đại thiền định.
Phàm đem tâm cầu pháp ấy là mê.
Chẳng đem tâm cầu pháp ấy là ngộ.
Tại sao đem
tâm cầu pháp ấy là mê? Thường thường cầu pháp lấy cái gì mà cầu? Chữ pháp
này ráng hiểu, bởi vì chúng ta quen nói pháp là giáo lý của Phật. Cho nên
thường thường nói đi tới cầu pháp là cầu dạy một cách tu nào đó. Nhưng ở
đây chữ pháp này là chỉ cho bản tâm (pháp bản pháp vô pháp). Nếu dấy tâm
đi tìm pháp ấy thì không mê là gì? Vì pháp đó là tâm thể của mình, mà dấy
niệm lên để tìm nó thì đã chạy trong mê rồi, làm sao tìm được? Vì vậy cho
nên gọi là người mê.
Chẳng đem tâm
cầu pháp ấy là người ngộ. Nghĩa là ngay nơi đó mà lặng xuống thì thấy nó
chớ không có đi tìm ở đâu. Vì vậy cho nên không cần dấy niệm đi cầu thì
lúc đó tự thấy. Tự thấy tức là ngộ.
Chẳng mắc kẹt văn tự gọi là giải thoát.
Chẳng nhiễm sáu trần gọi là hộ pháp.
Người nào học
kinh mà không mắc kẹt vào văn tự thì người đó là người giải thoát. Còn
mình phần nhiều học kinh mắc kẹt vào văn tự, cho nên không được giải
thoát. Tôi nói một thí dụ nhỏ: như trong kinh Kim Cang mà chúng ta học tới
học lui, cứ nhớ độ chúng sanh, mà độ những người ngoài cho được vào Vô dư
Niết-bàn thì suốt đời không tu được. Như vậy gọi là mắc kẹt trên văn tự.
Còn nếu mình thấy rõ độ chúng sanh là độ tự tâm, tâm lặng xuống là Niết-
bàn thì như vậy là mình giải thoát. Ngay trong kinh nói mà mình nhận được
ý như vậy là mình giải thoát. Đó là chỗ thật là khó chớ không phải dễ.
Không nhiễm
sáu trần thì gọi là hộ pháp: Là mình luôn luôn đừng cho nhiễm sáu trần thì
lúc đó mình là hộ pháp. Bây giờ hộ pháp thì khác, người ta giảng kinh mà
mình lo ủng hộ là hộ pháp. Còn Ngài nói: không để cho tâm nhiễm sáu trần
đó là hộ pháp. Thành ra chữ pháp mà ở đây dùng và chúng ta hiện giờ dùng
nó khác nhau. Ở đây dùng chữ pháp là chỉ cho tâm thanh tịnh bất sanh bất
diệt, đó là pháp. Còn chúng ta dùng chữ pháp là chỉ cho giáo lý của đức
Phật. Thành ra hai nghĩa nó khác nhau. Vì vậy cho nên tâm mình không nhiễm
sáu trần là giữ cho tâm mình thanh tịnh. Như vậy tâm thanh tịnh là hộ
pháp.
Ra
khỏi sanh tử gọi là xuất gia.
Như vậy đó cho
nên trong nhà thiền lâu lâu hỏi: Thầy đi tu bao lâu rồi? Nói: tu năm năm,
mười năm. Hỏi: Thầy xuất gia chưa? Rồi mình không hiểu tại sao người ta đã
đi tu rồi mà hỏi xuất gia chưa là cái gì? Rồi mình nói ông đó hỏi ngớ
ngẩn! Mà không ngờ cái hỏi xuất gia này là hỏi: Thầy ra khỏi sanh tử chưa?
Xuất gia mà ra khỏi sanh tử đó mới thật là xuất gia. Còn bỏ nhà thế tục
vào nhà chùa thì đó mới gọi là xuất thế tục gia thôi. Chừng nào mà thật
tình ra khỏi sanh tử mới là xuất tam giới gia.
Làm sao biết hiện tại mình ra khỏi sanh
tử? Nếu không có giờ phút nào động tâm dấy niệm thì tự nhiên biết người đó
ra khỏi sanh tử. Đi, đứng, nằm, ngồi mà không còn động tâm dấy niệm nữa
thì biết mình ra khỏi sanh tử rồi. Đó mới thật là xuất gia. Nếu mà định
nghĩa xuất gia như thế này thì chúng ta kiểm lại coi mình xuất gia được
bao lâu rồi? Như vậy cảm thấy chúng ta chưa xuất gia! Tu rất lâu mà chưa
xuất gia! Cái nghĩa xuất gia trong nhà thiền nói là như vậy. Để sau này,
chúng ta gặp các Thiền sư hỏi: xuất gia chưa, thì đừng có lấy làm lạ. Xuất
gia là ra khỏi sanh tử.
Không thọ thân sau gọi là được đạo.
Người được đạo
là người không còn thọ thân sau nữa.
Chẳng sanh vọng tưởng gọi là Niết-bàn.
Không còn vọng tưởng nữa thì Niết-bàn chớ
không có đi đâu tìm Niết-bàn, không cần tìm kiếm Niết-bàn, không cần cầu
mong Niết-bàn, chỉ hết vọng tưởng là Niết- bàn. Như vậy chẳng sanh vọng
tưởng gọi là Niết-bàn.
Chẳng ở trong vô minh là đại trí tuệ.
Nếu không ở trong vô minh là đại trí tuệ.
Còn vô minh là gì? Vọng động là vô minh, vọng niệm là vô minh, mà không có
ở trong vọng niệm đó là đại trí tuệ.
Chỗ không có
phiền não thì gọi là vào Niết-bàn. Chỗ không có tướng thì gọi đó là đến bờ
kia. Khi mê thì có bờ này. Khi ngộ thì không còn bờ này. Vì cớ sao? Vì
phàm phu một bề trụ nơi đây. Nếu giác được Tối thượng thừa, tâm không còn
trụ nơi đây nữa, cũng không có trụ nơi kia. Cho nên hay lìa bờ bên này và
bờ bên kia.
Mình ngộ được cái Tối thượng thừa. Ngộ
được Tối thượng thừa là ngộ cái gì? Ngộ được Tối thượng thừa tức là ngộ
được bản tánh của mình. Khi ngộ được bản tánh của mình rồi thì cũng không
trụ bên này mà cũng không trụ bên kia. Nếu phàm phu thì trụ bên này, bên
này là bên mê! Mê là cái gì? Tức là vọng tưởng. Phàm phu thì trụ nơi vọng
tưởng, họ chấp nhận vọng tưởng gọi là trụ bên này. Còn mình biết rõ vọng
tưởng không thật, cho nên mình không theo nó thì đó gọi là đến bờ kia. Bên
kia cũng không có chỗ trụ nữa. Như vậy chỉ không theo vọng tưởng thì gọi
là đến bờ kia. Mà đến bờ kia cũng không có chỗ trụ. Như vậy cho nên hay
lìa đây và kia, bờ bên này và bờ bên kia. Ở đây có một đoạn ông Trúc Thiên
lược bớt, quí vị dò theo tôi giải thích thì sẽ thấy để bổ túc. Đoạn này nó
khó. Vì đây là chỉ thẳng bản tâm để cho chúng ta tỉnh ngộ.
Nếu thấy bờ
kia nó khác với bờ này thì tâm người này đã không có thiền định. Phiền não
gọi là chúng sanh. Ngộ giải gọi là Bồ-đề. Cũng không phải một, không phải
khác, chỉ cách nhau ở chỗ mê và ngộ mà thôi (Hỏi mê cái gì? Ngộ cái gì?).
Khi mê thì thấy có thế gian có thể ra. Khi ngộ thì không có thế gian có
thể ra.
Tại sao vậy? Mê thì có thế gian có thể ra,
mà ngộ thì không có thế gian có thể ra? Điều này chúng ta thấy có trái với
cái hiểu hiện tại hay không? Tỷ dụ như người phàm phu, họ có cái gì ra
khỏi thế gian không? Còn Nhị thừa có nghĩ ra khỏi thế gian hay không? Như
vậy Nhị thừa đối với phàm phu thì họ ngộ rồi chứ. Ngộ rồi mới có cái niệm
ra khỏi thế gian. Còn nếu mê thì cứ nằm trong thế gian đâu có nghĩ gì ra
thế gian. Nhưng mà ở đây tại sao nói rằng: khi mê thì thấy thế gian có thể
ra, còn ngộ thì không thế gian có thể ra? Như vậy để chứng tỏ Nhị thừa tuy
nói ngộ mà còn ở trong mê. Ở đây là nhắm thẳng vào Nhị thừa, Nhị thừa tuy
nói ngộ mà vẫn còn mê. Mê cái gì? Bởi vì Nhị thừa không thấy được bản
tánh, bởi không thấy được bản tánh cho nên tưởng lầm rằng: “Ngoài sanh tử
có Niết-bàn, ngoài thế gian có xuất thế gian.” Vì vậy cho nên còn thấy
ngoài cái này có cái kia. Còn nếu ngộ được bản tánh rồi thì thấy thế gian
chỉ là do mê mà hiện. Đã do mê mà hiện, nếu hết mê thì còn gì nữa? Thế
gian đâu còn nữa mà phải ra. Mình đã biết rằng cảnh và người ở trong mộng
là do mê mộng mà hiện. Biết như vậy thì còn có nghĩ gì ra khỏi cảnh mộng
không? Nếu còn nghĩ ra khỏi cảnh mộng thì tức nhiên cũng còn ở trong mộng
rồi. Còn nếu thật tình tỉnh giác thì biết cảnh mộng, và người trong mộng
đó không có cái gì đáng ra hết, chỉ một phen thức tỉnh là sẽ hết... Vì vậy
cho nên ở đây ngộ thì không có thế gian để mà ra vậy. Vì thế gian mình đã
biết cho nên mới nói: thế gian, hư không, thế giới, đều từ do mình mê cái
bản giác mà có. Bây giờ trở về bản giác thì hai cái đó nó còn gì nữa mà
phải nói chuyện ra. Nói chuyện ra tức là cũng còn nằm ở trong thế gian và
ra ngoài thế gian; như vậy là cũng chưa ngộ được bản giác. Những cái này
thật là khó hiểu! Mặc dù được dịch rồi mà chúng ta đọc cũng khó hiểu! Bởi
vì chúng ta phải nhận cho ra bản tánh thì mới hiểu được những câu này, còn
nếu không nhận được bản tánh thì đọc những câu này cảm thấy khó khăn lạ!
Như vậy để
biết rõ: Thế gian và xuất thế gian, hai pháp đều là bình đẳng.
Trong pháp
bình đẳng không thấy phàm phu khác với Thánh nhân.
Tại sao vậy? Vì nếu mình thấy được bản
tánh của mình, thì phàm phu cũng có bản tánh ấy mà Thánh nhân cũng có bản
tánh ấy, có gì khác nhau đâu? Sở dĩ mình thấy khác là tại mình thấy trong
mê và thấy trong ngộ, chớ còn thấy thẳng vào bản tánh thì nào có gì khác?
Kinh nói: Cái
pháp bình đẳng ấy phàm phu không thể vào, Thánh nhân (chỉ cho hàng Thanh
văn) không thể hành. Cái pháp bình đẳng chỉ là đại Bồ- tát cùng với chư
Phật Như Lai mới hành vậy.
Nếu thấy sanh
khác với tử, động khác với tịnh, đều gọi là bất bình đẳng.
Nếu người nào thấy sanh khác với tử, thấy
động khác với tịnh, đó là người thấy chưa có bình đẳng. Bây giờ nhớ lại
chúng ta, chúng ta thấy có bình đẳng chưa? Mình đều sống với cái bất bình
đẳng cho nên sanh với tử là hai đường.
Chẳng thấy
phiền não khác với Niết- bàn, ấy gọi là bình đẳng. Vì cớ sao? Phiền não
cùng với Niết-bàn đồng một tánh không.
Như vậy là
sao? Phiền não là không thì đành rồi, Niết-bàn cũng không nữa sao?
Niết-bàn phải không không? Không là danh từ Niết-bàn đối với danh từ phiền
não. Đối với phiền não mà lập Niết-bàn, chớ hết phiền não thì danh từ
Niết-bàn đâu còn dùng nữa. Vì vậy cho nên sống với cái thể ấy thì không
còn có tên. Vì vậy ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng là vậy. Chỗ đó
không có tên, nhưng vì chúng sanh mê lầm thì gọi là phiền não, Bồ-tát hết
mê lầm thì gọi là Bồ-đề hay là Niết-bàn. Như vậy thì khi biết phiền não
hết rồi thì tên Bồ-đề Niết-bàn cũng hết luôn. Vì vậy cả hai đều không.
Bởi do người
Tiểu thừa vọng đoạn phiền não, vọng nhập Niết-bàn là bị Niết-bàn nó làm
cho mình bị mắc kẹt. Bồ-tát biết tánh phiền não không, tức chẳng lìa cái
không cho nên thườøng ở trong Niết-bàn.
Như vậy chúng
ta thấy chỗ Nhị thừa mắc kẹt ở trong Niết-bàn không? Bởi vì Nhị thừa thấy
sanh tử là đau khổ, Niết-bàn là an tịnh cho nên dẹp hết cái nhân sanh tử
để vào Niết-bàn. Như vậy thấy nhân sanh tử là nhân đau khổ, mà vào
Niết-bàn là an tịnh, cho nên cố gắng đoạn nhân sanh tử để an trụ Niết-bàn.
Mà đã biết an trụ Niết-bàn là chỗ lạc, thì tránh khổ tọa lạc, được lạc tức
nhiên mắc kẹt ở chỗ đó đâu còn muốn đi đâu nữa. Vì vậy cho nên bị Niết-bàn
nó làm cho mắc kẹt. Còn Bồ-tát thì các ngài thấy sanh tử, phiền não nó là
không. Biết phiền não tánh nó là không, nên chẳng lìa cái tánh không đó mà
thường ở trong Niết-bàn. Như vậy đối với các ngài, Niết-bàn không làm mắc
kẹt. Như hôm qua tôi nói: chính ngay trong sanh tử mà mình thấy vô sanh.
Nếu ngay trong sanh tử mình thấy vô sanh rồi thì chính trong sanh tử này
là Niết-bàn. Vì vậy mà Bồ-tát đương nhiên ngay trong nhân gian, không có
cầu nhập Niết-bàn. Còn Thanh văn thì kiếm chỗ thanh tịnh để nhập Niết-bàn,
hai cái quan niệm khác nhau ở chỗ đó. Nếu tìm chỗ an tịnh Niết-bàn đó thì
tức nhiên mắc kẹt Niết-bàn rồi! Còn cái này đương nhiên trong nhân gian mà
thường ở Niết-bàn. Như vậy Niết-bàn đó không có mắc kẹt. Tại sao dám đi
trong nhân gian? Là vì thấy tất cả phiền não là “không”, không thật, mà
không thật thì tức nhiên sanh là vô sanh, mà vô sanh tức là Niết-bàn. Như
vậy ở đâu không phải Niết-bàn? Cần gì phải trụ ở một chỗ? Do đó mà các
ngài không nhập Niết-bàn, hằng lợi ích cho chúng sanh mà không cầu nhập
Niết-bàn.
* |