CỬA THỨ SÁU: HUYẾT MẠCH LUẬN
Huyết mạch
luận tức là bàn về “huyết mạch”. Trong huyết mạch này là chỉ thẳng cho
chúng ta thấy cái thiết yếu của người tu, sau khi ngộ tánh thì tu cái đó
mới được kết quả như sở nguyện. Còn nếu không ngộ tánh mà tu, thì kết quả
khó mà được như sở nguyện.
Ba cõi cùng
khởi đồng trở về một tâm. Phật trước Phật sau lấy tâm truyền tâm, không
lập văn tự.
Tam giới cùng
khởi đồng từ nhất tâm. Đức Phật trước, đức Phật sau đều lấy tâm mà truyền
tâm, không có lập văn tự. Như vậy chư Phật truyền nhau là truyền tâm. Chư
Phật thành Phật là thành ở tâm chớ không có gì ngoài nữa hết.
Hỏi: Nếu không
lập văn tự thì lấy gì làm tâm?
Đáp: Ông hỏi
ta tức là tâm của ông. Ta đáp ông tức là tâm của ta. Ta nếu không tâm,
nhân đâu mà hiểu để đáp lời ông?
Ông nếu không tâm, nhân đâu mà hiểu để hỏi
ta?
Hỏi ta tức là
tâm ông.
Từ vô thỉ
nhiều kiếp đến giờ, cho đến thi vi vận động trong tất cả thời, tất cả chỗ
đều là cái bản tâm của ông, đều là cái bản Phật của ông.
Đoạn này chúng
ta thấy, nếu chúng ta muốn đi tìm tâm thì hỏi tâm ở đâu? Đây đặt câu hỏi:
Nếu không lập văn tự thì lấy gì làm tâm? Ngài đáp: Cái ông hỏi ta, cái đó
tức là tâm rồi. Tại sao cái hỏi tức là tâm? Cái mà ta đáp ông cũng là tâm
rồi. Như vậy đúng chưa? Như vậy hỏi, nói chuyện... đều là tâm phải vậy
không? Chỗ đó phải cẩn thận, phải dè dặt đó. Thật tình chỗ đó chỉ khéo một
chút là trúng mà xê một chút là trật, coi như là rất dễ mà cũng rất là
khó. Chính chỗ đó mà ngày xưa các vị Tổ đã từng dạy nhau, như ngài Huệ Hải
mà chúng ta học vừa rồi, Ngài tới Mã Tổ Ngài cũng hỏi về Phật pháp.
Mã Tổ nói: Ta
không có pháp dạy người mà hỏi cái gì? Mỗi người tự có kho báu dẫy đầy
không chịu trở về tìm rồi đi hỏi chi?
- Cái gì là
kho báu của Huệ Hải?
- Cái ông hỏi
ta đó.
Thì ngài Huệ
Hải nhận ra liền. Từ đó về sau Ngài không thiếu thốn nữa. Tại sao chúng ta
lại thiếu thốn? Như vậy để thấy rằng rời cái hỏi, cái nói, vận động thi vi
ra, chúng ta có tâm không? Không. Nói có là trật rồi! Rời cái vận động,
thi vi, nói năng ra, chúng ta nào có tâm khác. Nhưng mà ngay cái nói năng
vận động, thi vi đó, nếu chúng ta không khéo nhận thì chúng ta cũng bị lầm
với vọng tưởng. Khởi nói là vọng tưởng, khởi làm là vọng tưởng, nhưng mà
chúng ta khéo thì chúng ta thấy nó. Nó mới lạ chỗ đó! Cho nên ở đây là Tổ
muốn chỉ thẳng ngay nơi nói, ngay nơi hành động có cái đó chớ không phải
không. Nếu không có cái đó lấy gì để làm cơ sở dấy niệm? Cũng như tôi ví
dụ hôm trước, nếu không có nước ở trong biển thì lấy gì làm dậy sóng.
Nhưng mà nếu chúng ta cho rằng mỗi lượn sóng là mặt biển bằng phẳng thì
trúng hay trật? Rồi chúng ta bỏ tất cả những lượn sóng đó để tìm mặt biển
bằng phẳng trúng hay trật? Cũng trật luôn nữa. Như vậy cho nên chỗ đó tôi
nói khó mà dễ, dễ mà khó. Không bao giờ nó vắng mặt mà không khéo thì nhận
lầm. Cho nên có nhiều khi mình nói: cái nói ra là tâm mình bị các ngài quở
thôi là quở. Còn có khi các ngài nói: cái nói năng, động tịnh, đâu có rời
cái nói năng động tịnh. Thành ra mình không biết đường đâu mà mò hết.
Chỗ đó là chỗ
rối rắm, có khi bị rầy, có khi lại chỉ cái đó. Rồi làm sao hiểu? Mà được
cái đó là chỉ có người khéo dùng, khéo nhận. Khéo nhận ra thì thấy, còn
không khéo thì không thấy. Vì cái đó, tỷ dụ mình đi, mình nói. Đi, nói,
mình biết cái đi, cái nói đó đâu rời tâm. Tâm không vắng mặt lúc nào hết,
nhưng mà dấy lên là niệm chớ không phải tâm. Như vậy đừng theo cái niệm đó
thì tâm hằng không thiếu. Còn nếu mình theo cái niệm đó thì tức nhiên mất
tâm. Không phải cái niệm nó rời tâm, nhưng mà theo niệm thì mất tâm. Cũng
như mình chấp nhận những lượn sóng là mặt biển thì mất mặt biển, không bao
giờ mình biết mặt biển hết. Còn mình biết rằng bao nhiêu lượn sóng đó đều
nằm trên mặt biển thì trúng. Như vậy đó là chỗ khéo của mỗi người. Vì vậy
mà ở đây Ngài nói: “Ngay nơi ông hỏi ta đó là tâm rồi. Rồi ta đáp lại cũng
là tâm rồi.”
Vì vậy cho nên
Ngài nói rằng: Từ vô thỉ nhiều kiếp tới giờ, cho đến những thi vi, vận
động trong tất cả thời, tất cả chỗ, đều là bản tâm của ông, đều là bản
Phật của ông, đâu có vắng mặt lúc nào. Cho nên tôi nói rằng: không có vắng
mặt lúc nào hết mà tại vì mình bỏ quên chớ đâu có vắng mặt, nên nhận ra
cái đó thì chúng ta sẽ cười hoài cả ngày vì thấy ông Phật của mình. Còn
không nhận ra cái đó thì mình thấy sao mà phiền não không, sáng cũng phiền
não, trưa cũng phiền não, chiều cũng phiền não. Ngay nơi đó chớ không xa,
cho nên người nào mặt hơi nhăn thì biết chưa thấy ông Phật của mình đâu.
Chưa thấy cho nên buồn bực tức tối, chớ nếu thấy ông Phật của mình rồi,
Phật ngồi đó chớ đâu mà buồn, mà bực. Còn có buồn bực tức là chưa thấy ông
Phật của mình, thấy toàn là phiền não, cho nên buồn bực không xa. Cho nên
thường nói rằng: chúng sanh với Phật cũng như trở bàn tay vậy, úp và mở.
Nó không có xa, mà không khéo thì kiếm suốt đời không thấy, suốt đời tìm
cũng không ra nữa, mà khéo thì lúc nào cũng không vắng mặt hết.
Như vậy Phật không dám khi mình là phải.
Thấy rõ ràng có ông Phật không vắng mặt lúc nào hết, nhưng tại vì mình
không thấy thành ra mình cứ lạy Phật cầu chỉ cho mình hoài. Như vậy là
mình tự khi chớ Phật không dám khi, thấy không? Mình lạy Phật để cầu Phật
chỉ cho mình, đó là mình tự khi mình chớ không phải Phật dám khi mình đâu.
Cho nên tôi nói: ngài Thường Bất Khinh là một hình ảnh đẹp nhất. Ai dám
khi mình, tại vì mình không nhận ra cái đó thì mình tự khi mình, rồi mình
lang thang kêu cứu.
Tức tâm là
Phật cũng lại như thế (chính tâm là Phật cũng lại như vậy). Trừ ngoài cái
tâm này trọn không có ông Phật nào khác có thể được. Lìa ngoài cái tâm này
tìm Bồ-đề Niết-bàn trọn
không có lẽ phải. Tự tánh chân thật chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Pháp
tức là cái nghĩa của tâm. Tự tâm là Bồ-đề. Tự tâm là Niết-bàn. Nếu nói
ngoài tâm có Phật và Bồ-đề có thể được, đó là không có lẽ phải. Phật và
Bồ-đề đều ở chỗ nào? Thí như có người lấy tay nắm bắt hư không được chăng?
Hư không chỉ có tên cũng không có tướng mạo tức nắm cũng không được mà
buông cũng không được.
Hư không mình
nắm được không? Mà buông hư không ra được không? Nó như vậy, nó không có
tướng mạo thì cần gì nắm, cần gì buông? Nắm không được mà buông cũng không
được.
Trừ ngoài cái
tâm này mà tìm Phật trọn cũng không thể nào được. Phật là tự tâm mà tạo
được. Nhân nơi cái gì, lìa cái tâm này để tìm Phật ở bên ngoài? (Nhân đâu,
lìa tâm này để tìm Phật ở bên ngoài?)
Phật trước,
Phật sau chỉ nói cái tâm kia. Tâm tức là Phật, Phật tức tâm. Ngoài tâm
không Phật, ngoài Phật không tâm.
Mấy câu này
Ngài nhấn mạnh cho chúng ta nhớ: ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không
tâm, đừng có tìm Phật ở đâu.
Nếu nói ngoài
tâm có Phật thì Phật ở chỗ nào? (Nói ngoài tâm có Phật thử chỉ giùm ông
Phật coi?) Nếu nói ngoài tâm đã không Phật thì làm sao khởi thấy Phật? Như
vậy đó là đắp đổi để mà cuồng hoặc lẫn nhau không thể nào rõ được bản tâm
(nếu nói ngoài tâm có Phật thì hỏi chớ khởi cái gì để mà thấy Phật? Nếu
nói ngoài tâm có Phật, đó là lường gạt lẫn nhau để mà cuồng hoặc), bị
những vật vô tình khác nó nhiếp phục không có phần tự do.
Nếu mà chúng
ta nói ngoài tâm có Phật, ông Phật ở bên ngoài mình, thì như vậy bị những
vật vô tình nhiếp phục, mình không còn tự do nữa.
Nếu lại chẳng
tin, tự cuồng, tự dối, tự vô ích. Phật không có lỗi lầm. Chúng sanh tự
điên đảo, không có biết tự tâm là Phật. Nếu biết tự tâm là Phật thì không
nên ngoài tâm mà tìm Phật. Phật không có độ Phật. Đem tâm mà tìm Phật, mà
không biết mình có Phật thật, chỉ là tìm Phật ở bên ngoài thì trọn là
không biết tự tâm là Phật.
Cũng không có
được đem Phật mà lễ Phật.
Chẳng được đem tâm mà niệm Phật.
Phật chẳng tụng kinh.
Phật chẳng trì giới.
Phật chẳng phạm giới.
Phật không có
trì, phạm cũng không có tạo nghiệp ác. Nếu muốn tìm Phật thì phải thấy cái
tánh của mình. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì niệm Phật, tụng
kinh, trì trai, giữ giới, đều vô ích cả.
Đây Ngài nói
quả quyết là phải thấy được Phật của mình, Phật đó mới là Phật thật, Phật
đó tức là tâm, còn nếu mà không thấy được Phật của mình, thì dù làm gì đối
với chỗ đốn giác ngộ cũng đều chỉ là việc làm suông thôi. Nếu làm như vậy
thì chỉ có gieo phước hữu lậu ở đời sau thôi chớ không thể nào thành Phật,
đó gọi là vô ích. Vô ích đây có nghĩa là không đem đến chỗ thành Phật, như
vậy để thấy rằng chính tâm mình là Phật, nhưng phải hiểu tâm mình là Phật
là thế nào? Chớ còn nhiều người bây giờ vỗ ngực: Phật ở trong tâm chớ đâu.
Nói Phật ở trong tâm mà không biết trong tâm là chỗ nào? Cứ nghe người ta
đi chùa nghe kinh: Ôi! Phật ở trong tâm mà không chịu tìm, đi đây, đi kia
chi? Nói nghe cũng hay thật. Nhưng hỏi trong tâm Phật ở chỗ nào, thì chừng
đó cũng bí không biết chỗ nào, không biết cái gì là Phật. Chớ thật tình:
Phật là tự tâm, nhưng mà tâm đó là chỉ cho cái tâm thể thanh tịnh, cái tâm
đó là Phật thì bao nhiêu cái vọng niệm thi vi, nghĩ tưởng đều không rời
tâm thể, phải vậy không? Vì vậy cho nên nói tất cả đều từ tâm mà ra.
Như vậy, chúng ta muốn trở về ông Phật của
chúng ta thì bao nhiêu cái vọng niệm lặng xuống tức là Phật. Ngay nơi đó
mà thấy Phật, ngay nơi đó mà tìm Phật chớ đừng tìm đâu xa. Nếu đi xa thì
tức nhiên chúng ta lầm. Nếu ngoài mình có Phật thì Phật đó của người ta
chớ không phải Phật của mình. Phật của mình thì không có ở ngoài mình. Như
vậy, Phật của mình tức là Phật của tâm thể thanh tịnh, mà tâm thể thanh
tịnh thì Phật đó có tụng kinh, có trì chú, có giữ giới, có trì trai gì
đâu? Vì vậy cho nên nói Phật đó không có trì trai, giữ giới... gì hết. Rồi
những câu này, những người dốt nghe vậy rồi chấp. Nói rằng Phật nói: Phật
không có tụng kinh, không có trì giới... Bây giờ mấy ông bắt đầu tụng
kinh, trì giới mấy cái đó là tào lao. Đó là chúng ta hiểu lầm, chớ còn ông
Phật này là tâm thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì đâu có tụng kinh, đâu có
trì trai, đâu có giữ giới. Còn nếu cái thân ô uế của mình mà không trì
trai, không giữ giới... thì nó phạm đủ thứ hết. Nên hiểu cho rõ cái ý đó
cho khỏi lầm.
Cho nên ở đây Ngài mới nói lại:
Niệm Phật thì được nhân quả.
Tụng kinh thì được thông minh. (Được chớ sao không được.)
Trì giới thì được sanh cõi trời.
Bố
thí thì được phước báo.
Nhưng mà tìm Phật thì trọn không thể được.
Lấy những cái
đó mà tìm Phật thì trọn không thể được. Làm những cái đó nó có lợi ích rõ
ràng, mà nói làm cái đó để tìm Phật thì thôi, chưa được đâu.
Nếu tự mình
không có minh liễu, phải tham cầu Thiện tri thức để rõ cội gốc sanh tử.
Nếu không thấy tánh tức không gọi Thiện tri thức. Nếu không như đây, dù
nói được mười hai bộ kinh cũng chẳng khỏi sanh tử, luân hồi tam giới chịu
khổ không có ngày ra khỏi.
Xưa có Tỳ-kheo
Thiện Tinh tụng được mười hai bộ kinh vẫn tự không khỏi luân hồi vì không
thấy tánh. Thiện Tinh đã như thế, người thời nay giảng được năm, ba bản
kinh luận cho là Phật pháp, sẽ như vậy.
Nếu không biết
được tự tâm, tụng được bao nhiêu văn thơ trọn đều không có chỗ dùng. Nên
cốt yếu phải thấy Phật, phải thấy tánh. Tánh tức là Phật. Phật tức là tự
tại, là người vô sự, vô tác. Nếu chẳng thấy tánh, thì trọn ngày mờ mịt, ở
bên ngoài mà tìm kiếm Phật, xưa nay không thể đặng. Tuy không một vật có
thể được.
Nếu cầu để
được hội thì cần phải tham cứu nơi Thiện tri thức, thiết yếu phải khổ nhọc
mà cầu khiến cho tâm mình được hội giải việc lớn sanh tử, không được bỏ
qua một đời tự dối và cũng vô ích.
Dù có bao
nhiêu trân bảo nhiều như núi, quyến thuộc đông như cát sông Hằng, mở mắt
ra thì thấy, nhắm mắt lại nào có thấy gì?
Ngài chỉ cho
chúng ta biết chỗ thiết yếu. Nghĩa là nếu chúng ta không nhận ra được Phật
tánh, hay bản tánh của mình, thì phải ráng tìm cầu Thiện tri thức. Nếu
không nhận ra được bản tánh của mình mà cố gắng dạy người, đem kinh luận
dạy thì dạy, chớ không thể nào ra khỏi luân hồi. Quan trọng nhất là phải
thấy được bản tánh, nhận được bản tánh rồi thì đó là trên hết. Muốn nhận
được bản tánh tức là “Kiến tánh” thì phải từ nơi sáu căn mà nhận. Ngài nói
rằng: nếu mình chưa giải quyết được vấn đề sanh tử thì phải thiết tha đi
cầu học, học để biết được đó, đừng để cho một đời trôi qua mà không biết
rõ manh mối của sanh tử. Nói rằng giả sử như người giàu, có của báu nhiều
như núi, bà con đông như cát sông Hằng nhưng lúc mở mắt còn thấy đó, nhắm
mắt lại còn thấy nó nữa không? Như vậy nó có, khi còn mở mắt, khi nhắm lại
thì nó không còn có nữa. Như vậy nó có thật gì đâu mà mình ham?
Cho nên biết
tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn (không có gì thật hết mà người đời say
mê trong những pháp hữu vi ấy). Nếu chẳng gấp tìm thầy học đạo thì như vậy
để bỏ trôi suông một đời vô ích.
Phật tánh vốn
tự có, nếu chẳng nhân nơi thầy thì trọn không thể nào minh liễu. Người
chẳng nhân nơi thầy mà ngộ thì trong muôn người ít có được một.
Nếu tự mình do
cái duyên mà tự mình hội ngộ (do cái nhân duyên hội hiệp mà nhận được) ý
của Phật, ý của Thánh, tức là chẳng cần tham học nơi Thiện tri thức. Đây
tức là người sanh nhi tri chi (bậc thánh học sanh nhi tri chi).
Nếu chưa ngộ
giải thì phải siêng năng khổ nhọc để mà tham học, nhân lời dạy mới được
ngộ.
Nếu tự mình
minh liễu, không học cũng được, chẳng đồng với người mê không thể phân
biệt được trắng đen mà dối nói lên cái yếu chỉ của Phật dạy, đó là chê bai
Phật và nói dối pháp. Những loại như vậy nói pháp như mưa mà trọn là ma
nói tức không phải Phật nói. Thầy là ma vương, đệ tử là ma dân, làm mê
người mặc tình kẻ khác chỉ huy bất giác rơi vào biển sanh tử. Chỉ do người
thấy tánh mà dối xưng là Phật. Những chúng sanh ấy là kẻ đại tội nhân, dối
gạt tất cả chúng sanh khiến vào trong cảnh giới ma.
Như chúng ta
thấy đây là Ngài chỉ những lầm lỗi lớn của người hướng dẫn. Nếu người đó
không có tự rõ ràng, không có thấy được trắng đen rành rẽ mà dối nói rằng:
đây là tôi nói lời Phật dạy... đó là chê bai Phật, hủy báng pháp. Những
người đó dầu cho họ nói pháp như mưa đi nữa cũng là ma nói. Thiếu gì người
nói thao thao bất tuyệt; nói như mây, như mưa mà rốt cuộc rồi nói đâu đâu
không có trúng với chỗ Phật dạy, nói toàn là những cái bên ngoài, nói theo
lối khôn ngoan xảo trá của thế gian. Như vậy nếu thầy là vua ma, thì đệ tử
là dân ma. Như vậy là đi tới chỗ bị kẻ khác chỉ huy mình rồi bất giác thầy
trò đều rơi trong biển sanh tử. Vì vậy cho nên người mà không thấy tánh mà
dối xưng là Phật, thì những người ấy đều là những chúng sanh đại tội dối
người, dối tất cả chúng sanh để dẫn người ta đi trong cõi ma.
Nếu chẳng thấy
tánh mà nói được mười hai bộ kinh, trọn là ma nói nhà ma và quyến thuộc
của ma, không phải là nhà Phật và đệ tử của Phật. Đã chẳng biện bạch được
trắng và đen thì nương vào đâu mà khỏi được sanh tử?
Nếu người thấy
tánh tức là Phật. Chẳng thấy tánh tức là chúng sanh. Nếu lìa tánh chúng
sanh riêng có Phật tánh thì không thể được. Phật hiện nay ở chỗ nào? Tánh
chúng sanh tức là Phật vậy. Ngoài tánh không có Phật. Phật tức là tánh.
Trừ ngoài cái tánh này không còn Phật có thể được. Ngoài Phật không tánh
có thể được vậy.
Như vậy Phật
đây là chỉ cho Phật tánh, hay là tánh đó là chỉ cho Phật, là cũng chỉ cho
Phật tánh của chính mình. Như vậy thấy tánh tức là thấy Phật của chính
mình. Mà thấy tánh rồi thì mình nói kinh mới hợp với ý Phật, bằng không
thấy mà nói thì nói một hồi nó đi xa, càng nói càng xa ý Phật chớ không có
hội ý Phật. Vì vậy cho nên ở đây Tổ dạy chúng ta phải ráng nhận ra được
bản tánh thì cái tu, cái dạy người mới không lầm lẫn.
Hỏi: Nếu chẳng
thấy tánh, niệm Phật, tụng kinh, bố thí, trì giới, tinh tấn, rộng làm
những điều phước lợi, được thành Phật chăng?
Đáp: Chẳng
được.
Nếu chẳng thấy
tánh làm tất cả điều đó không thành Phật được.
Hỏi: Nhân sao
chẳng được?
Đáp: Có một ít
pháp có thể được, ấy là pháp hữu vi, là nhân quả, là thọ báo, là pháp luân
hồi chẳng khỏi sanh tử thì khi nào mà thành được Phật đạo?
Nói như vậy mình tu không có được một tí
gì hết sao? Bởi vì nếu mình thấy có một ít pháp có thể được, tức là ngay
nơi đó mình đã thấy ngoài tâm có pháp, như vậy có cái năng đắc và cái sở
đắc thì làm sao trở về cái tâm thanh tịnh bản nhiên. Vì tâm thanh tịnh bản
nhiên nó không còn có năng có sở, nó không còn có một cái gì ngoài nó, mà
nếu có một cái ngoài nó thì tức nhiên chưa trở về được cái tâm đó rồi, mà
trở về cái tâm đó gọi là thành Phật đạo. Vì vậy cho nên nói còn một chút
pháp có thể được là không được thành Phật đạo.
Thành Phật
phải là thấy tánh. Nếu chẳng thấy tánh thì nhân quả... nói là pháp ngoại
đạo (tức là nếu mình chẳng thấy tánh mà nói nhân quả... ấy là pháp của
ngoại đạo).
Nếu là Phật
thì không tập theo pháp ngoại đạo. Phật là người không có nghiệp, không
nhân quả, chỉ có một ít pháp có thể được trọn là phỉ báng Phật thì nương
vào đâu được thành?
Đây Ngài chỉ rõ nếu chúng ta không thấy
tánh mà nói nhân quả... thì đó cũng thuộc về ngoại đạo. Tại sao pháp nhân
quả là pháp của Phật giáo mà nói thuộc ngoại đạo? Bởi vì nếu chúng ta
không nhận ra được bản tánh của mình thì nói nhân, nói quả là nói cái pháp
bên ngoài, mà pháp bên ngoài tức nhiên nó không phải chỉ thẳng tâm tánh
của mình, thì tức nhiên chấp ngoài tâm có pháp. Ngoài tâm có pháp không
phải ngoại đạo là gì? Vì vậy cho nên nói đó là ngoại đạo. Còn nếu nói là
Phật thì không tập theo pháp ngoại đạo. Phật là gì? Là người không còn
nghiệp, không còn nghiệp đâu còn bị trong nhân quả. Nếu còn bị nhân quả
chi phối thì tức là còn nghiệp, mà Phật đã hết nghiệp rồi. Như vậy để
chúng ta thấy Phật ở đây là chỉ cho pháp thân thanh tịnh. Pháp thân thanh
tịnh nếu còn nghiệp thì làm sao hiển lộ trọn vẹn, mà nếu hiển lộ trọn vẹn
thì đâu còn có nghiệp? Cho nên nói vừa có một ít pháp có thể được đó là
chê bai Phật, trọn là chê bai Phật thì làm sao mà được thành Phật?
Chỉ có trụ
trước một tâm, một năng, một giải, một kiến (nếu còn thấy có chỗ được tức
là còn trụ trước nơi một tâm, một khả năng, hiểu biết, một cái thấy). Phật
trọn không chấp nhận.
Phật không có
trì phạm. Tâm tánh vốn không, cũng chẳng có cấu tịnh. Các pháp không tu,
không chứng, không nhân, không quả.
Tại sao Phật
không có trì phạm? Bởi vì đứng về Phật thanh tịnh pháp thân thì đâu có
hình tướng mà giữ giới, mà phạm giới, mà có trì có phạm? Bởi vì đứng về
tâm tánh ấy thì nó là không có hình tướng cho nên nói nó vốn “không”. Mà
đã không hình tướng lấy gì có nhơ có sạch? Mà nó đã là tâm thanh tịnh sẵn
có từ thuở nào đến giờ. Vì vậy cho nên nói tu, nói chứng, nói nhân, nói
quả với tâm tánh ấy không thành. Bởi vì tu, chứng, nhân, quả đều ở trên
hành động hữu vi, mà tâm tánh ấy xưa nay là thanh tịnh thì làm sao còn có
cái hữu vi đó mà nói có tu, có chứng...
Phật không trì giới.
Phật không tu thiện.
Phật không tạo ác.
Phật không tinh tấn.
Phật không giải đãi.
Phật là người vô tác.
Như vậy Phật
là chỉ cho cái tâm bất sanh bất diệt, không lay động. Thanh tịnh bản
nhiên, không động nên gọi đó là vô tác. Cái tâm ấy vẫn là thanh tịnh cho
nên không có tạo tác, không có làm thiện, không có lười biếng, không có
giải đãi gì hết.
Chỉ có trụ trước tâm mà thấy Phật tức là
không thể được.
Phật chẳng
phải Phật. Chớ có khởi cái hiểu Phật. Nếu không thấy cái nghĩa này trong
tất cả thời, tất cả chỗ, đều là chẳng hiểu được bản tâm.
Tại sao Phật
chẳng phải Phật? Nếu chúng ta nghĩ đây là Phật, kia là không phải Phật,
thì vừa dấy cái nghĩ đó thì phải Phật nữa hay không? Nên Phật ở đây không
có cho mình dấy niệm. Mà không có dấy niệm làm sao có Phật phải hay Phật
không phải? Nghĩa là cái thanh tịnh đó là Phật rồi, chớ không có nói phải
Phật, không phải Phật. Nếu mình vừa dấy cái niệm khởi nghĩ về Phật thì đó
là đã trái với Phật rồi. Cho nên nói rằng: chớ khởi hiểu Phật. Dấy niệm
nghĩ đây là Phật thì đã là trái với Phật rồi. Nếu người nào không biết có
cái nghĩa này thì trong tất cả thời, tất cả chỗ, đều không rõ được bản
tâm. Như vậy bản tâm là chỗ không cho mình dấy niệm, vừa dấy niệm hiểu thế
này, hiểu thế kia, là đã mất bản tâm rồi. Mà mất bản tâm tức là mất Phật
chớ gì? Vì vậy cho nên nói rằng Phật không phải Phật.
Nếu chẳng thấy
tánh thì trong tất cả thời nghĩ tạo cái tưởng vô tác ấy là người đại tội,
ấy là người si, rơi vào cái không vô ký, mờ mờ, mịt mịt như người say
chẳng biện rõ tốt xấu.
Nếu nghĩ tu
cái pháp vô tác thì trước phải thấy tánh, nhiên hậu mới dứt cái duyên lự.
Nếu chẳng thấy tánh mà được thành Phật đạo thì không có lẽ phải vậy.
Ở đây Ngài chỉ
cho chúng ta thấy rõ, nếu mà không thấy tánh tức là không thấy được bản
tánh mình, ở trong tất cả thời nghĩ tạo ra cái tưởng vô tác (tức là cái
tưởng không có làm, không có dấy động. Cũng như bao nhiêu người không thấy
tánh mà nghĩ rằng mình dứt hết, không còn cái gì hết, không ngơ), thì nghĩ
như vậy là đại tội nhân đó, ấy là người si, như vậy sẽ rơi vào cái không
vô ký. Cho nên chỗ này Lục Tổ thường quở cái không vô ký. Bởi vì không
nhận ra mình có bản tánh thanh tịnh như vậy, rồi bây giờ bỏ hết tâm tưởng
của mình thì như vậy sẽ thành cái gì? Đó thì tức nhiên mờ mờ, mịt mịt
không hiểu. Còn nếu mình nhận được bản tánh mình rồi thì hết vọng tưởng là
bản tánh mình biết. Còn không nhận ra bản tánh, thì khi đó cứ nghe người
ta biểu bỏ vọng tưởng cứ bắt chước bỏ, bỏ rồi không biết nó thành cái gì?
Như vậy là người đại tội, đó là kẻ ngu si. Như vậy mờ mờ mịt mịt như người
say, không có biện rõ cái nào tốt, cái nào xấu.
Cho nên chỗ đó
mà tôi nói hoài, nghĩa là xê một chút là mình trật, còn nếu mà khéo thì
trúng liền. Nên người không nhận ra được bản tánh mình thì cố tu, tu một
lúc rồi không biết thành cái gì? Như bây giờ tôi nói: Chúng tôi là một nạn
nhân, thuở xưa cũng tập ngồi thiền, ngồi thiền mà không bao giờ biết mình
có định. Cứ mơ ước, bị mình quan niệm quen rồi. Cứ nói định là lúc đó quên
hết không biết gì hết, tiếng động hay là cái gì cũng không nghe. Cho nên
cứ ngồi hoài rồi sao không thấy? Có khi nó cũng yên yên mà đâu có tin nó
là định. Cứ chờ khi nào quên hết bên ngoài, chờ hoài không có thì đâm ra
thối chuyển, thấy chán quá. Tu như vậy có kết quả gì đâu? Đó là tại vì
mình chưa biết. Mình cứ nghĩ rằng định là khi đó mình quên hết: tai, người
ta nói mình cũng không nghe; mắt, người ta đi trước mình cũng không thấy
mới định. Còn nếu tai còn nghe, mắt còn thấy thì lúc đó không phải định.
Tu hoài, cảm thấy như không bao giờ có định. Nhưng bây giờ mình biết rồi
nó không phải như vậy nữa. Không có động tức là định rồi. Cái chuyện hết
sức là đơn giản, mà khi không biết thì mình lại đi tìm kiếm hoài, mà tìm
không ra.
Bây giờ có một
số người họ không nhận ra bản tánh là gì hết, nghe rằng người ta dạy trụ
tâm chỗ này, trụ tâm chỗ kia, rồi trụ tâm để nó ngưng cái tinh thần lại,
khi ngưng lại rồi nó phát ra tướng lạ, chừng đó không biết tưởng đâu đắc
đạo, hay là khi trụ tâm lại rồi trụ yên riết rồi không biết nó đi tới cái
gì, rồi hoảng hốt. Đó là tại vì không nhận ra được bản tánh mà đi tới
những bệnh như vậy. Còn nếu mình nhận ra bản tánh rồi thì nó yên, mình
biết nó là cái gì rồi, có gì nữa mà lo sợ, cho nên không sợ lạc trong cái
không.
Nếu mà nghĩ tu
về pháp vô tác (tức là vô vi), thì trước phải thấy bản tánh rồi sau mới
dứt duyên lự. Cho nên ở đây Thiền tông chủ trương thấy tánh rồi mới khởi
tu là vậy đó. Trước thấy bản tánh rồi sau mới dứt duyên lự (tức là dứt
vọng tâm). Nếu không thấy tánh mà được thành Phật, không bao giờ có chuyện
đó. Khi thành Phật tức là trở lại bản tánh mình, mà không biết cái đó làm
sao trở lại? Như vậy cho nên cái thấy tánh là cái tối quan trọng đối với
người tu Thiền.
Có người bác
không nhân quả, tự nhiên làm việc ác rồi dối nói rằng vốn là không, làm ác
không có lỗi, những người như thế đọa vào địa ngục vô gián hắc ám hằng
không có ngày ra.
Những người
bác không có nhân quả rồi mặc tình tạo ác, tạo ác đã rồi nói không có tội
phước gì hết. Những người như thế là họ phải rơi vào địa ngục vô gián tối
tăm, không biết có ngày nào ra khỏi.
Nếu là người trí không nên khởi cái hiểu,
thấy biết như thế.
Hỏi: Đã nói
thi vi vận động trong tất cả thời đều là bản tâm. Khi cái sắc thân vô
thường tại sao mà chẳng thấy bản tâm?
Đáp: Bản tâm
thường hiện tiền, ông tự chẳng thấy.
Ở đây là nghi,
hỏi rằng: nói rằng trong tất cả những hành vi của mình lúc nào cũng có bản
tâm hiện tiền, như vậy thì tại sao lúc mình chết tức là thân này rã, mình
không thấy nó? Bây giờ còn thân này thì nó nương cái thân này, rồi bây giờ
thân này rã thì tự nhiên phải thấy nó chứ? Tại sao không thấy? Ngài đáp:
bản tâm thường hiện tiền, tại ông chẳng thấy. Không thấy là tại ông, chớ
không phải nó không có.
Hỏi: Tâm đã
hiện tại, cớ sao mà chẳng thấy?
Đáp: Ông từng
có mộng chăng?
- Từng có mộng.
- Khi ông nằm
mộng, ấy là cái bản thân của ông chăng? (Khi ông nằm mộng có phải là bản
thân của ông chăng?)
- Là bản thân.
- Ông nói năng
thi vi vận động, cùng với ông khác hay là chẳng khác?
- Chẳng khác.
- Nếu đã chẳng
khác tức là cái thân này vốn là pháp thân của ông, tức pháp thân này là
bản tâm của ông.
Cái tâm này từ
vô thỉ nhiều kiếp đến giờ cùng với hiện nay nó không có khác, chưa từng có
sanh tử, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng tốt, chẳng xấu, chẳng đến, chẳng
đi, cũng không phải quấy, cũng không tướng nam nữ, cũng không có tăng tục,
già trẻ, không phàm không Thánh, cũng không Phật không chúng sanh, cũng
không tu chứng, cũng không nhân quả, cũng không tướng mạo, ví như là hư
không, nắm không được, buông không được, núi, sông, vách, đá, không thể
làm chướng ngại nó, ra, vào, qua, lại tự tại thần thông, thấu cả núi ngũ
uẩn, qua cả sông sanh tử, tất cả nghiệp câu thúc cái pháp thân này không
được. Đây là cái tâm vi diệu khó thấy. Tâm này chẳng đồng với sắc tâm.
Cái tâm này
làm mọi người đều muốn được thấy. Ở trong cái quang minh này vận thủ động
túc (tức là dấy tay dở chân) như là số hằng sa, và hỏi đáp thảy đều nói
cũng không thể được, dường như là người gỗ vậy. Thảy đều tự mình thọ dụng,
nhân sao mà chẳng biết.
Đoạn này chúng
ta nghe một đoạn dài cũng hơi khó nhận. Phần trước là Ngài dùng cái dụ để
đáp lại câu hỏi. Câu hỏi người ta nói rằng: Tâm mình luôn luôn là hiện
tiền, tại sao mình không thấy nó? Thì Ngài hỏi lại: Ông có nằm mộng chăng?
Người kia nói: tôi có nằm mộng. Ngài hỏi rằng: Trong khi ông nằm mộng đó,
cái thân mà hiện ở trong
mộng cùng với cái thân sống của ông nó có khác không? Chúng ta nhớ coi có
khác không? Nhớ lại cái thân trong mộng của mình thấy mình đi, mình nói
chuyện, mình sống với cái thân mà hiện mình ngủ đó, hai thân đó khác
không? Đâu có khác. Cái thân của mình trong mộng với cái thân của mình
thức đây nó đâu có khác. Vì nó không khác nên Ngài nói: Nếu đã không khác
thì tức cái thân này là cái pháp thân của ông rồi.
Như vậy qua
thí dụ chúng ta nghe cảm thấy nó cũng còn tối nghĩa chớ cũng chưa rõ. Vì
Ngài nói đây là thân thật và thân mộng, thì mọi hành động của thân mộng
cũng không rời thân thật; nó không khác với thân thật này. Nhưng mà chỉ
cái kia gọi là mộng, cái này gọi là thật thôi. Như vậy thân trong mộng là
dụ cho cái gì? Cái thân thật dụ cho cái gì? Cái thân mộng là dụ cho tất cả
cái thi vi động tác của vọng niệm. Còn cái thân thật dụ cho pháp thân. Bây
giờ dấy niệm mới có nghĩ, nghĩ làm thì tay cử động, nghĩ đi thì chân bước.
Nghĩ nói thì miệng nói, nghĩ cái gì đó thì nó phát ra những tướng trạng.
Những tướng trạng đó đều do “vọng niệm” nó điều khiển. Mà vọng niệm nó có
rời cái thể tâm thanh tịnh bao giờ đâu? Cũng như là bao nhiêu cái tướng
trạng trong mộng do thân mình hoạt động đâu rời cái thân thật bây giờ.
Nghĩa là tuy nói nó là thân ở trong mộng nhưng cũng không khác với thân
trong lúc mình sống chút nào. Như vậy cái thân hiện sống đây, là dụ cho
pháp thân tức là tâm thanh tịnh, còn thân mộng là dụ cho vọng tưởng. Như
vậy nếu có vọng tưởng tức là có pháp thân. Cũng như có thân mộng tức là có
thân thức. Vì vậy thân mộng không rời thân thức mà có. Thân thức khi nó
mê, nó ngủ thì hiện ra mộng thấy thân trong mộng. Như vậy hai thân đó nó
không khác nhau.
Cũng vậy, vọng
tưởng và chân tâm không có khác nhau, nhưng mà chỉ có: một cái động còn
một cái yên. Khi mình ngủ nằm yên, thân này nằm yên, thì thân trong mộng
nó hoạt động, thì cái đó nó động, cái này nằm yên, chỉ khác một chút đó.
Cũng vậy, dấy niệm thì động còn tâm thể thì lặng yên. Hiểu vậy thì chúng
ta mới thấy thí dụ này nó có giá trị, chớ còn không hiểu thì đọc một hồi
thấy nó mờ mịt không hiểu nói gì? Như vậy pháp thân mình tức là tâm chân
như mình hằng có nhưng mà nó lặng, còn vọng niệm thì nó động. Nhưng mà
vọng niệm đâu có rời pháp thân, đâu có rời chân như, trong chân như. Cũng
vậy, như thân hiện tiền mình ngủ mà thân trong mộng hoạt động. Thân trong
mộng hoạt động đâu có rời thân ngủ nằm im này. Đâu có khác với cái thân
ngủ nằm im này. Như vậy để biết thân ngủ nằm im, khi thân trong mộng hoạt
động thân ngủ có, hay là không? Vẫn nằm sờ sờ đó chớ chạy đi đâu, tại vì
mình còn nằm mộng nên không thấy thân ngủ. Chừng giựt mình thức dậy thân
mộng hết thì thân ngủ nó thành thức rõ ràng chớ không có gì hết. Khi thân
mộng hết thì thân ngủ nó hiện tiền. Cũng vậy, khi vọng hết thì tức nhiên
lúc đó pháp thân hiện tiền. Còn khi đang sống với thân trong mộng thì quên
thân ngủ. Tuy nó không khác nhau mà mình vẫn không thấy nó. Khi thân trong
mộng mình hoạt động trong mộng đó, mình thấy thân ngủ không? - Không bao
giờ thấy, nhưng mà tới chừng giựt mình hết mộng thì tự nhiên thân ngủ nó
hiện sờ sờ đó, không có đâu hết. Trong khi mình hoạt động ở trong mộng,
thân chạy đi đầu này đầu kia nhưng không khác với thân ngủ chút nào hết.
Khi đó thì mê man, thấy này thấy kia mà cũng không rời thân ngủ nằm sẵn
trên giường. Như vậy thì trong khi thân mộng nó hoạt động đâu có vắng mặt
thân ngủ. Cũng như chúng ta trong khi vọng niệm dấy lên, đâu có vắng mặt
tâm chân như. Nếu vắng mặt tâm chân như thì vọng niệm không có, cũng như
vắng mặt thân ngủ thì thân mộng nó không còn. Thí dụ này hay mà nghe hơi
tối, mới nghe thì thấy khó hiểu.
Biết như vậy
rồi thì chính cái thường hằng không đổi thay, không sanh diệt nơi mình đó,
cái đó gọi là pháp thân, mà pháp thân này từ vô thỉ nhiều kiếp đến giờ
cũng như hiện nay nó không có khác, hồi đó giờ nó vậy thì bây giờ nó cũng
vậy thôi, không thêm không bớt gì hết. Vì vậy cho nên không sanh, không
diệt, không tăng, không giảm, không cấu, không tịnh, không hảo, không
ốm... Nhớ lúc nào mà nói một mạch không hết là để chỉ cho y đó, y không
phải những cái này. Như vậy thì hiểu ngay, đọc kinh Phật mà lúc nào thấy
một mạch, đọc một tràng mà cứ nói không phải hết tức là chỉ cho cái đó,
cái mà vô danh, vô tướng đó. Hiểu cái đó rồi thì tức nhiên đoạn sau mình
hiểu liền. Vì vậy cho nên thân đó nó không bị nghiệp câu thúc. Pháp thân
đó là cái vi diệu nên khó thấy.
Cái tâm này
không đồng với sắc tâm. Nhớ cái tâm này chỉ cho tâm chân như hay là pháp
thân, nó không đồng với sắc tâm. Sắc tâm tức là tâm nào? Sắc tâm tức là
tâm mà nó góp bóng dáng sáu trần, góp bóng dáng sáu trần cho nên sáu trần
là sắc, mà nó duyên theo bóng dáng sáu trần cho nên gọi là sắc tâm. Cái
tâm này mọi người muốn được thấy nó. Như vậy ở trong cái quang minh này,
tức là trong tâm chân như lặng lẽ, nó mới dấy lên tay động, chân đi rồi
thì bao nhiêu việc hằng sa, nào hỏi, nào đáp nhưng mà thảy đều nói không
được. Tuy nói vận dụng hằng sa mà hỏi nói, nói không được, muốn diễn tả nó
thì diễn tả không được, cho nên nói rằng: khi mà muốn hỏi tới nó nói không
được, thì ví như là người gỗ vậy. Hỏi nói không được thì thôi chịu, lắc
đầu, kêu là ấm ức mà chịu chớ không nói ra lời, ví như người gỗ vậy đó.
Cái đó chỉ là mình thọ dụng chớ còn không có nhân cái gì mà biết được nó
hết. Cho nên nói gì nói, các Tổ nói qua nói lại, nói đông nói tây rốt cuộc
biểu chỉ cái đó ra thì không ai chỉ được hết, nhưng mà mỗi người khéo thì
nhận ra, biết cái đó, thấy cái đó.
* |