ĐƯỜNG SANH TỬ - ĐƯỜNG BẤT TỬ
(TIẾP THEO)
Như tôi đã
nói, những điều tôi tìm thấy trong thời gian qua, tôi lập thành một bản đồ
để làm phương tiện cho Tăng Ni tu hành. Khi nhìn lên bản đồ, quí vị tự
thấy con đường của mình đi, đi đường nào biết đường đó, không nghi ngờ
nữa. Biểu đồ này tôi đặt tên Biểu đồ hai đường trầm luân sanh tử và
giải thoát sanh tử. Một bên trầm luân, một bên giải thoát, ai chọn
đường nào thì đi đường đó. Tôi chỉ rõ như thế để quí vị đừng lầm con đường
mình đã chọn.
Con đường
được tô màu hồng tượng trưng cho tâm không sanh diệt, con đường tô đen
tượng trưng cho tâm sanh diệt. Trên biểu đồ, chúng ta thấy có cái ngã ba,
nếu đi theo con đường đen xuống mãi là đi trong luân hồi lục đạo, không có
ngày ra khỏi. Nếu tách theo con đường màu hồng là đường tắt đi thẳng tới
giải thoát. Tuy nhiên, còn một ngã tách nữa cũng giúp chúng ta tu giải
thoát, nhưng có thứ lớp theo Ngũ thừa Phật giáo. Đó là con đường tô màu
vàng.
Như tôi đã
nói, khi chúng ta nhận tướng không sắc chất, tức cái không làm thân và tâm
không sanh diệt làm tâm thì sẽ đi tắt con đường màu hồng là đường không
sanh diệt. Tại sao? Vì tâm không sanh diệt không thể nào đi trên con đường
sanh diệt được, phải đi đường không sanh diệt. Tâm không sanh diệt đi
đường không sanh diệt, hợp với tướng không của các pháp.
Tâm không
sanh diệt còn gọi là Chân tâm, nó sẵn nơi mình, không phải tìm kiếm ở đâu
hết. Nó ra sao? Chúng ta thường lơ đễnh, chỉ biết cái nổi động mà quên cái
chìm ẩn. Như khởi nghĩ thì nổi, nghĩ vấn đề gì có hình tướng rõ ràng, rồi
đi theo dòng suy nghĩ đó sanh diệt liên miên. Nếu buông hết những khởi
niệm lúc đó mình còn tâm không? Khởi niệm là tâm sanh diệt, lặng hết niệm
là tâm Chân như không sanh diệt. Như vậy khi buông hết niệm, còn lại tâm
không sanh diệt.
Khi quí vị
ngồi chơi một mình không tưởng gì hết, mắt có thấy, tai có nghe, những
biến động chung quanh có biết không? Cái biết đó có suy nghĩ không? Chúng
ta có sẵn cái biết, không đợi suy nghĩ mới biết. Cái biết sẵn đó lặng lẽ,
không dấy động, là cái biết chân thật. Nó không bao giờ vắng thiếu lúc nào
mà mình quên. Tại sao quên? Tại vì chạy theo suy nghĩ, theo tâm nông nổi,
nghĩ chuyện này tới chuyện kia liên miên cả ngày, thành ra đâu có nhớ tâm
lặng lẽ. Tâm suy nghĩ nhớ chuyện dễ thương, chuyện dễ ghét, nhớ cái phải,
cái quấy, cái hơn, cái thua, cái được, cái mất… Như vậy cứ loanh quanh
trong được mất, hơn thua, phải quấy, mà quên mất cái thật của chính mình.
Phải quấy,
hơn thua là những nhân tạo nghiệp để đi trong luân hồi sanh tử. Cho nên
tâm sanh diệt đó là cái tâm đưa mình đi trong luân hồi lục đạo. Tôi gọi là
con đường trầm luân. Như vậy con đường trầm luân ai tạo cho mình? Chính
mình đi theo nó quen rồi, có thể quen từ muôn thuở chớ không phải mới đây.
Cho nên ngồi lại trong đầu cứ nghĩ chuyện này tới chuyện kia, hơn thua,
phải quấy đủ thứ hết. Nhiều khi đi ngủ cũng không chịu ngủ nữa, nhớ ai đó
nói hơn, nói thua với mình, như vậy mà loanh quanh hoài. Vì tâm điên đảo
đó mà chúng ta luân hồi sanh tử. Có bao giờ ngồi lại tỉnh lặng, buông hết
mọi việc đâu?
Trong tất cả
pháp tu của Phật, pháp nào cũng để dứt tâm luân hồi. Niệm Phật thì nhất
tâm để tâm sanh diệt dừng. Tu Mật tông tụng thần chú thì quên nghĩ. Tu
thiền thì ngồi thiền thấy vọng tưởng liền buông. Tất cả pháp tu đều cốt
làm sao dừng được tâm sanh diệt, hết tạo nghiệp sanh tử. Còn theo tâm sanh
diệt thì còn sanh tử, nên gọi là đi trên đường trầm luân không có ngày
cùng.
Bây giờ muốn
biết người nào còn sanh tử, người nào có thể hết sanh tử dễ lắm, không có
gì khó. Như hỏi “anh sợ chết không”, đáp “sợ”, người đó sẽ đi trên đường
sanh tử, vì sợ mất thân nên tiếp tục tìm kiếm thân khác nữa. Chừng nào hỏi
“anh sợ chết không”, đáp “chết là trò chơi, chết là vui”, người đó hết
sanh tử. Quí vị tự kiểm lại xem mình thuộc loại nào? Sợ chết hay chết là
vui? Người thấy chết là vui vì buông được một gánh nặng, bỏ được cái thây
thúi. Phật dạy chúng ta quán quá nhiều mà rồi cứ tiếc!
Tất cả chúng
ta muốn ra khỏi luân hồi sanh tử thì đừng chạy theo tâm sanh diệt để tạo
nghiệp sanh tử, phải dừng tâm đó. Vì vậy mọi pháp tu trong nhà Phật đều
bắt phải lặng tâm sanh diệt. Lặng gọi là định hoặc nhất tâm. Không ai bắt
buộc chúng ta phải đi mãi trên con đường sanh tử, mình có quyền tách sang
con đường khác. Tách theo con đường không sanh diệt thì sẽ không còn sanh
tử nữa.
Ngày xưa học
kinh, tôi thấy trong kinh nói người tu từ sơ phát tâm cho đến thành Phật
phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ tức là vô số, phải trải qua ba
vô số kiếp mới thành Phật. Định nghĩa ba vô số kiếp là tính từ các địa vị
của Bồ-tát: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, rồi Tứ gia
hạnh. Qua mấy cấp đó là được vô số kiếp thứ nhất. Từ Sơ địa tới Bát địa
Bồ-tát là vô số kiếp thứ hai. Bát địa tới Đẳng giác Diệu giác là vô số
kiếp thứ ba. Như vậy quí vị nghĩ mình tu chừng nào mới thành Phật?
Thêm một
điều nữa, chỗ vô số này không thể tính được. Tại sao? Phật Thích-ca có dẫn
một ví dụ cụ thể, như Ngài tu một lượt với Bồ-tát Di-Lặc. Bồ-tát Di-lặc
thích đi chơi, tới nhà người sang giàu, còn Ngài chăm chỉ, cố gắng tu nên
đã thành Phật trước. Tới bây giờ mà ngài Di-lặc còn ở cung trời Đâu-suất
làm Bồ-tát. Như vậy thời gian tu không cố định, quan trọng ở sự nỗ lực của
mình, mạnh mẽ thì vượt qua mau, lười biếng thì chậm trễ dài lâu. Cũng như
học trò ở trường, từ lớp một, lớp hai, lớp ba v.v… lên dần, nhưng đứa nào
học giỏi thì có thể một năm nhảy hai lớp, còn đứa nào học dở có thể hai
năm ngồi một lớp. Lớp có nhất định, nhưng nhảy được hay không tùy theo khả
năng của mỗi người. Ai tối tăm thì học nhiều năm, ai sáng suốt thì học
mau. Vì vậy mà có từ vô số kiếp, thời gian dài lâu không thể tính kể ấy là
do chúng ta quyết định, chớ không phải ai hết.
Trên đường
tu chúng ta phải trải qua ba vô số kiếp dài vô kể, quí vị có ngán không?
Học tới Thiền tông tôi giật mình, khi nghe chư Tổ nói “tức tâm tức Phật”.
Tâm mình là Phật, mê là chúng sanh, giác là Phật. Quên tâm chạy theo cảnh
đó là mê, là chúng sanh. Biết trở lại Tâm chân thật của mình là giác, là
Phật. Gần quá, làm sao mình tin được? Kinh sách nói phải trải qua ba vô số
kiếp, trong khi nhà Thiền lại nói chỉ giác trở lại Tâm chân thật của mình,
sống được với nó thì thành Phật.
Hồi xưa trong Thiền sử Trung Hoa kể, có một ông làm đồ tể khá lâu, sau ông
bỏ nghề đi tu. Ông có làm bài kệ:
Tạc nhật dạ-xoa tâm,
Kim triêu Bồ-tát diện.
Bồ-tát dữ dạ-xoa,
Bất cách nhất điều tuyến.
Nghĩa là:
Hôm qua tâm dạ-xoa,
Ngày nay mặt Bồ-tát.
Bồ-tát với dạ-xoa,
Không cách một đường tơ.
Như vậy thành Phật đâu có khó. Khi nói ba vô số kiếp chúng ta thấy ngán
thôi là ngán, nhưng nói mê là chúng sanh, giác là Phật thì ta không ngán
nữa. Mê giác từ đâu ra? Từ tâm ra. Thấy mình thật, cảnh thật, chạy theo
vọng tưởng cho đó là tâm thì mê. Bây giờ biết thân này không thật, cảnh
bên ngoài hư dối, sống được với tâm không sanh diệt của mình là Phật.
Nhanh như trở bàn tay. Chính trong bản đồ này tôi đã vẽ rõ.
Đi theo con đường không sanh diệt, tướng không sắc chất, không còn ngã,
không còn pháp, đó là tới mục thứ tám trong mười bức tranh chăn trâu: trâu
và chăn đều quên. Qua mục thứ chín là trở về nguồn cội, tu đến không còn
ngã, không còn pháp thì tới giai đoạn thể nhập Pháp thân, gọi là chim bay
về tổ, lá rụng về cội. Đó là bức tranh thứ chín. Nhiều người buồn, vì tu
mà nhận cái không làm thân. Nhận cái không làm thân với quán không, hai
thứ khác nhau, chúng ta đừng lầm. Nhận không làm thân là biết trong thân
đã sẵn có cái không rồi, không này với không bên ngoài chẳng hai. Cái
không làm thân nên nó đã sẵn nơi mình, khi nhắm mắt chúng ta thể nhập với
cái không khắp bầu trời này làm thân, vì vậy nói Pháp thân trùm khắp. Khi
nhận cái thân đó làm mình thì chim bay về tổ, lá rụng về cội. Thiền sư
Huyền Giác nói:
Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.
Nó là nguồn gốc, là tánh sẵn của mình, là ông Phật không cần tu. Thiên
chân còn được gọi là Phật tánh.
Khi không chấp thân tứ đại thật, nhận cái không trong tứ đại này là mình
thì tâm không sanh diệt hòa nhập với cái không, nhắm mắt chúng ta có được
thân trùm khắp. Đó là Pháp thân. Nhiều Phật tử than: “Thầy tu kiểu đó chắc
tụi con bơ vơ”, vì lúc đó không có hình tướng, tâm không suy nghĩ, thì đâu
làm lợi ích cho ai. Nhưng quí vị nên nhớ, trong mười bức tranh chăn trâu,
còn mục thứ mười là buông thõng tay vào chợ. Đây là Ứng thân hoặc Hóa
thân. Khi chúng ta nhập được Pháp thân rồi thì tùy nguyện độ sanh. Nguyện
độ sanh thì dùng Ứng thân hay Hóa thân, chớ không phải bỏ chúng sanh bơ
vơ.
Chúng ta đi theo con đường Ngũ thừa, tu tới ba vô số kiếp là vì một đời tu
chưa xong nên tiếp tục sanh đời thứ hai tu tiếp. Nhưng thử đặt lại câu
hỏi, đời này chúng ta sanh ra trong sạch từ thuở bé tới lớn hay cũng có
tội lỗi? Dù tu sớm hay muộn gì cũng có tội lỗi ít nhiều. Người không sát
sanh hại vật cũng phạm lỗi này lỗi nọ. Qua đời sau trả hết nợ cũ mới tu
tiếp nên rất chậm, có khi trục trặc, tuột lên tuột xuống nhiều lần. Thiếu
gì người phát tâm cạo tóc vô chùa, đó là họ có duyên trước nhưng rồi trục
trặc tuột xuống. Sau trở lại tu nữa nhưng chưa chắc đi luôn được. Cứ tuột
lên tuột xuống hoài nên ba vô số kiếp là vừa. Còn đi đường này là đi
thẳng, lấy hư không làm thân thì còn tham trước cái gì? Tất cả pháp thế
gian là mộng là huyễn, như kinh Kim Cang Phật nói “thấy tất cả pháp như
mộng huyễn, bọt bóng”. Chúng ta chỉ một bề đi thẳng.
Hai con đường đi tắt và đi quanh rõ ràng, quí vị muốn đi đường nào? Chắc
muốn đi đường quanh nhiều hơn. Đa số nói tu gieo nhân đời sau tu nữa, ít
ai phát nguyện ngay đời này phải giác ngộ. Quí vị quên rằng mỗi một đời
như vậy có duyên thuận duyên nghịch đủ cả. Yếu yếu một chút gặp duyên
nghịch thì té nhào, không biết tuột lên tuột xuống bao nhiêu lần mới bước
lên được bước sau? Nếu chịu đi thẳng một cái thì hết sức đơn giản. Tại sao
đơn giản? Như ngài Huyền Giác đã nói trong bài kệ Chứng Đạo Ca:
Chứng thật tướng vô nhân pháp,
Sát-na diệt khước A-tì nghiệp.
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Ngài nói nếu mình tu thẳng một đường, không còn nhân, không còn pháp thì
nhảy thẳng vô cái thật tướng. Bấy giờ thấy thân là hư không, thì cái gì
lôi mình trả nợ trước? Còn thân mới trả nợ, vô đó không còn thân cũng
không còn pháp, cho nên tới đây không còn trâu không còn chăn, đi thẳng
cái một. Khỏi qua từ một, hai, ba cho tới tám, mà thẳng vô vòng tròn. Thấy
mình là hư không thì bao nhiêu nợ nần hết người đòi, hết người trả. Rõ
ràng chỉ trong chớp mắt nghiệp địa ngục cũng tiêu. Nếu đi đường kia phải
trả đủ, thiếu bao nhiêu trả bấy nhiêu mới lên được. Quí vị muốn đi đường
nào tự chọn. Đây là con đường thật dễ mà cũng thật khó.
Trong biểu đồ vẽ rõ, đi con đường không sanh tử, ngang qua vòng tròn là
chỉ không còn ngã, không còn pháp. Tới đó không phải hết mà sau thể nhập
Pháp thân. Từ thể nhập Pháp thân rồi có Ứng hóa thân độ chúng sanh, độ như
thế bảo đảm không tuột xuống. Ứng thân hoặc Hóa thân làm được gì thì làm,
không làm liền ẩn mất, vì đó là thân ứng hóa lưu xuất từ Pháp thân nên
không sợ bị nghiệp dẫn. Còn bây giờ mình độ người ta bị người ta độ lại,
là vì mình còn thân nghiệp, chưa vượt qua được. Xét kỹ con đường tắt rất
khó đi, nhưng đi được thì bảo đảm.
Vì vậy Thiền tông nói điểu đạo cũng gọi là huyền đạo, tức đường mầu nhiệm.
Điểu đạo là đường chim. Tại sao nói đường chim? Bởi vì đi dưới đất đường
mòn, đường xe gì cũng quanh co, chỉ có đường chim là đi thẳng cái một,
không ghé trạm nào hết. Ở đây chúng ta hiểu cho thật rõ thì mới hiểu được
lời Phật dạy trong kinh. Kinh nói chúng ta tu theo thứ bậc, từ cấp một,
cấp hai lên lần lần tới các bậc Sơ địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác là
thành Phật. Còn nhà thiền nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật, không cấp bậc
gì hết. Tu như vậy rút thời gian nhiều ít? Bởi vì Thiền tông là chỉ thẳng,
đi thẳng chớ không quanh co.
Người dám buông thân, không còn một niệm nào đeo đẳng với thân tứ đại nữa
mới đi thẳng được. Cho nên đường chim dành cho những người can đảm cùng
mình mới nhảy vọt lên nổi, hơi nhút nhát thì đi không nổi. Ai đi không nổi
thì đi theo đường Ngũ thừa Phật giáo. Chủ yếu của Phật giáo từ Trung Hoa
sang Việt Nam, các Thiền sư dạy đi đường chim. Như có người hỏi Tuệ Trung
Thượng Sĩ, một Thiền sư Việt Nam:
- Làm sao giải quyết được sanh tử?
Ngài trả lời:
Trường không túng sử song phi cốc,
Cự hải hà phòng nhất điểm âu.
Dịch:
Trên trời thoảng có đôi vành chuyển,
Giữa biển ngại gì bọt sóng xao.
Nghĩa là Pháp thân thênh thang như hư không, sanh tử giống như hai bánh xe
quăng trong hư không, có nghĩa lý gì. Pháp thân như biển cả, sự sanh diệt
của thân này giống như hòn bọt giữa biển, chẳng đáng vào đâu. Nhận chân
được Pháp thân thênh thang rồi thì đối với sự sanh tử xem như trò chơi.
Nên Thiền sư nói sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ, không có
gì đau khổ. Còn chúng ta sanh khổ tử cũng khổ, lung tung khổ. Tổ Pháp Loa
khi sắp tịch, đệ tử vây quanh hỏi Ngài tịch sẽ đi về đâu. Ngài nói kệ đáp:
Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian,
Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
Na biên phong nguyệt cánh man khoan.
Dịch:
Muôn duyên đoạn dứt một thân nhàn,
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng,
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,
Bên kia trăng gió rộng thênh thang.
Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng nhìn thấy như vậy. Ngài là cư sĩ mà thấy tột lẽ
thật, nên khi sắp tịch, mấy bà hầu khóc lóc, Ngài mở mắt rầy:
- Ta đi có nơi về có chốn, các ngươi khóc lóc chi cho loạn chân tánh của
ta?
Nghe vậy mấy bà nín khóc, Ngài rửa mặt súc miệng rồi nằm xuống đi. Các
ngài đi có nơi về có chốn, còn chúng ta tu nhiều năm mà sắp đi không biết
đi đâu, hồi hộp lo lắng. Đó là vì chưa có chỗ, chưa biết nơi mình đi. Gần
đây tôi dám tuyên bố chết tôi sẽ cười chớ không khóc, hồi xưa tôi không
dám nói điều này. Tại sao? Vì hồi xưa chưa biết mình đi chỗ nào, tới đâu,
làm sao dám cười. Còn bây giờ tôi biết rõ đường đi rồi, không còn bận rộn
như trước nữa. Chúng ta bỏ thân này như người gánh nặng được buông xuống,
như mang thây thúi quăng đi, quăng được quá nhẹ nhàng, không cười sao
được? Thấy rõ chỗ mình đến thì hết sợ sệt, còn không thấy thì rất lo sợ.
Như vậy trên đường tu, chúng ta có thể đi thẳng một mạch đến nơi đến chốn,
mà cũng có thể trải qua ba vô số kiếp. Không biết ba vô số kiếp hay nhiều
hơn nữa, vì cứ tuột hoài, leo lên tuột xuống không biết chừng nào. Cho nên
ở đây tôi chỉ thẳng con đường tắt là điểu đạo hay huyền đạo, quí vị đi
theo được thì việc tu bảo đảm đến nơi đến chốn.
Nhập Niết-bàn là vô sanh. Hư không là vô sanh, tâm mình không sanh không
diệt, hai cái hòa nhập nhau thì gọi là nhập Niết-bàn, không còn sanh tử.
Trong chỗ lặng lẽ không sanh tử đó tùy duyên ứng hóa độ chúng sanh, nên
bao nhiêu nợ nần Phật tử đừng sợ mất, lúc đó chúng tôi sẽ tùy hóa tùy hiện
mà độ. Tôi đã chỉ rõ ràng những lối đi như vậy. Có một lối đi tắt là đường
chim, ai muốn đi thì đi, còn không thì đi đường vòng, đường bộ. Cứ lục tục
mà đi, mệt thì ghé bụi ghé bờ nghỉ rồi đi tiếp, còn đường chim đi thẳng
một mạch, không dừng ở đâu hết. Con đường đó nhà thiền gọi là trực chỉ.
Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, nhận ra Bản tánh mình,
ngay đó là Phật, chớ không đi đâu xa.
Như vậy Phật thị hiện Ứng thân, Hoá thân là thân còn sanh diệt, Pháp thân
mới thật là thể, trùm khắp không sanh diệt. Quí vị nghĩ kỹ rồi chọn đường
đi. Đường tắt thì đi thẳng, đường vòng thì đi trong sanh tử nhưng cũng
nguyện tu đến giải thoát mới thôi. Đường vòng còn thấy tứ đại thật, nên
mất thân này kiếm thân khác, tuy nhiên mục đích cứu kính vẫn là giải thoát
sanh tử.
Trên biểu đồ, con đường tô màu vàng tu theo Ngũ thừa Phật giáo, cũng sẽ
dẫn đến giải thoát, nhưng trải qua phương tiện và các thứ lớp. Tuy chúng
ta còn mượn sắc chất, còn có sanh tử nhưng theo Phật dạy, ta tu từ Nhân
thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, cuối cùng tới Bồ-tát
thừa. Đi đường này phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tức vô số kiếp. Mặc dù
trải qua số kiếp nhiều như vậy, nhưng người giữ vững tâm tu hành chân
chánh, đời này tiếp đời khác, tu mãi từ thấp lên cao. Từ Nhân thừa tiến
lên Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, cuối cùng là Bồ-tát rồi
thành Phật.
Nhiều người cho đường vòng dễ đi hơn đường thẳng. Dễ thì có dễ nhưng thời
gian dài quá, không biết bây giờ mình đang ở kiếp thứ mấy? Kiếp một, kiếp
hai, kiếp ba hay là chưa có kiếp nào, mới bắt đầu chuẩn bị thôi. Tính ba
vô số kiếp là kể từ Thập tín Bồ-tát, không biết mình đã lọt vào Bồ-tát
Thập tín chưa? Cho nên đường này rất dài, rất xa. Nếu đời này chúng ta tu
hành tương đối tốt, nhưng thấy thân còn thật, thấy tâm niệm thanh tịnh là
thật thì cũng còn niệm, nên vẫn còn đi trong sanh tử.
Không ai bắt buộc chúng ta đi trong sanh tử, tự mình gieo trồng nhân sanh
diệt thì đi theo sanh diệt, sanh diệt từ thấp lên cao. Nếu chúng ta đi
thẳng vào vô sanh thì không có cao thấp, không có thứ bậc. Vì vậy nói “tức
tâm tức Phật”, hoặc nói “hôm qua tâm dạ-xoa, hôm nay mặt Bồ-tát”, chuyển
cái một. Hiểu thế rồi mới hiểu được lời nói của các Thiền sư, nếu không
chúng ta không hiểu tại sao kinh nói một đàng, nhà thiền nói một ngả.
Như vậy để thấy đường tu không phải duy nhất một lối mà có nhiều lối. Nói
tới Thiền tông là nói tới con đường thẳng tắt. Lúc trước tôi hướng dẫn quí
vị tu thấy vọng liền buông, đó là đường tắt hay đường quanh? Chúng ta lâu
nay cho vọng tưởng là tâm mình nên nó khởi nghĩ liền theo. Bây giờ nó dấy
lên mình biết giả dối không thật, nó lặng xuống thì tất nhiên cái thật
hiện ra. Nhưng lối này vẫn còn trâu, còn chăn, tập từ từ chớ không nhảy
cái một như cách mới. Ban đầu nhử nó, điều khiển dần dần tới chừng nó
thuần thục, rồi mới đến mất trâu mất chăn. Còn cách mới đi thẳng cái một,
không còn trâu, không còn chăn, không có thứ tự. Cũng tu theo Thiền tông
mà một bên có thứ bậc, còn một bên không thứ bậc. Tuy nhiên, không phải ai
cũng đi thẳng được. Thiền sư Huyền Giác nói không phải một đời tu xong, mà
đã có chủng tử nhiều đời rồi, đến đời cuối mới có khả năng nhảy vọt. Chúng
ta tu phải hiểu cho thật kỹ con đường mình đang đi, nếu không sẽ chẳng đạt
được kết quả mình mong muốn.
Ngày xưa tôi hơi nặng về mười mục chăn trâu, đi từ tìm trâu rồi gặp trâu,
xỏ mũi, điều phục nó v.v… tại vì tôi không thấy rõ lối tắt một cách cụ
thể. Gần đây thấy được lối tắt một cách rõ ràng, tôi mạnh dạn nói ra lối
tu mới này. Chúng ta cứ cho rằng thật tướng là những tướng mắt thấy, tay
xúc chạm được, không ngờ hư không trống rỗng này là tướng thật. Cái bàn
duyên hợp, cái không trống rỗng này duyên nào hợp? Không có duyên hợp, cho
nên không có gì thay đổi nó được hết. Vì vậy kinh Bát-nhã nói thật tướng
là vô tướng. Nếu chúng ta nhận chân được thật tướng, thì không còn sợ sệt
nữa, sẽ đi đường tắt được.
Nhiều người hoang mang “hư không có cái gì đâu mà nhận làm mình”. Hư không
mới nhìn thì như không có gì, nhưng thật sự nó chứa đủ tất cả. Thế giới
này hoại, thế giới kia thành. Hoại đi đâu? Cũng trở về hư không. Như chúng
ta thấy tất cả những làn sóng điện có đầy trong hư không, nên người ta mới
gửi thư từ sách vở qua phương tiện này. Cho nên đừng bảo hư không là không
ngơ. Tâm chúng ta thênh thang như hư không nên diệu dụng của nó cũng không
thể lường nổi.
Khi đạt được lý đạo, tu đến nơi đến chốn, chúng ta sẽ thấy con đường lâu
nay mình sợ chính là con đường rất quan trọng, cần phải biết để mà đi. Tuy
nhiên, muốn đi điểu đạo, đòi hỏi chúng ta phải nhận hư không là mình, chớ
không nhận tứ đại là mình. Nhận hư không là mình không phải chuyện khó,
khó nhất là tâm phải như như. Tôi nhớ Hòa thượng Phước Hậu nói:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Đến nay tưởng lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ “như”.
Còn một chữ “như” thôi mới đi điểu đạo được, bởi vì nếu dùng tâm sanh diệt
thì tựa vào hư không không hợp, cho nên phải là tâm như như mới được. Muốn
làm được việc lớn phải dồn hết tâm lực, bên ngoài không việc bên trong mới
buông sạch. Cho nên người tu rất ngại chạy theo việc bên ngoài, sự tu hành
của mình khó được như ý. Muốn tâm như như phải thường ở trong lặng lẽ mới
như nổi. Tâm còn lăng xăng lộn xộn hoài thì biết chừng nào mới như?
Đức Phật dạy rõ ràng, đường tắt đường quanh có đủ. Người không đi nổi
đường tắt thì đi đường quanh, chớ đừng có đi mãi trong đường luân hồi.
Đường luân hồi đầu mối là vô minh. Chấp thân thật là vô minh, nên mất nó
phải chạy tìm thân khác. Những bộ kinh hệ A-hàm, Phật đều nhắm thẳng phá
chấp thân là thật bằng cách bắt chúng ta quán thân bất tịnh, quán tâm vô
thường, quán thọ là khổ v.v… để ta chán chê, đừng thấy nó thật nữa khả dĩ
mới thoát được. Trong Thập nhị nhân duyên, Phật dạy thân này duyên hợp hư
giả, vô minh là gốc, nên không chấp thân.
Tới Bát-nhã, Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không tức thân này là không,
không có gì hết bởi vì nó giả hợp rồi mất, để chúng ta đừng bám vào thân
cho là thật. Nhiều khi tôi nghĩ thật là vô lý, từ đầu tới chân có gì quí
đâu, mà chúng ta lại yêu quí nó? Đồ tạm bợ đủ thứ nhớp nhúa mà bám vào đó,
cho nó là thật rồi quí trọng, ai động tới thì có chuyện ngay.
Ví dụ trong đầu chứa gì? Chứa óc chứa não chi đó, nhưng ai vỗ lên một cái
liền giận à! Linh thiêng lắm, động tới không chịu, mà tưởng cái gì quí,
toàn là nhớp nhúa. Thành ra cả đời bám vào thân sợ nó mất. Đau nặng người
ta nói bệnh sắp chết thì run lên run xuống, làm sao không chìm trong luân
hồi được. Cái dòng luân hồi sanh tử không phải ai bắt mình đi, mà chính sự
mê lầm của mình dẫn mình đi.
Quí vị thấy thân này từ lớn đến nhỏ, có ai khỏi chết đâu. Cái chết là cái
phải đến không nghi ngờ tí nào hết mà sợ. Phải chi riêng phần mình chết,
người khác không có thì nên sợ, chết là cái chung ai cũng có tại sao lại
sợ? Cái phải đến cứ đến, cười với nó thôi. Đó là vì con người mê lầm cho
thân này thật, khi mất nó mới hoảng hốt. Người nào thấy thân không thật là
đã có trí tuệ rồi. Thấy thân không thật là giác, từ giác phá được vô minh.
Nếu thấy thân thật là vô minh, nên chìm mãi trong sanh tử.
Quí vị đừng nghĩ tu có trí tuệ là sáng lên cái gì, không phải. Thấy đúng
như thật thân này tạm bợ giả dối, không nghi ngờ đó là đã bước một bước
khá dài trên con đường giác ngộ. Biết thân không thật là có trí tuệ. Do có
trí tuệ nên bớt tham, bớt sân, bớt si. Nếu thấy thân thật thì còn mê lầm,
nên sanh ra tham, sân, si. Thật ra si là đầu mối rồi mới tới tham, sân.
Song người ta thường sợ sân, chớ không sợ si. Sợ mình nóng quá, mình hung
dữ mà không nhớ mình mê lầm. Từ mê lầm kềm chế không được mới dẫn tới
tham, sân.
Nói tham, sân, si là nói theo chữ Hán; chữ Việt nói si, tham, sân. Si là
gốc trầm luân sanh tử, phải thấy thật rõ như vậy. Ai tu cũng nguyện giải
thoát sanh tử mà không bỏ si tức là không bỏ vô minh, làm sao giải thoát
được? Tôi thấy nhiều người tu cũng cần mẫn lắm nhưng ai động tới thì biết.
Cần mẫn mà không bỏ si, hơn nhau từ lời nói, từng hành động, từng món đồ
cỏn con, cãi nhau um sùm, thật chẳng ra gì.
Quí vị phải nghĩ tới đời tu của mình là tối quan trọng. Người đang mê chìm
trong luân hồi sanh tử, chúng ta tỉnh thì phải thoát ly sanh tử. Tỉnh mà
cũng đi theo cái mê của người khác, như vậy uổng đi một đời tu, không có
giá trị gì. Không nuôi cha nuôi mẹ, không làm lợi ích xã hội, chỉ lo tu mà
không chịu tu, thật không hiểu nổi. Đó là những điều tôi thấy cần phải
cảnh tỉnh, nhắc nhở Tăng Ni đừng lầm lẫn như vậy. Đi tu là để thoát ly
sanh tử, không chấp nhận đi trên đường trầm luân, phải đi trên đường giải
thoát. Muốn giải thoát trước phải phá si mê, si mê bớt tham sân mới bớt.
Tiến theo con đường này chúng ta sẽ cứu được mình, cứu được nhiều người.
Người tu phải cương quyết một đời này làm cho xong. Nếu đời này không
xong, ít ra cũng liên tục năm ba đời, quyết cho rồi, chớ không nên chần
chờ. Tôi nhắc lại, đường trầm luân có lục đạo luân hồi. Trên là cõi trời,
kế a-tu-la, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Nếu để tuột xuống tới địa
ngục thì thôi, chịu khổ không biết tới đâu. Ngạ quỉ, súc sanh cũng không
sướng ích gì. Làm người thì khả dĩ tương đối, còn a-tu-la tuy có phước,
biết làm lành nhưng nóng nảy quá nên cũng không được. Trong sáu đường, ba
đường trên tương đối dễ chịu, ba đường dưới hết sức khổ sở.
Đi trong lục đạo không có gì bảo đảm. Khi được là người lương thiện giúp
đời, có chút phước làm ông lớn, chừng đó lại hiếu danh hiếu lợi, tạo ra đủ
thứ chuyện tội lỗi không lường trước được. Cao thấp, tốt xấu liền kề một
bên, chỉ những người biết tránh mới khả dĩ không bị tuột xuống. Nhiều
người thích lên cõi trời hưởng, lên đó muốn gì được nấy, nhưng hưởng hết
cũng tuột xuống. Ngang đó nếu không biết tu tuột luôn tới địa ngục thì hối
hận không kịp. Cho nên sanh lên cõi trời không có gì bảo đảm, Phật không
dạy chúng ta tu để lên cõi trời, mà cốt để giải thoát sanh tử.
Quí vị nghe hiểu rồi tự chọn đường đi, làm sao đời tu của mình nếu không
giải thoát sanh tử được, ít ra cũng vững, không sợ lui sụt. Phật độ chúng
sanh là độ như thế, chúng ta bây giờ độ hơi khác một chút. Cứ cho làm việc
này việc nọ có phước là độ, thật ra độ người là làm cho họ thức tỉnh, cố
gắng vượt khỏi con đường sanh tử. Tôi nói thế để tất cả hiểu việc làm của
mình. Quí vị đừng lầm tại sao tu đóng cửa hoài vô ích. Chính vì muốn làm
một việc có lợi ích cho mình và mọi người mà chúng ta phải miên mật tu
hành.
Đời tôi không làm thì thôi, làm thì muốn làm cho đến nơi đến chốn, chớ
không làm lấy có. Tu thì phải biết đường mình đi, nhất định đi cho đến
đích, không thể đi lừng chừng. Tôi là người đi trước trải qua nhiều chông
gai, quí vị đi sau cũng dễ hơn rồi. Tất cả Tăng Ni đã biết rõ ràng, cứ như
vậy mà cố gắng. |