CƯƠNG LĨNH PHÁP TU THIỀN BIẾT CÓ CHÂN TÂM
Thiền viện Trúc Lâm - Đà Lạt,
ngày 17-01-2005
I. QUI SÁU CĂN VỀ CHÂN TÂM
GIỚI
1. Mắt biết thấy là Chân tâm.
2. Tai biết nghe là Chân tâm.
3. Thân biết xúc chạm là Chân tâm.
4. Mũi biết ngửi là Chân tâm.
5. Lưỡi biết nếm là Chân tâm.
6. Ý biết pháp trần là Chân tâm.
* Ba căn đầu sử dụng lúc tiếp xúc bên ngoài và khi ngồi thiền.
* Ba căn sau chỉ sử dụng khi ngồi thiền.
II. TU KHI NHẬN RA CHÂN TÂM
ĐỊNH
1. Tu khi nhận ra Chân tâm thì đi, đứng, nằm, ngồi đều nhẩm đi nhẩm lại
câu “Chân tâm hiện tiền”.
2. Đến lúc nào trong đầu nhớ liên tục “Chân tâm hiện tiền” thì
chuyển qua giai đoạn III ở dưới.
III. THỂ NHẬP CHÂN TÂM
TUỆ
1. Định nghĩa: Chân tâm là “thường biết rõ ràng mà không niệm”.
2. Tập mãi cho đến khi thuần thục, chỉ còn hai chữ “không niệm”.
Buông luôn hai chữ “không niệm” thì tâm thênh thang và còn mãi.
]
Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni,
Kính thưa toàn thể Tăng, Ni và Phật tử,
Hôm nay là ngày tôi ra thất và có hai điểm cần nói:
Điểm thứ nhất, tuy tôi tu có kết quả nhưng chưa
viên mãn. Vì vậy từ đây về sau, mỗi năm ba tháng an cư của Tăng Ni cũng là
ba tháng nhập thất của tôi, cho tới khi nào theo Phật mới ngừng.Điểm thứ
hai, tôi tuyên bố cho Tăng Ni hiểu rõ, ngày xưa tôi nặng về việc hoằng hóa
Phật pháp, nên đi tới đâu cũng giảng giải cho mọi người nghe hiểu đạo
Phật, biết ứng dụng tu hành. Nhưng ngày nay khác đi, tôi chỉ dạy tu,
khuyến khích tu mà không nói phổ thông như trước. Vì vậy từ đây tôi không
giảng phổ thông, mà chỉ giảng cho Tăng Ni những điều thiết yếu tu hành.
Tôi sẽ đi thăm các Thiền viện, những nơi chuyên tu. Hỏi lại Tăng Ni: một
là quí vị tu có kết quả thế nào trình cho tôi biết; hai là giải thích thêm
những gì quí vị còn nghi ngờ trên đường tu, chớ tôi không giảng tràng
giang đại hải như thuở xưa.
Quí vị đang cầm trên tay tờ giấy “Cương lĩnh
pháp tu thiền biết có Chân tâm”, tôi sẽ đọc từ từ, giải thích
cho quí vị nghe. Trước kia không có pháp này, nhưng sau thời gian nhập
thất, tôi mới phương tiện lập ra. Lúc trước chúng tôi dạy tu Thiền, không
có nghi vấn nên tu nhẹ, kết quả cũng ít. Ngót ba mươi năm chuyên tu, vừa
tu vừa dạy Tăng Ni, Phật tử nên việc tu của tôi trì trệ, tiến không bao
nhiêu. Đến năm rồi tôi thấy tuổi đã già, đường tu còn xa nên tuyên bố nhập
thất. Tôi không nói nhập mấy năm, vì nghĩ tuổi thọ chắc không quá tám mươi
bao nhiêu. Khi bắt đầu nhập thất tôi đã tám mươi tuổi rồi, không biết còn
sống tới chừng nào, nên không dám tuyên bố bao lâu, nhưng tôi thầm nguyện
trong lòng phải nhập thất cho được ba năm. Nhưng mới hai năm tôi có sáng
kiến mới, thấy đường lối tu mới, nên ra thất.
Tại sao tôi có sáng kiến này? Như kỳ trước tôi đã
nêu lý do, trước kia tôi dạy tu thiền là nhắm thẳng vào hướng của chư Tổ
trước. Chư Tổ trước nói một châm ngôn hết sức cụ thể là “lấy vô niệm
làm tông, lấy cửa không làm cửa pháp”. Tức là lấy vô niệm làm chỗ tột
cùng cứu kính, lấy pháp không của tinh thần Bát-nhã làm cửa pháp để tiến.
Chúng tôi nhiều năm đi sâu trong Bát-nhã, nhất là tới giai đoạn nhập thất,
phăng tìm cho thấu đáo cửa không là cửa pháp. Khi phăng tìm thấy tột lẽ
thì biết cửa không rất sâu, rất khó nhận. Nếu lấy đó làm cửa tiến đạo thì
người sơ cơ ít ai nhận được, nên tôi có chút ngậm ngùi trong lòng. Nếu
mình tu mà không thể dạy người tu được, vô tình thành ích kỷ nên tôi rất
buồn.
Bỗng dưng một hôm, giờ ngồi thiền tôi tự hỏi “lâu
nay mình tu cốt trở về với Chân tâm của mình, mà hiện giờ Chân tâm ở đâu”.
Đó là một nghi vấn tôi phải giải quyết. Khi phăng lần manh mối của Chân
tâm, tôi thấy trong kinh, trong luận và chư Tổ Thiền tông đều nói thẳng
“Chân tâm ở ngay nơi sáu căn của các ông”. Câu được nhiều người nhắc đi
nhắc lại trong kinh Lăng Nghiêm là “nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”,
nghĩa là có một cái trong sáng, nó hòa hợp với sáu căn. Như vậy
tinh minh chỉ cho gốc Chân tâm, nó hòa nhập với sáu căn, nên sáu căn đều
có mầm hay có phần của Chân tâm.
Nếu ai hỏi việc tu, chúng ta nói các pháp đều là
không thì những người cạn cợt cho rằng “tu mà không thì tu làm gì” nên họ
không nỗ lực tiến tu. Bây giờ thấy ai cũng có Chân tâm hiện nơi sáu căn,
như vậy chúng ta nói sao? Thay vì nói không thì mình nói có. Có cái gì? Có
Chân tâm. Mỗi người đều có sẵn Chân tâm, hiện giờ nó đang ẩn núp nơi sáu
căn. Bây giờ muốn đi, đứng, nằm, ngồi đều biết quay về, biết trở lại Chân
tâm thì phải làm sao? Cho nên tôi mới có đường lối tu mới.
Tôi đề ra cương lĩnh pháp tu thiền biết có Chân
tâm.
Biết có là có Chân tâm. Nhiều người nghe nói pháp tu có, họ đâm nghi ngờ
hồi trước tôi dạy các pháp không, bây giờ lại nói có. Như vậy tôi tự mâu
thuẫn trước sau, nhưng họ quên rằng, trước tôi nói không là không có sáu
trần. Sáu trần duyên hợp là không, hình tướng như huyễn như hóa, không
thật, vì vậy nói không. Ngày nay nói có là có Chân tâm, không phải có sáu
trần. Nếu trước tôi nói không sáu trần, bây giờ nói có sáu trần, đó là mâu
thuẫn. Nhưng ở đây tôi nói không sáu trần, mà có Chân tâm. Chúng ta cứ
quên sáu trần, đi thẳng có Chân tâm. Ai muốn tu, cứ trở về với Chân tâm
của mình. Nhờ có Chân tâm chúng ta tu mới thành Phật được. Đường lối tu
hôm nay thật ra không có gì mâu thuẫn với đường lối tu trước. Pháp tu này
là pháp tu qui hướng về chính mình, cái gì là chính mình? Chân tâm.
Đức Bổn sư nói Ngài thương chúng sanh như mẹ thương con. Nghe vậy nhiều
người bảo: “Như mẹ thương con sao Ngài bỏ đi mất tiêu, không thấy trở
lại?” Đó là vì đức Phật biết chúng sanh ai cũng có Tánh giác hay Chân tâm,
nhưng không tự biết, cứ chạy theo vọng tưởng hư dối. Ngày nào mình nhận
lại thì hết sanh tử khổ đau. Chư Phật không ban cho chúng sanh sự giải
thoát được, phải tự mình giải thoát lấy.
Cả ngày sống với vọng thức mà cho là tâm của mình. Tôi suy nghĩ thế này,
tôi suy nghĩ thế kia, tôi tính toán thế nọ… Cái suy nghĩ, tính toán đó là
vọng thức hư dối, có rồi mất, sanh rồi diệt, không phải chân thật. Chúng
ta ôm cái giả dối cho là mình thì trầm luân muôn kiếp. Nó không thật, chạy
theo nó thì tạo nghiệp đi trong sanh tử. Cả đời hết nghĩ chuyện này tới
bàn chuyện khác, hết nhớ người này tới trông người kia, đầu óc cứ luẩn
quẩn như vậy thì nhắm mắt đi đâu? - Đi theo nghiệp. Chỗ nào chúng ta ưa
thích hay dính mắc thì nó dẫn mình đến đó. Vì vậy ở trong trầm luân sanh
tử không ra được.
Nếu chúng ta tu tới cuối cùng là không niệm, lấy không niệm làm tông thì
ra khỏi sanh tử. Vì sao? Vì muốn ra khỏi sanh tử phải dứt hết niệm, dứt
hết suy nghĩ, tìm kiếm, dính mắc. Khi niệm lặng hết, nhắm mắt chúng ta đi
đâu? Hết các niệm thì nhắm mắt thể nhập Pháp thân, giải thoát sanh tử. Rõ
ràng như vậy.
Ngày xưa hành giả tu thiền phần nhiều căn tánh thông lợi, nên chư Tổ Thiền
tông nói bên Đông, họ hiểu bên Tây. Ngày nay con người thực tế quá, nói
đâu hiểu đó, nếu nói như các ngài chắc người ta bảo mình điên. Ví dụ hỏi:
“Thế nào là Phật?” Ngài Đức Sơn đáp: “Cục cứt khô của ông già Hồ.” Chịu
nổi không? Nói như thế người ta bảo mình điên, hỏi một đàng trả lời một
ngả, không dính dáng gì mà lại thô tháo nữa. Nhưng đi sâu mới thấy cái kỳ
đặc của người xưa.
Bởi vậy ở đây chúng tôi dùng những phương tiện thực tế để hướng dẫn quí vị
tu. Chúng tôi sẽ chỉ rõ những chi tiết, chỉ rõ sự tu tiến như thế nào. Đó
là vấn đề rất quan trọng. Trong cương lĩnh tu biết có Chân tâm, chúng tôi
tạm chia ra ba phần. Phần thứ nhất, qui sáu căn về Chân tâm. Phần thứ hai,
tu khi nhận ra Chân tâm. Phần thứ ba, thể nhập Chân tâm. Đó là ba phần căn
bản. Chúng tôi sẽ nói rõ từng phần một.
Phần thứ nhất, qui sáu căn về Chân tâm. Như tôi đã nói Chân tâm là nhất
tinh minh, nhưng nó sanh ra lục hòa hợp. Tức nó phân phối ra sáu căn, gọi
là sáu hòa hợp. Cho nên sáu căn của chúng ta, căn nào cũng mang tánh chất
Chân tâm. Chúng ta không biết sử dụng hay trở về nó. Ví dụ quí vị thấy
bình hoa, vừa thấy bình hoa thì không nói đẹp, nói xấu gì hết. Nhưng khi
phân tích hoa này là hoa gì, so với các hoa khác thế nào… phân tích một
hồi nó trở thành đẹp hay xấu. Như vậy cái nhìn ban sơ trong nhà Phật gọi
là niệm đầu, niệm đó chỉ biết mà không đối chiếu, so sánh, phân biệt. Cái
biết đó thuộc về Chân tâm. Còn những cái đối chiếu, so sánh thuộc về vọng
thức, phân biệt.
Quí vị chịu thấy cái hoa là cái hoa hay phải đối chiếu, so sánh rồi khen
chê? Ai cũng đối chiếu hoa này là hoa cúc, khác với hoa hồng. Hoa cúc xấu
làm sao, đẹp làm sao; hoa hồng xấu làm sao, đẹp làm sao. Cứ vậy mà phê
phán rồi kết luận, khen cái này chê cái nọ. Đó là tâm của đa số người hiện
tại. Từ hoa cho tới mọi việc khác cũng vậy.
Cái thấy ban đầu, thấy cái gì chỉ cái ấy thôi, không có niệm thứ hai. Bước
qua niệm thứ hai là qua vọng thức rồi. Vì vậy ở đây chúng tôi muốn tất cả
Tăng Ni thực hành theo đường lối Thiền tông, bước đầu chúng ta phải nhận
ra nơi sáu căn của mình có sẵn Chân tâm, chớ không phải chỉ là vọng thức.
Nói có sẵn, tôi sẽ dẫn chứng cho quí vị thấy, cái có sẵn này không phải
một kinh nói mà nhiều kinh đều nói. Như kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan hỏi
Phật phương pháp tu thế nào ra khỏi trầm luân, được giải thoát sanh tử.
Nguyên đoạn kinh chữ Hán thế này:
Ư thị A-nan cập chư đại chúng, câu văn thập phương vi trần Như Lai, dị
khẩu đồng âm cáo A-nan ngôn: “Thiện tai A-nan! Nhữ dục thức tri câu sanh
vô minh, sử nhữ luân chuyển, sanh tử kết căn; duy nhữ lục căn, cánh vô tha
vật. Nhữ phục dục tri Vô thượng Bồ-đề, linh nhữ tốc chứng an lạc giải
thoát, tịch tịnh, diệu thường, diệc nhữ lục căn, cánh phi tha vật.”
Dịch:
Khi ấy A-nan và cả đại chúng đều nghe mười phương các đức Như Lai như số
vi trần, khác miệng đồng lời bảo với A-nan rằng: “Lành thay A-nan, ông
muốn biết câu sanh vô minh là cái đầu gút khiến ông luân chuyển sanh tử,
đó chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác. Ông muốn biết
tánh Vô thượng Bồ-đề khiến ông mau chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu
thường, cũng là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.”
Như vậy không phải riêng đức Phật Thích-ca nói sáu căn là gốc của luân hồi
sanh tử, sáu căn cũng là gốc của Bồ-đề Niết-bàn, mà mười phương chư Phật
đều thốt lên đồng một lời như nhau. Đó là để chứng minh rằng, không phải
riêng đức Phật Thích-ca Mâu-ni mới nói sáu căn là gốc luân hồi sanh tử,
sáu căn là gốc giải thoát sanh tử, mà mười phương Như Lai đồng nói như
vậy.
Chúng ta tu phải y nơi sáu căn mà chuyển. Sáu căn chạy theo sáu trần, đó
là trầm luân sanh tử. Sáu căn biết gỡ, biết gạt bỏ, không chạy theo sáu
trần, đó là giải thoát sanh tử. Lời Phật dạy đã đầy đủ trong kinh, không
phải tự ý tôi nói. Chẳng những một bộ mà nhiều bộ kinh đều nói như vậy.
Tôi dẫn một đoạn khác trong kinh Kim Cang, khi Tu-bồ-đề hỏi Phật “cái gì
là gốc trầm luân, cái gì là gốc giải thoát”, đức Phật trả lời, nguyên văn
chữ Hán:
Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Hi hữu Thế Tôn, Như Lai thiện hộ niệm
chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát. Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ
nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng
phục kỳ tâm?
Phật cáo Tu-bồ-đề: Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm,
bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh
tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Dịch:
Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo
hộ niệm các vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Người
thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm
sao trụ, làm sao hàng phục tâm kia?
Phật bảo: Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh,
không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh
tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.
Trong kinh Lăng Nghiêm, mười phương chư Phật đồng nói y cứ nơi sáu căn,
nếu chạy theo mê lầm dính mắc thì đó là gốc của trầm luân sanh tử, nếu gỡ
không dính mắc nữa thì thoát ly sanh tử. Hai bộ kinh Kim Cang và Lăng
Nghiêm, đức Phật đều nói như vậy. Khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đem kinh Kim Cang
giảng cho Lục tổ Huệ Năng nghe, đến đoạn “bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất
ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm”, Lục Tổ ngay đó đại ngộ, thấy tất cả muôn pháp chẳng lìa Tự
tánh, liền thưa với Ngũ Tổ rằng: “Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu
ngờ Tự tánh vốn không sanh diệt, đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ, đâu ngờ Tự
tánh vốn không dao động, đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp.” Rõ ràng kinh
Kim Cang cũng chỉ thẳng sáu căn là gốc trầm luân, sáu căn cũng là nhân
giải thoát.
Ngày nay chúng tôi nương theo ý kinh để hướng dẫn quí vị ứng dụng tu trong
hiện tại. Như ở phần một, qui sáu căn về Chân tâm. Mắt biết thấy là Chân
tâm, tức là khi mắt nhìn cái gì, đẹp xấu không cần nghĩ, vừa thấy liền nói
“mắt biết thấy là Chân tâm” thì hết nghĩ. Tai nghe tiếng nói “tai biết
nghe là Chân tâm”. Thân xúc chạm nói “thân biết xúc chạm là Chân tâm”. Mũi
biết ngửi mùi nói “mũi biết ngửi là Chân tâm”. Lưỡi biết nếm nói “lưỡi
biết nếm là Chân tâm”. Ý biết pháp trần nói “ý biết pháp trần là Chân
tâm”. Sáu căn vừa tiếp xúc với sáu trần đều kéo nó trở lại Chân tâm, không
cho chạy theo sáu trần. Tu như vậy có trái với lời Phật dạy không? Nếu sáu
căn thả theo sáu trần thì trầm luân sanh tử. Sáu căn biết chặn lại, trở về
Chân tâm là nhân giải thoát.
Pháp tu này rất thực tế, mỗi khi chúng ta đối duyên xúc cảnh đều chặn
đứng, không cho sáu căn dính mắc với sáu trần. Chận đứng bằng cách kéo về
Chân tâm. Tôi gọi phương tiện này là đòn phủ đầu, không cho mấy chú vọng
tưởng chạy tiếp. Nó vừa trồi lên mình nói “là Chân tâm” thì nó dừng lại.
Đây là một phương tiện tu, dành luôn cho những người sơ cơ, mới bước chân
vào con đường thiền.
Trong phần thứ nhất này, tôi lại chia làm hai:
1. Ba căn đầu là mắt, tai và thân, sử dụng lúc tiếp xúc bên ngoài và khi
ngồi thiền. Mắt biết thấy là Chân tâm, tai biết nghe là Chân tâm, thân
biết xúc chạm là Chân tâm. Đi, đứng, nằm, ngồi chúng ta đều tu được hết.
2. Ba căn sau là mũi, lưỡi và ý. Mũi biết ngửi mùi, lưỡi biết nếm vị, hai
căn này lâu lâu mới tiếp duyên, chớ không thường xuyên. Ý biết pháp trần,
căn này nằm sâu ở bên trong. Ba căn này ít đối duyên xúc cảnh, ba căn trên
chúng ta sử dụng thường xuyên, nên dễ ứng dụng tu. Mắt biết thấy, tai biết
nghe, thân biết xúc chạm.
Trước kia mắt biết thấy chúng ta phân biệt đẹp xấu, tai biết nghe phân
biệt phải quấy, thân biết xúc chạm phân biệt cái này thích, cái kia không
thích v.v… Bây giờ mắt vừa thấy, mình biết nó là Chân tâm, tai vừa nghe là
Chân tâm, thân vừa xúc chạm là Chân tâm. Chúng ta có sẵn Chân tâm, nên
thấy nghe xúc chạm đều biết. Cái biết đó là biết chặng đầu, thuộc về Chân
tâm. Nếu để qua chặng thứ hai, thứ ba thì thuộc về vọng tưởng, vọng thức.
Chúng ta chận ngay ở chặng đầu, không để cho sáu căn vướng mắc sáu trần,
đó là chỗ dụng công tu hành.
Nếu khi ngồi thiền chúng ta dụng công thế nào? Khi ngồi thiền sử dụng ba
căn sau nhiều. Tuy nhiên, ba căn sau không riêng có, mà có cả ba căn trước
nữa. Vì mắt không tiếp xúc bên ngoài, tai không nghe, thân không xúc chạm…
nên chúng ta chỉ thầm nhắc thôi. Quí vị cứ nhắc “mắt thấy sắc là Chân tâm,
tai nghe tiếng là Chân tâm, thân biết xúc chạm là Chân tâm, mũi biết ngửi
mùi là Chân tâm, lưỡi biết nếm vị là Chân tâm, ý biết pháp trần là Chân
tâm”. Cứ lặp tới lặp lui sáu căn đều sẵn có tâm. Lặp tới lặp lui cho tới
bao giờ suốt giờ ngồi thiền chỉ nhớ ròng sáu điều này, không nhớ cái gì
khác. Đó là đã thuần thục.
Bước thứ nhất tôi gọi là giới. Tại sao? Vì mắt thấy sắc, tai nghe tiếng
v.v… nếu không chận lại, nó chạy rong ra ngoài thì phá trai phạm giới. Bây
giờ vừa thấy sắc, vừa nghe tiếng, chúng ta đã chận lại, kéo về Chân tâm,
ngăn ngừa sáu căn không cho vướng mắc sáu trần. Đó là giữ giới mà không
thấy giữ. Đây là tu bước thứ nhất. Khi đã thuần thục bước đầu rồi, chúng
ta bước qua giai đoạn thứ hai. |