CƯƠNG LĨNH PHÁP TU THIỀN BIẾT CÓ CHÂN TÂM
(TIẾP THEO)
Giai đoạn thứ hai, tu khi nhận ra Chân tâm. Ở trên chúng ta đã nhận ra nơi
sáu căn đều sẵn có Chân tâm, đến đây không còn đi theo sáu căn để tìm Chân
tâm nữa, mà nhận ra mình thật có Chân tâm. Bấy giờ có hai việc:
1. Khi nhận ra Chân tâm thì đi, đứng, nằm, ngồi đều nhẩm đi nhẩm lại câu
“Chân tâm hiện tiền”. Vừa thấy cái gì, vừa nghe cái gì liền nhớ “Chân tâm
hiện tiền”, trở về mình chớ không chạy theo bên ngoài.
2. Nhẩm đi nhẩm lại như vậy cho thuần thục, đến khi nào trong đầu liên tục
“Chân tâm hiện tiền, Chân tâm hiện tiền”. Tuy nhiên, ở giai đoạn này chúng
ta chỉ biết Chân tâm qua ngôn ngữ, qua lời nói của mình. Sự thật ta chưa
thấy được Chân tâm, chưa sống được với Chân tâm. Song nhờ nhớ Chân tâm
hiện tiền nên không nhớ chuyện khác. Ngồi thiền nhớ Chân tâm hiện tiền,
không suy tính, không nói gì. Đó là mượn ngôn ngữ Chân tâm hiện tiền chận
đứng những nghĩ tưởng, lần lần tâm yên. Chỉ nhớ Chân tâm hiện tiền tạm gọi
là định. Vì tâm không chạy theo các cảnh duyên bên ngoài và vọng tưởng bên
trong nên thuộc về định.
Nhớ mãi như vậy chưa phải chỗ cuối cùng, mà chúng ta cần chuyển qua giai
đoạn thứ ba. Tới giai đoạn thứ ba là cay đắng nhất, bởi vì hai giai đoạn
trước có thể năm tháng, bảy tháng được, chớ giai đoạn thứ ba này có thể
năm năm, mười năm không biết qua được chưa? Qua được mới thể nhập Chân
tâm. Chân tâm còn gọi là Phật tánh, chân lý… nhiều tên nhưng tên nào cũng
qui về một cái đó thôi. Vì vậy nói Chân tâm cũng được, nói Phật tánh cũng
được, nói chân lý cũng được, nhưng phải đúng nghĩa của nó.
Bây giờ làm sao thể nhập được Chân tâm? Trước hết chúng ta định nghĩa Chân
tâm là gì? Chân tâm là từ gọn trong các kinh chữ Hán. Nếu hiểu một cách
đơn giản thì chân là chân thật, tâm là cái biết của mình. Cái biết chân
thật gọi là Chân tâm. Nhưng biết chân thật là biết làm sao? Chữ Hán nói
Chân tâm là “liễu liễu thường tri”. Liễu liễu là rõ ràng, thường
tri là thường biết, đọc đổi lại là thường biết rõ ràng. Cái thường biết rõ
ràng là Chân tâm.
Như vậy ở đây tôi định nghĩa Chân tâm là thường biết rõ ràng. Thường biết
rõ ràng mà không nghĩ cái này, nghĩ cái kia. Nên nói thường biết rõ ràng
mà không niệm, tức không có vọng niệm khởi lên. Quí vị ngồi
nhìn ra vườn thấy cây cối xinh tươi, đừng khởi niệm gì khác, đó là sống
với Chân tâm. Vừa thấy cây cối xinh tươi liền so sánh cây này đẹp, cây kia
xấu là mất Chân tâm.
Thế thì có ai không có Chân tâm? Chúng ta biết thấy, biết nghe, biết xúc
chạm v.v… cái biết đầu đó là cái biết của Chân tâm, qua niệm thứ hai, thứ
ba là qua vọng tưởng, vọng thức, không còn Chân tâm nữa. Chúng ta tu nên
khéo dừng ở bước đầu, đừng để bị lôi qua lớp thứ hai, thứ ba. Thấy chỉ
biết thấy, nghe chỉ biết nghe, không thêm bớt chi khác, vừa có thêm bớt là
đã lạc qua thức rồi. Ví dụ quí vị thấy hoa là hoa, nếu thấy rồi so sánh
hoa này với hoa kia tốt xấu v.v… là hết Chân tâm. Nếu cả ngày thấy hoa là
hoa, người là người, cảnh là cảnh, đó là Chân tâm, đang sống trong Chân
tâm. Như vậy Chân tâm tìm ở đâu? Nó sẵn nơi sáu căn, đâu cần tìm ở đâu.
Chỉ biết dừng ở niệm đầu thì sống với Chân tâm, nếu đi quá niệm đầu thì
mất Chân tâm. Như thấy đứa bé, chúng ta biết đây là đứa bé, nhưng thường
mình có dừng ở đó không? - Không. Đứa bé này dễ thương quá! Như thế là qua
niệm thứ hai thứ ba, không còn niệm ban đầu nữa. Tất cả sự vật khác cũng
thế.
Người biết tu không phải nhắm mắt, bịt tai, vẫn thấy như mọi người mà tu.
Còn chúng ta vừa thấy, vừa nghe liền có lộn xộn, thành ra tu hoài không có
kết quả, rồi kêu trời sao tu khó quá! Khó từ đâu? Ông Thánh nào đem cái
khó đến cho mình? Chính chúng ta không làm chủ được, ngay chỗ dừng mình
không dừng, cứ tiếp tục phóng tâm, tất nhiên tu sẽ khó. Nếu biết dừng thì
việc tu không khó.
Trên đường tu chúng ta phải nắm cho thật vững cái nào chân, cái nào không
phải chân. Chân tâm là sống trở về Bản tâm, Bản tánh của mình, còn phân
biệt khen chê, phải quấy, tốt xấu là đi trong trần tục. Đi sâu trong trần
tục thì nhắm mắt về đâu? Thì sẽ gặp lại những người ân oán với mình mà trả
đền. Như vậy trầm luân tại sáu căn, mà giải thoát cũng từ sáu căn. Đường
lối này mới nghe qua thấy lạ nhưng sự thật không lạ, y theo kinh, y theo
các Thiền sư mà hành, không có gì lạ hết. Nhưng muốn phân biệt rành rõ
từng chặng, từng quãng, chúng tôi chia ra từng phần như vậy cho quí vị dễ
thấy biết.
Chân tâm là thường biết rõ ràng mà không có niệm, không dấy lên khen chê
tốt xấu… do đó cả ngày sống trong Chân tâm. Nếu cứ nhìn cái này, cái nọ
sanh ra khen chê thì cả ngày sống trong thói quen của thế gian, tạo nghiệp
trầm luân sanh tử. Người biết tu và người không biết tu đồng thấy một sự
vật mà hai bên khác nhau. Khác nhau chỗ nào? Chỗ thế gian gọi khôn với
dại. Người không phân biệt bị chê dại, người phân biệt thế này thế nọ, hay
dở tốt xấu tưởng là khôn. Nhưng cái khôn đó là khôn trầm luân, còn cái khờ
này là khờ giải thoát, vì vậy các Thiền sư đâu có lanh lợi.
Những kẻ lanh lợi quá chưa chắc đã làm được điều gì, chưa chắc tu được kết
quả. Phải lặng lẽ, thấy biết như nhau. Một bên đuổi theo phân biệt, một
bên dừng phân biệt. Thấy biết mà không khởi niệm phân biệt, đối chiếu so
sánh, đó là sống với Chân tâm. Như vậy chúng ta cùng đi, cùng sinh hoạt
như mọi người mà vẫn tu được, nếu không thì cứ so sánh đối chiếu, khen
chê… Tôi ngồi trong thất nghe quí cô, quí thầy làm cỏ ngoài vườn, dẫn hết
chuyện này tới chuyện nọ, năm trên năm dưới, rù rì rủ rỉ hoài, tôi thấy
tội nghiệp quá. Sao mà dừng không được! Làm cỏ thì cứ làm cỏ, chuyện năm
trên năm dưới bỏ qua đi, vậy mà có ai chịu đâu. Làm thinh lại buồn. Có gì
đâu mà buồn, mình cứ lo nhổ cỏ.
Trên phương diện tu hành chúng ta khéo một chút thì dễ tu, ngược lại không
khéo trường hợp nào cũng khó tu. Quí vị thấy khi kể chuyện đời xưa toàn
khen chê. Khen người này hay, chê người kia dở, kể hoài kể hoài không hết,
nhưng rốt cuộc được cái gì? Hay của người ta mà dở cũng của người ta. Thực
tế của mình bây giờ không lo, cứ lo chuyện thiên hạ! Đó là khuyết điểm
giới tu sĩ đang có, tôi nhắc cho quí vị nhớ.
Chữ thường biết rõ ràng, ý nghĩa ra sao? Thường là mãi mãi, lúc nào cũng
biết, chớ không phải như cái suy nghĩ khi có khi không. Cái biết của suy
nghĩ, cái biết của phân biệt khi có khi không, còn cái biết của Chân tâm
liên tục, từ thủy tới chung không bao giờ gián đoạn. Chúng ta bây giờ,
biết do suy nghĩ tính toán, cái biết đó nằm trong sanh diệt. Quí vị vừa
khởi nghĩ tốt xấu, hơn thua, khi buông ra hỏi cái nghĩ lúc nãy đâu, tìm
không biết nó ở đâu. Cứ một lát lại phát nghĩ tứ tung. Khi khởi không biết
nó ở đâu, khi dừng cũng không biết ở đâu. Như thế nó thật hay giả? Khởi
lên thì có, buông đi không biết ở đâu, kiếm không ra, làm sao thật được.
Còn Chân tâm ở sáu căn có lúc nào thiếu không? Lỗ tai cứ nghe, con mắt cứ
thấy, thân biết xúc chạm, động tới chỗ nào không biết? Ngủ động tới cũng
biết. Một cái thường biết, một cái biết sanh diệt, vậy cái biết nào chân,
cái biết nào vọng? Chúng ta kiểm lại xem mình đang sống với cái biết nào?
Chắc cả khối vọng tưởng, hết nghĩ cái này đến nghĩ cái kia, hết khen người
này đến chê người nọ. Cứ thế cả ngày từ sớm đến chiều. Người nào khen chê
nhiều thì nói chuyện nghe say mê.
Ở đây chúng ta chỉ biết cái gì sẵn nơi mình, vì có sẵn nên lúc nào cũng
biết. Tất nhiên khi ngủ, con mắt nhắm nhưng giả sử ai mở đèn mình cũng
biết. Lỗ tai khi ngủ không nghe, nhưng có người đến gõ cộp cộp mình cũng
nghe. Nó sẵn sàng, không thiếu nên thường biết. Chữ thường biết là như
vậy, chớ không phải thường biết chỗ khác. Ngay nơi sáu căn lúc nào cũng
biết, đó gọi là thường biết. Biết thế nào? Biết một cách rõ ràng.
Chữ rõ ràng này tôi cần nói cho quí vị hiểu rõ. Rõ ràng là ngay nơi hiện
tại. Như khi chúng ta nhớ những chuyện cũ, đó là cái biết ôn lại từ quá
khứ. Hoặc ta tính toán những chuyện tương lai, đó là cái biết ở vị lai do
mình suy tưởng. Ôn quá khứ rồi suy tưởng vị lai, cái biết đó thuộc gì?
Thuộc vọng tưởng hay vọng niệm. Còn cái biết thấy thì biết, nghe thì biết,
không nghĩ tưởng, không suy tính, đó là cái biết Chân tâm.
Nơi mình cái biết Chân tâm sẵn sàng, đầy đủ ở sáu căn mà chúng ta không
thèm nhớ, lại nhớ cái biết sanh diệt lộn xộn, rồi buồn, thương, giận,
ghét… không yên, còn nói tu khó quá! Cái thật không nương tu, cứ ôm cái
giả không khó sao được, tu muôn kiếp cũng không thành Phật được. Cái thật
nhớ chỉ nửa phần trăm thôi, còn cái giả ôm ấp từ sớm tới chiều, cho tới
ngủ cũng còn vọng tưởng, mộng mị đủ thứ hết. Người thật tu chỉ sống với
cái thật thôi. Vì vậy họ hơi khờ khờ, ít nói, không lanh lợi. Bởi họ nhớ
chuyện của họ, chớ đâu nhớ chuyện của ai. Ngược lại, người ít tu thì lanh
lợi lắm, ngồi lại tía lia hết chuyện này đến chuyện nọ.
Người biết tu thích sống với cái thật của chính mình. Trong nội tâm, tôi
tạm chia có hai phần: tâm sanh diệt và tâm không sanh diệt. Tâm sanh diệt
là tâm vọng tưởng nổi lên hụp xuống liên tục không dừng. Tâm không sanh
diệt là cái thường biết rõ ràng ở sáu căn. Chúng ta phải sống với cái nào?
Ai cũng quen sống với tâm sanh diệt. Tâm không sanh diệt thì không bị luân
hồi, còn tâm sanh diệt theo các thứ buồn thương giận ghét, tạo thành
nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử.
Biết rõ hai thứ như vậy mà không nhận, không sống với Chân tâm, đó là
người đáng thương. Có mà không dùng nên Phật nói chúng sanh mê muội đáng
thương! Phật thương là thương mê muội, không phải thương nghèo đói. Chúng
sanh cứ sống với cái hư dối rồi hơn thua, phải quấy cả ngày, không bao giờ
dừng. Cuối cùng than khổ, than khó, than cuộc đời đủ thứ chuyện. Cuộc đời
đủ thứ chuyện, nhưng chuyện của người ta, chớ có phải chuyện của mình đâu
mà xen vào, rồi than!
Người biết tu, giả sử ai nói thẳng vô mặt “anh hay chị xấu quá”, mình
không xấu mình biết là được, chớ chạy theo bên ngoài rồi đua với nhau,
tranh hơn thua chỉ khổ thôi. Cho nên tu cả ngàn, hai ba ngàn người nhưng
kiểm lại, người đạt được đạo lý chỉ trên đầu ngón tay. Đa số tu gieo duyên
thôi, không chịu hết sanh tử. Sanh tử do mình, không phải ai tạo, mình
không chịu dừng thì làm sao hết được? Muốn dừng đâu có khó. Như ai không
ưa, mắng mình “đồ ngu, cả ngày lừ đừ”, mình cười nói “ừ ngu cũng được”.
Ngu mà hết sanh tử càng tốt, người khôn nhưng đi trong luân hồi thì ai
hơn? Vừa nghe nói ngu liền muốn cự lại, để giành nhau đi trong sanh tử.
Như vậy ai khôn, ai ngu? Chúng ta ở đời cứ bị lệ thuộc người khác. Ai vừa
chọc tức liền nổi ầm ầm lên, chê người ta xấu mình cũng không tốt gì. Cho
nên phải làm sao giữa người tu và người không tu khác nhau.
Chúng ta nhớ lại sự tích các vị Tổ, các vị Bồ-tát hồi xưa, có vị nào tu
một đời thành Phật đâu, phải trải qua nhiều đời. Có vị nào trong khi tu mà
đánh lộn với nhau không? Bây giờ ở chùa thỉnh thoảng có không? Không đánh
cũng mắng thầm, nói lén, không bao giờ yên hết. Vì vậy chúng ta phải xét
lại sự tu của mình. Tu là sống trở về Chân tâm, cái thường biết rõ ràng.
Quá khứ thuộc về niệm, vị lai thuộc về tưởng. Tưởng nhớ quá khứ, vị lai đó
là vọng niệm. Người tu biết niệm vọng tưởng phải bỏ. Ở đây dùng chữ không
niệm là không ôm quá khứ, không suy tính vị lai, chỉ sống ngay hiện tại
cho nên rõ ràng thường biết. Như vậy mới gọi là không niệm.
Chúng ta ngồi yên mà nói loạn tưởng là loạn tưởng cái gì? Hoặc nhớ quá
khứ, hoặc tưởng vị lai. Đó gọi là vọng niệm. Bây giờ không chạy theo niệm
quá khứ, vị lai, chỉ sống với cái hiện tại, như vậy có định không? Tỉnh
táo mà không nhớ, không nghĩ chuyện gì xa xôi, cứ ngay trong hiện tại mà
sống, đó là đang định, đang sống với Chân tâm. Chân tâm không thiếu, không
vắng mặt lúc nào hết. Vậy nhưng chúng ta bỏ Chân tâm hay Chân tâm bỏ chúng
ta? Chân tâm sờ sờ ở đó mà cứ chạy kiếm cái khác, không chịu sống cho thực
tế với cái đang có. Vì vậy tôi khuyên quí vị tu phải nhớ Chân tâm của
mình.
Chân tâm thì không có niệm. Tại sao? Không nhớ quá khứ, không tưởng vị lai
nên không có niệm. Chỉ sống thực tế ngay hiện tại thôi. Tới giai đoạn này
là thể nhập Chân tâm. Ban đầu chúng ta phải biết rõ Chân tâm là gì. Kế nói
Chân tâm là không niệm, dứt khoát sống với Chân tâm là không cho niệm
khởi. Vì niệm khởi thuộc quá khứ, vị lai, chỉ sống ngay trong hiện tại là
sống với Chân tâm.
Tập mãi cho đến khi thuần thục, chỉ còn hai chữ không niệm. Chúng ta tu
không phải dùng ngôn ngữ nói hoài. Ban đầu nói để thâm nhập, khi thâm nhập
rồi thì buông ngôn ngữ, chỉ sống không niệm. Không nghĩ quá khứ, không
tưởng vị lai, sống hiện tiền, nhẹ nhàng, thảnh thơi làm sao. Hiện tại như
thế nào biết như thế ấy, đó là sống với Chân tâm. Chân tâm là biết rõ
ràng, mà chỉ có hiện tại mới rõ ràng. Ngồi đây thấy người, thấy vật rõ
ràng, nghe tiếng động rõ ràng, không có niệm thuộc về quá khứ hoặc tưởng
tượng vị lai. Người sống như thế là hết vọng tưởng.
Ở đây không có gì để đè, để dằn vọng tưởng, mà phải thấy như thật. Vọng
tưởng là niệm của quá khứ, quá khứ đã qua đâu còn, tưởng vị lai nhưng vị
lai chưa đến nên đâu có. Như chúng ta tưởng mai mình tới thăm huynh đó, sẽ
nói gì với huynh, nhưng tới nơi người ta không có ở nhà. Tính chi trước,
mất công vậy? Tới đó gặp nhau nói gì thì nói, tính trong đầu tùm lum, sự
thật không đúng như vậy. Chúng ta phải hiểu, đừng phí thời gian vô ích,
phải sống ngay trong hiện tại. Đó là sống với Chân tâm.
Người biết tu không phải giờ ngồi thiền mới tu, không phải đi kinh hành
mới tu mà lúc nào cũng tu hết. Ngồi nhìn sự vật không có niệm quá khứ, vị
lai. Ngồi không có chuyện gì hết thấy thảnh thơi, cười thôi. Còn chúng ta
nhớ chuyện quá khứ ai mắng mình, mặt mày méo xẹo, khổ chuyện năm trên năm
dưới, sao không sống ngay bây giờ?
Rút gọn lại Chân tâm là không niệm. Nhiều khi đi kinh hành vừa nhớ chuyện
gì tôi liền nói Chân tâm là không niệm, có niệm thì không được rồi. Cứ
thấy đường thì đi, đi tự tại, không cho mấy chú đó chen vô. Như vậy chúng
ta tu trong mọi hành động đều dễ dàng, chớ không khó. Tập mãi cho đến khi
thuần thục, chỉ còn hai chữ “không niệm”. Đi đâu cũng nhớ không niệm.
Nhưng còn hai chữ “không niệm” cũng là còn từ ngữ, chưa phải cái thật
không niệm. Cho nên tới giai đoạn cuối cùng buông luôn hai chữ “không
niệm” thì tâm thênh thang và còn mãi. Hai chữ “không niệm” không nhớ nữa,
tâm không có mảy may gì khác. Thảnh thơi, nhàn hạ, không có một niệm dấy
khởi, lúc đó tâm mình ở đâu? Bao lớn? Mở mắt ra thấy Chân tâm rồi. Chân
tâm luôn hiện tiền, trùm khắp, không thiếu vắng lúc nào hết, mà tại mình
bỏ quên. Vừa thấy khởi phân biệt tốt xấu, vừa nghe khởi phân biệt khen
chê, do đó Chân tâm bị bỏ quên.
Bây giờ mình thấy cứ thấy, không khởi phân biệt, nghe cứ nghe, không thèm
nói hơn thua, như vậy là đang sống trong Chân tâm. Đi đâu, nằm ngồi cứ thế
ấy thì sống được với Chân tâm. Còn ngồi thiền nhìn xuống lim dim mà nhớ
chuyện năm ngoái, năm kia thì thiền hay vọng tưởng? Ở ngoài nhớ ít, vô
ngồi thiền nhớ càng nhiều nữa. Nhớ chuyện này chưa rồi nhớ chuyện khác,
nói tu mà không có kết quả đúng như thật.
Chúng ta phải biết tu là sống trở về với Chân tâm của mình. Lối tu này
không sợ lạc, vì đâu có đi kiếm gì mà lạc. Bỏ điên đảo vọng tưởng sống với
cái chân thật của mình, được nhiều hoặc ít vậy thôi chớ không lạc. Đó là
điểm thứ nhất. Thứ hai mình không tưởng tượng gì hết, chỉ buông những gì
vô lý, sống với Chân tâm của mình. Người tu cứ tưởng thế này thế nọ dễ
phát điên lắm.
Tôi khi trước cũng bị lầm, ngồi thiền kềm cho hết vọng niệm, nghĩ như vậy
là định. Nhưng đó là bệnh, có khi mất ngủ, có khi đau đầu. Bây giờ tôi
ngồi thiền như ngồi chơi vậy thôi. Hiện tại mình đang sống trong Chân tâm,
mắt thấy tai nghe trong Chân tâm, ngồi như bình thường rất khỏe. Chúng ta
đi, đứng, nằm, ngồi trong hiện trạng bình thường, không cần nhắc mà tâm
cũng an nhiên. Đó là tu sâu.
Tôi thường ví dụ, như có người nói “anh nói chuyện thấy ghét quá, tát tai
anh cho coi”, nhưng người ta không tát thì có thành đánh không? Nói tát
tai không phải là đánh, chừng nào cái tay của họ đụng mặt mình mới là
đánh, còn nói trên miệng thôi chưa phải đánh. Cũng thế, chúng ta nói không
niệm nhưng chưa thật không niệm, chừng nào buông hai chữ “không niệm”, tâm
mình vẫn thản nhiên tự tại mới thật là không niệm.
Chúng ta đi từng bước, từ có hình thức, lần lần có ngôn ngữ, đến buông
hình thức, buông ngôn ngữ. Khi ấy mới sống thật trở về Chân tâm. Sống được
vậy ngày mai ra đi không sợ luân hồi. Luân hồi do niệm, niệm tạo nghiệp
thương ghét dẫn chúng ta đi trong luân hồi. Bây giờ hết niệm thì ai dẫn
đi? Cho nên Thiền tông nói giải thoát sanh tử ngay trong kiếp này, nếu
mình sạch hết niệm, vô niệm thì ra khỏi sanh tử. Còn cứ niệm hoài thì còn
sanh tử. Con đường tắt của Thiền là ở chỗ đó, nên gọi “trực chỉ nhân tâm,
kiến tánh thành Phật”, nghĩa là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật.
Đường lối tu này không phải tự ý tôi đặt ra, mà đã có sẵn trong kinh Phật,
các Thiền sư xưa nay đã từng nói. Tôi sẽ dẫn kinh cho quí vị thấy.
Phật nói kinh Kim Cang, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn giảng cho Lục Tổ nghe đến đoạn:
“Trưởng lão Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Hi hữu Thế Tôn, Như Lai thiện hộ niệm
chư Bồ-tát, thiện phó chúc chư Bồ-tát. Thế Tôn! Thiện nam tử, thiện nữ
nhân phát A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề tâm, vân hà ưng trụ, vân hà hàng
phục kỳ tâm? Phật cáo Tu-bồ-đề: Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị sanh
thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị,
xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Nghĩa là Trưởng lão
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Rất ít có, đức Như Lai khéo hộ niệm các
vị Bồ-tát, khéo phó chúc các vị Bồ-tát. Bạch Thế Tôn! Người thiện nam,
người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên làm sao trụ,
làm sao hàng phục tâm kia? Phật bảo: Tu-bồ-đề! Các Bồ-tát lớn nên như thế
mà sanh tâm thanh tịnh, không nên trụ sắc sanh tâm, không nên trụ thanh,
hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia.
Phát tâm cầu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là cầu giác ngộ thành Phật.
Làm sao an trụ được tâm đó? Ở đây Phật bảo: Chư Bồ-tát ma-ha-tát
(tức là Bồ-tát lớn) không nên trụ nơi sắc mà sanh tâm, không nên trụ
thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà cầu Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như vậy muốn thành Phật, chúng ta đừng vướng
mắc với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tại sao không vướng
mắc? Vì sáu trần không thật. Nếu chúng ta đeo đẳng cái không thật làm sao
giác ngộ được.
Giai đoạn trước tôi dạy quí vị tu phải thấy các pháp huyễn hóa, là không,
ngồi thiền mới yên định. Tâm yên định lần lần vọng tưởng lặng, Chân tâm
hiện tiền. Tôi nói như vậy, tu như vậy và khuyên quí vị tu như vậy. Song
có một điều khó xử là cái nhà, cái cây, tất cả những gì có hình tướng, nói
không đâu được. Như ngôi chùa hiện giờ, chỗ này trước kia không có, do
chúng ta dẹp trống cây cối, từ từ xây dựng lên ngôi chùa. Ngôi chùa có
nhưng từ cái không tạo thành có, vậy cái có đó thật hay giả? - Giả. Nhưng
ngôi chùa hiện diện đây, nói giả người ta không chịu. Hơn nữa mình nói
ngôi chùa không thật, nhưng ai đến đập phá mình chịu không? Họ nói không
thật, tôi đập có gì tiếc? Vậy là mình mắc kẹt. Nói nó không, mắc kẹt đủ
thứ hết. Nói thân này không, giả, vậy đói bụng có kêu rên không? Giả mà
kêu rên gì? Chúng ta cũng mắc kẹt. Nói thân không mà phải ăn uống. Thành
ra người ta đặt nhiều vấn đề khiến mình bị kẹt.
Bây giờ chúng ta đi thẳng vô có. Anh có Chân tâm, chị có Chân tâm v.v… Ai
cũng có Chân tâm thì mọi người yên lòng, đâu ai thua ai. Song Chân tâm là
gì, ở đâu? Đó là một vấn đề. Như tôi đã nói rõ Chân tâm là cái thường biết
rõ ràng mà không vọng tưởng, không niệm khởi. Nó ở đâu? Ở khắp sáu căn,
chỗ nào cũng có Chân tâm. Ví dụ bất thần con muỗi cắn vào mặt, chúng ta
đâu cần suy nghĩ, nghe cắn biết liền. Có suy nghĩ là tâm vọng tưởng, không
suy nghĩ mà đụng tới biết liền, đó là gì? Là cái bàng bạc của Chân tâm. Từ
đầu tới chân lúc nào nó cũng hiện hữu. Tuy chúng ta không thấy nhưng đụng
việc có cảm giác rõ ràng.
Chúng ta có Chân tâm là cái biết thường xuyên nhưng không màng tới, cứ
chạy theo cái biết lăng xăng lộn xộn. Cứ suy nghĩ chuyện đâu đâu không
dính dáng gì, suy nghĩ chuyện đời sau đời trước lung tung, không thực tế
còn cái biết thực tế lại bỏ quên. Tu thiền là sống trở lại Tâm chân thật
của chính mình, lúc nào cũng hiện hữu. Trở lại cái đó mới biết con người
chân thật không sanh không diệt. Hiện tại sống được với Chân tâm không
sanh diệt thì khi thân này hoại sẽ tùy duyên, hoặc là đi trong lục đạo
hoặc là giải thoát ra khỏi lục đạo, tùy theo nguyện của mình.
Hiện tại chúng ta đang tu, Phật dạy tu bất cứ pháp môn nào cũng đều đi đến
chỗ nhất tâm bất loạn. Như người tu Tịnh độ, Phật dạy niệm Phật tới nhất
tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là sao? Là chỉ còn cái biết chân thật mà
không có niệm nào. Chúng ta tu Thiền cũng định. Định cái gì? Định tâm lăng
xăng. Khi tâm lăng xăng dừng, mình biết không? Tâm lăng xăng dừng chớ cái
biết vẫn hiện tiền. Dừng tất cả tâm sanh diệt, hư dối để sống lại Tâm chân
thật của chính mình. Đó là đường lối tu cụ thể, thực tế chớ không phải mơ
màng.
Rất tiếc con người cứ đuổi theo cái hư giả, nghĩ đông nghĩ tây cho là tâm
mình. Cái hư giả đó tạo nghiệp, dẫn mình đi trong sanh tử luân hồi. Nếu
trở về Tâm chân thật thì không bị chi phối bởi nghiệp, vì tâm đó làm gì có
nghiệp. Như tôi đã nói buông luôn hai chữ “không niệm”, tâm lặng yên không
còn một niệm dấy lên mới thật không nghĩ. Còn chỉ nói “không niệm” trên
miệng, hài lòng như vậy là yên ổn rồi thì không được. Bởi vì nói “không
niệm” là dụng của ngôn ngữ, chưa phải qua cái chân thật. Tới phút chót
không còn một niệm nào, lời nói “không niệm” cũng không, tâm tự an nhiên,
không một niệm dấy khởi. Không có một niệm dấy khởi, khi ấy chết đi đâu?
Thường thường nhà Phật nói chết đi theo nghiệp. Nghiệp do ý niệm lăng xăng
gây tạo thích cái này, ưa cái kia nên chết đi theo cái ưa thích đó. Bây
giờ không có một niệm gì thì đi đâu, theo ai? Không có một niệm thì
tâm thênh thang còn mãi. Tâm thênh thang là sao? Tâm không có một
niệm thì không có tướng, không có một niệm thì không có động. Không tướng,
không động thì đồng với thể hư không. Đồng thể hư không thì tâm đồng với
hư không, hòa nhập được với hư không, đó là Pháp thân. Cho nên
biết tâm hòa nhập được với hư không là Pháp thân. Pháp thân thì bất
diệt cho nên còn mãi, không có sanh tử nữa, giải thoát sanh tử.
Như vậy muốn đi đến giải thoát sanh tử, phải là Tâm chân thật, buông hết
niệm sanh diệt. Không còn một niệm thì đâu có nghiệp nào dẫn mình được, mà
không còn một niệm thì tâm đồng thể với hư không. Đồng thể với hư không
thì bất sanh bất diệt, còn mãi. Không chết, không sanh trở lại đó là giải
thoát sanh tử. Chúng ta tu giải thoát là như vậy. Ngay trong đời này buông
hết không còn một niệm, chỉ còn cái thường biết rõ ràng. Tới lui qua lại
mà không có niệm nghĩ thì nhắm mắt tâm đồng với hư không. Đó là thể nhập
Pháp thân. Khi đó nếu có sanh tử lại, được gọi là Ứng thân, Hóa thân để độ
chúng sanh, độ những người có duyên, chớ Pháp thân không có sanh tử.
Trong nhà thiền nhất là Thiền tông, lấy vô niệm làm tông, nhưng chỗ cuối
cùng không còn một niệm. Chỗ không còn một niệm đó là tông chỉ của nhà
Thiền. Như vậy ngay trong đời này chúng ta có thể giải thoát sanh tử. Các
Thiền sư hay nói người không khéo tu phải trải qua ba vô số kiếp mới thành
Phật. Quí vị có ngán không? Một kiếp này còn thấy dài, huống là ba vô số
kiếp! Nhưng tu theo lối này là trực chỉ. Nếu nhận ra ngay kiếp này, hết
niệm đi tới chỗ tâm đồng hư không thì mình thể nhập Pháp thân, rồi tùy
duyên có Ứng thân Hoá thân. Như vậy ngay kiếp này mình có thể tu giải
thoát sanh tử chớ không phải xa. Vì vậy Thiền tông là con đường tắt gần
nhất để đi đến giải thoát sanh tử.
Lâu nay chúng ta chịu tu sơ sơ thôi. Vô chùa ăn chay trường, tụng kinh gõ
mõ ngày đêm hai thời thấy được rồi. Như vậy thì tâm sanh diệt đâu có dừng
cho nên sanh tử cũng không hết. Chúng ta tu thì phải đi tới chỗ giải
thoát, mà muốn giải thoát thì phải thực hiện từ cạn tới sâu.
Sống được với Chân tâm không còn niệm nào, chừng đó chúng ta mới thấy tâm
thênh thang. Ngày xưa tôi cũng ngờ, không biết tâm mình ở đâu? Cứ nghĩ
trong đầu, trong ngực mới là tâm mình, còn nói tâm trùm khắp làm sao tưởng
tượng nổi? Nhưng bây giờ tôi thấy được tâm mình thênh thang khắp bầu trời.
Tại sao? Chúng ta đặt câu hỏi lại “tâm là cái gì”. Tâm là cái biết. Như
quí vị nhìn lên bầu trời, không chú ý vào một vật gì hết, thấy bầu trời
lớn, nhỏ? Bầu trời thênh thang. Nếu nhìn lên đó, mình chú ý vào đàn chim
bay hay cụm mây thì tâm bao lớn? Nó gom lại chỗ cụm mây hay đàn chim, nên
bằng bấy nhiêu thôi. Cái biết tới đâu thì tâm mình tới đó, vì tâm là cái
biết.
Một hôm, Mã Tổ đi với Bá Trượng, thấy bầy chim bay qua, Ngài hỏi:
- Cái gì đó?
- Bầy chim le le bay.
- Bay đi đâu?
- Bay qua mất.
Ngài nắm lỗ mũi Bá Trượng vặn một cái. Bá Trượng đau quá la thất thanh. Mã
Tổ bảo:
- Sao không nói bay mất đi?
Ngay câu đó Bá Trượng ngộ liền. Ngộ được cái “không bay mất đi”. Chim bay
nhưng cái thấy của mình không có bay, nó vẫn nguyên vẹn. Như kinh Lăng
Nghiêm Phật đưa tay lên hỏi ngài A-nan:
- Có thấy không?
- Dạ thấy.
Phật để xuống hỏi:
- Thấy không?
- Dạ không thấy.
Phật quở. Đưa lên thì thấy, để xuống bộ mù sao không thấy? Cái tay ở ngoài
có đưa lên để xuống, cái thấy lúc nào cũng thấy. Đưa tay lên thì thấy tay
đưa lên, để xuống thì thấy không có tay, chớ không phải không thấy. Thấy
là biết. Chim bay qua thấy bay qua, cho nên nó bay mất phải trả lời “bây
giờ chim bay mất, con thấy vẫn thấy”. Mã Tổ véo lỗ mũi, Bá Trượng mới ngộ
đạo, biết rằng cái thấy của mình không bị giới hạn trước mắt hay ở chỗ có
hình tướng, mà nó trùm khắp. |