CƯƠNG LĨNH PHÁP TU THIỀN BIẾT CÓ CHÂN TÂM
(TIẾP THEO)
Quí vị khi nào ra biển đứng trên bãi nhìn biển khơi. Khi ta thấy chiếc tàu
đánh cá, sẽ không thấy toàn mặt biển, nếu không nhìn chiếc tàu mình sẽ
thấy toàn mặt biển. Để biết rằng tâm chúng ta bàng bạc, nhưng khi dấy
niệm, chú ý vào niệm thì mất cái bàng bạc, cái thênh thang của tâm. Vì vậy
Phật bảo phải dứt hết, đừng cho dính niệm nào. Không dính niệm nào giống
như nhìn ra biển, không chú ý vào chiếc tàu, mình thấy cả mặt biển. Nhìn
lên bầu trời không chú ý vào cụm mây, đàn chim, mình thấy cả bầu trời.
Thấy tới đâu thì tâm tới đó. Vì thấy là biết, biết là tâm.
Như vậy cần gì khổ hạnh lắm mới thấy được Chân tâm hiện tiền. Chỉ vì chúng
ta cố chấp sai lầm nên bỏ quên. Bây giờ mình nhìn cây cỏ, sự vật chung
quanh, nhìn thì nhìn nhưng không đặt vào một sự vật nào hết, tâm có kẹt
không? Đi hoài nhưng ai hỏi “có thấy gì không”, trả lời “không”. Nếu biết
rõ thì sự tu nhẹ nhàng, thanh thoát. Ngược lại, không biết rõ thì đi đâu
cũng chăm chăm nhìn xuống đất, để kềm cho cái đầu mình không nghĩ gì, nhìn
như vậy có khi bị nhức đầu. Đằng này ta nhìn trời, nhìn đất, nhìn đâu cũng
được hết, không cần phân biệt. Thấy là thấy thôi.
Tôi hỏi mấy chú Thị giả: Người đi kinh hành ngó xuống chăm chăm và người
đi kinh hành ngó trời ngó mây chơi, hai người đó tu thế nào? Người ngó
chăm chăm xuống đất là đang có vấn đề để theo dõi, nên không dám ngó chỗ
khác, sợ xao lãng. Còn người ngó trời, ngó mây mà không dính, có gì đâu sợ
xao lãng? Người đi kinh hành ngó xuống là tu theo pháp Nhị thừa. Đi phải
chăm chăm ngó xuống hoặc nhớ chân đang giở lên để xuống, nhớ theo từng
nhịp của chân, cột tâm ở dưới chân. Người tu ngó trời ngó mây mà không cột
cái gì hết là tu theo Thiền tông. Hai lối tu khác nhau nhưng quan trọng
cốt sống được với cái thật của chính mình.
Tâm là cái biết trùm khắp sáu căn. Căn nào cũng biết. Mắt biết, tai biết,
mũi biết, lưỡi biết, thân biết, ý biết. Tâm trùm khắp chớ không phải ở
trên đầu, trên trán, nhưng chúng ta hay bóp đầu bóp trán suy nghĩ. Suy
nghĩ như dòng điện chạy, lăng xăng một hồi rồi tắt, không có thật. Chúng
ta cho đó là tâm, bỏ quên cái bàng bạc trùm khắp. Chừng nào nhận được tâm
bàng bạc, không có hình tướng là thấy đường lối tu của Thiền tông rõ ràng.
Thiền tông là đi thẳng, đi thẳng như vậy nên không có gì ràng buộc. Các
Thiền sư tự do ghê lắm. Đi chơi tự tại, thảnh thơi nhưng không động niệm,
không kềm chế. Người tu kềm chế mới nhìn thấy nghiêm chỉnh, nhưng buông ra
dễ bị xao động.
Ở đây giai đoạn cuối là vô niệm, tức không có một niệm nghĩ suy nào. Lúc
đó nhắm mắt chúng ta sẽ đi tới chỗ tâm thênh thang. Ngang đây không còn
sanh tử nữa vì không còn nghiệp dẫn. Nghiệp dẫn khi tâm sanh diệt còn, tâm
sanh diệt không còn thì không có nghiệp nào dẫn được. Cho nên vô niệm là
giai đoạn cuối cùng để đi đến giải thoát sanh tử. Quí vị chịu vô niệm
không? Không nghĩ gì sợ ngu rồi cứ nghĩ, nghĩ nhiều, khôn ngoan lanh lợi
để tạo nghiệp đi trong sanh tử. Người tu đi tới chỗ vô niệm giống như ngây
như ngu vậy, không nhạy bén như người tính toán việc này việc nọ. Tôi nhớ
bài kệ của ngài Phước Hậu ngoài Bắc:
Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Đến nay tưởng lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ như.
Bây giờ tôi quên gần hết rồi, ai không gặp tôi quên tên. Có dám quên hết
mới thành tựu, chúng ta cứ nhớ người này, người kia, lanh lợi quá thì
không thành cái gì cả. Càng lanh lợi càng đi sâu trong sanh tử. Người xưa
đã sống như vậy, chúng ta bây giờ biết rồi cũng sống như vậy, không cần
nghĩ suy, không cần nhớ tưởng ai hết. Cứ biết tâm mình thênh thang, không
có gì phải nghĩ suy, tất cả đều là vọng tưởng điên đảo.
Tu phải ngơ ngơ ngáo ngáo một thời gian mới được, khôn lanh quá không
được. Những vị tu mà lanh lợi quá tôi lo lắm, không biết ngày mai đi đâu?
Nếu thật tình tu thì buông hết tất cả nghiệp duyên, ngơ ngơ ngáo ngáo mới
được. Ngơ ngáo mà không phải ngơ ngáo của kẻ điên khùng. Ngơ ngáo mà sống
với cái chân thật, không màng những việc lăng xăng chung quanh. Cái chân
thật đang hiện tiền, ở ngay nơi mình, chúng ta bỏ nó sống với vọng tưởng
lăng xăng thì đáng thương. Phật nói chúng sanh có của báu để trong túi mà
đi ăn mày. Của báu sẵn trong túi nhưng không quan tâm tới, chỉ nhớ cái
lăng xăng lộn xộn thành ra mất mình, phải đi ăn mày khổ sở.
Người hiểu được lý thiền, ứng dụng tu lúc nào cũng trở về chính mình. Như
ngài Trần Nhân Tông nói “gia trung hữu bảo hưu tầm mích”, nghĩa là trong
nhà có báu, đừng tìm kiếm ở đâu hết. Biết trở lại cái thật của mình là của
báu, hết sanh tử. Như vậy đường lối tu này đưa chúng ta tới không còn sanh
tử nữa. Cái không còn sanh tử, không phải ai làm giùm chúng ta được, chính
mình phải buông xả những niệm sanh diệt thì sanh tử theo đó hết. Từ sáng
đến chiều đi đứng mà không có niệm. Nhiều vị Thiền sư tới giờ ăn phải mời
ăn, tới giờ ngủ có khi quên ngủ, lừng khừng coi như khờ khạo. Nhưng mà
chính đó là tới giai đoạn không còn bị niệm sanh diệt lôi kéo. Trong tâm
mình động, lúc ngồi thiền bỗng dưng nhớ chuyện quá khứ hay tính chuyện vị
lai, đó là dấy niệm. Bây giờ không nhớ quá khứ, không nghĩ vị lai là vô
niệm. Vô niệm không phải là không biết.
Kinh Kim Cang Phật dạy, khi chúng ta không chạy theo sáu trần mới thấy
mình có Tự tánh thanh tịnh, có tánh không sanh diệt, có tánh rất đầy đủ,
có tánh không dao động, có tánh hay sanh muôn pháp. Cho nên học kinh Kim
Cang Lục Tổ thốt lên những lời “đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ
Tự tánh vốn không sanh diệt, đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ, đâu ngờ Tự
tánh vốn không dao động, đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp”. Chúng ta có
sẵn những điều đó mà lâu nay không biết, không ngờ.
Khi buông hết không vướng mắc với sáu trần, lúc đó mình bước vào chỗ vô
sanh hay tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bước vào Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác là có hay không? Là có, nên Lục Tổ nói không ngờ mình có
tâm thanh tịnh, không ngờ mình có tâm không sanh diệt, cho đến không ngờ
mình có tâm hay sanh muôn pháp.
Như vậy từ kinh Bát-nhã cho đến kinh Kim Cang đều nói không. Không là
không sáu trần để đi đến tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Còn ở đây
tôi hướng dẫn quí vị đi từ cái gì? Nói có Chân tâm, là đi từ cái có cho
tới cuối cùng không còn một niệm, để sống bằng Chân tâm. Như vậy cái có
này là có Chân tâm, còn cái không kia là không sáu trần. Không sáu trần mà
được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức là Chân tâm. Mới nghe dường như
khác nhưng sự thật không khác.
Hai hướng đi. Một bên dẹp sáu trần, nói không thật để không vướng mắc, lúc
đó mới trở về tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Một bên đi từ cái có
không sanh không diệt, nói thẳng có Chân tâm. Chúng ta có sẵn cái không
sanh không diệt, bây giờ đừng chạy theo cái sanh diệt hư dối nữa, để sống
với cái không sanh không diệt của mình. Nó có từ buổi ban đầu chớ không
phải tới lúc cuối mới có.
Chúng ta đều có Chân tâm nhưng bỏ quên, chạy theo tướng vọng tưởng sanh
diệt. Bây giờ muốn nhớ thì thấy cũng nói Chân tâm, nghe cũng nói Chân tâm,
giờ phút nào cũng nói tới Chân tâm. Nhớ tới Chân tâm, nhưng chưa thể nhập
được Chân tâm thì khi chết đi đâu? Dù chưa thể nhập được nhưng nhờ nhớ,
chết rồi cũng trở lên tiếp tục làm việc đó. Còn người không biết Chân tâm,
cứ tu vậy thôi, khi chết sẽ theo nghiệp thọ sanh, không có mục đích ra
khỏi sanh tử.
Những năm về trước, tôi dạy quí vị thấy vọng tưởng buông bỏ hoặc quán các
pháp duyên hợp như huyễn, không thật. Tu như thế thật ra là bỏ ngọn mà
chưa bỏ gốc. Biết nó không thật chúng ta bỏ, nhưng rồi cái gì cũng nói
thật. Chiếc thuyền thật, cái nhà thật, chiếc xe thật… nếu nói xe không
thật thì đường xa lấy gì đi? Thành ra lúng túng, bây giờ chúng ta đi thẳng
vào có Chân tâm. Từ đầu tới cuối, nếu người khéo nhận thì mau, còn vụng
nhận thì chậm. Bám vào gốc đó, không quên mất, như vậy khỏi lạc đường.
Chúng ta biết hướng đi, đời này chưa xong đời sau tiếp tục đi con đường đó
nữa.
Thiền tông là “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, chớ không đi
quanh co. Các Thiền sư chỉ thẳng tâm mình, nhận ra Bản tánh thì tu thành
Phật. Những ai đến với các ngài đều được chỉ thẳng. Hiểu cái chỉ thẳng đó
mới thấy hành động của các ngài quái gở mà không phải quái gở.
Nói về chuyện thân tâm, Thiền sư Đại An ở Qui Sơn tới lễ bái Tổ Bá Trượng,
hỏi:
- Thế nào là Phật?
Tổ đáp:
- Như người cỡi trâu tìm trâu.
Là ý gì? Nơi mình có Phật thì sáu căn đều có Phật. Chúng ta không quay lại
tìm Phật của mình mà đi tìm Phật bên ngoài, có phải cỡi trâu tìm trâu
không? Vì vậy các Thiền sư mới trổ tài đánh, hét. Chúng ta thấy Thiền sư
sao dữ quá, hỏi không chịu trả lời lại đánh hét người ta. Nhưng làm như
thế để chúng ta tỉnh, quay về nhận cái của mình ở ngay nơi sáu căn.
Ngài Đại An nghe thế liền biết, nên hỏi tiếp:
- Sau khi biết thì thế nào?
Đáp:
- Như người cỡi trâu về nhà.
Sư thưa:
- Chẳng biết trước sau gìn giữ thế nào?
Đáp:
- Như người chăn trâu, dòm chừng đừng để nó ăn lúa mạ của người.
Giữ cho sáu căn đừng để chạy theo những thứ lợi, hại của chúng sanh là
được rồi. Đó là giữ trâu. Thiền tông là trực chỉ nhân tâm, chỉ thẳng tâm
người kiến tánh thành Phật, chớ không chỉ ông Phật bên ngoài. Người thời
nay lúc nào cũng muốn tìm ông Phật bên ngoài, đó là một lối kiến giải.
Ngài Đại An sau khi về ở Qui Sơn có nói với chúng:
- Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa con mắt
phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ. Từ cửa lỗ tai phóng quang nhận lãnh
phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Sáu cửa ngày đêm thường phóng quang
sáng cũng gọi là phóng quang.
Tổ Lâm Tế, một hôm nói: “Các ông muốn biết Phật, Tổ chăng? Chính trước mặt
các ông hiện đang nghe pháp ấy vậy.” Phật là mình, ở sẵn nơi mình nên các
ngài không nói Phật Tổ bên ngoài. Như chúng ta đang nghe pháp, cái gì
nghe? - Tai nghe. Nếu lỗ tai không đâu biết nghe, phải có cái gì ở trong
mới biết chứ! Đó là Phật. Nên ngài Lâm Tế nói: “Sáu đường thần quang chưa
từng cắt đứt, nếu hay thấy được như thế, chỉ một đời làm người vô sự.” Sáu
đường thần quang tức là sáu cửa. Nếu ngay sáu cửa đó chúng ta biết rõ thì
trọn đời làm người vô sự. Vô sự tức là thảnh thơi, an lạc.
Cũng Ngài Lâm Tế nói: “Đạo lưu! Tâm pháp không hình thông suốt mười
phương. Ở mắt gọi thấy, ở tai gọi nghe, ở mũi gọi ngửi, ở miệng nói bàn, ở
tay nắm bắt, ở chân đi chạy, vốn là một tinh minh phân làm sáu hòa hợp.”
Tổ Lâm Tế, một Thiền sư danh tiếng của Trung Hoa đã nói rõ ràng, chúng ta
có cái chân thật đầy đủ nơi sáu căn. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn
đó là cái sáng suốt mà chúng ta không chú ý trở về, cứ đuổi theo vọng
tưởng điên đảo nên phải chịu luân hồi sanh tử.
Có tăng Qui Chơn đến hỏi đạo ngài Qui Sơn, gặp Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn hỏi:
- Sao huynh mới vô một chút liền trở về?
Qui Chơn kể lại:
- Hòa thượng (ngài Qui Sơn) hỏi tôi tên gì, tôi thưa: dạ con tên là Qui
Chơn. Ngài hỏi: qui chơn ở chỗ nào, tôi đáp không được.
Ngưỡng Sơn bảo:
- Thượng tọa trở lên thưa với Hòa thượng “con nói được”. Hòa thượng hỏi
thế nào thì đáp “trong mắt, trong tai, trong mũi v.v…”
Qui Chơn trở lên thưa:
- Con nói được.
Qui Sơn bảo:
- Nói xem!
- Trong mắt, trong tai v.v…
Qui Sơn bảo:
- Đây là lời của vị thiện tri thức năm trăm người,
chẳng phải của ngươi.
Tổ biết Qui Chơn học lóm rồi.
Như vậy chúng ta trở về cái chân thật ở chỗ nào? Ở
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu đi theo cái hư dối thì cũng ở mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, ý phóng ra, chạy theo sáu trần.
Mã Tổ Đạo Nhất nói: Phàm người cầu pháp nên không
có chỗ cầu, ngoài tâm không riêng có Phật. Ngoài Phật không riêng có tâm,
không lấy thiện, chẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạt
tánh tội là không, mỗi niệm đều không thật. Vì không có Tự tánh nên tam
giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đều là cái bóng của một pháp. Thấy sắc
tức là thấy tâm, tâm không tự là tâm, nhân sắc mới có.
Như vậy mỗi thứ đều được qui về Chân tâm. Chúng ta
thấy sắc nói Chân tâm, nghe tiếng nói Chân tâm, đó là giống các Thiền sư
đã dạy. Việc tu của chúng ta rõ ràng có căn cứ, người xưa đã từng nói vậy.
Ngoài tâm không có Phật nào khác, biết trở về tâm mình là biết trở về
Phật. Các ngài luôn luôn chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, không
nói Phật ở Tây phương hay ở đâu cả.
Thiền sư Bảo Thông Đại Điên nói: Nay ta vì các
ngươi nói trắng ra, mỗi người phải lắng nghe nhận lấy. Chỉ từ bỏ tất cả
vọng động, tưởng niệm, xét lường, tức là Chân tâm của mình. Tâm này cùng
trần cảnh, khi kềm giữ lặng lẽ hoàn toàn không dính dấp. Tức tâm là Phật,
không đợi tu sửa.
Chỗ này lâu nay chúng ta hơi mắc kẹt, ngồi thiền
kềm quá không cho nhúc nhích cục cựa, nhưng thật ra không phải vậy. Tâm
chân thật của mình là cái biết. Thấy biết, ngang cái biết dừng, không lăng
xăng là sống với Tâm chân thật, chớ ngồi kềm không cho nó lăng xăng riết
đau đầu, không có kết quả. Vì vậy Ngài dạy: “Tâm này cùng trần cảnh, khi
kềm giữ lặng lẽ hoàn toàn không dính dấp. Tức tâm là Phật, không đợi tu
sửa.” Sống được với Chân tâm thì thành Phật, không có gì tu sửa, cũng
không nói tu ba vô số kiếp mới thành Phật.
Thiền sư Đại Mai Pháp Thường thượng đường dạy
chúng: Tất cả các ngươi mỗi người đều tự xoay tâm lại tận nơi gốc, chớ
theo ngọn của nó. Chỉ được gốc thì ngọn tự đến. Nếu muốn biết gốc cần rõ
tâm mình. Tâm này nguyên là cội gốc tất cả pháp thế gian và xuất thế gian,
tâm sanh thì các thứ pháp sanh, tâm diệt thì các thứ pháp diệt. Tâm chẳng
tựa tất cả thiện ác mà sanh muôn pháp, vốn tự như như.
Nếu trở về tâm mình thì tâm đó là gốc, còn tất cả
pháp là ngọn ngành không đáng kể. Chúng ta thường chạy theo ngọn, tưởng
tượng suy tính đủ thứ, không biết trở về gốc. Từ sớm tới chiều ta tu, giả
sử ngồi thiền không nổi, đi tới đi lui trong vườn hay là những con đường
vắng, mắt thấy tai nghe đủ hết, không nghĩ suy, lúc đó mình sống với cái
gì? Sống với Chân tâm. Chân tâm linh hoạt, không phải kềm giữ. Nó sẵn
sàng, trường hợp nào cũng có, chỉ đừng quên chạy theo cảnh thì đó là Chân
tâm.
Người biết tu thì rất nhẹ nhàng. Tôi nhập thất thấy
như lười biếng, cứ nằm võng hoài, không ngồi thiền nhiều, ngày đêm chỉ
ngồi hai thời thôi. Bởi vì trong bốn oai nghi, nếu biết tu thì đều tự tại.
Ngược lại nếu kềm giữ trong một oai nghi, khi sang oai nghi khác công phu
dễ lơi lỏng. Chuyện tu rõ ràng như vậy.
Chúng ta đều có Chân tâm nên không ai vô phần, nói
tôi tu không được. Có Chân tâm thì ai cũng có quyền trở về Chân tâm của
mình. Nhiều ông thầy coi tướng sơ sơ nói: “ông không có duyên tu, thôi
đừng tu”, hoặc nói “ông có duyên từ kiếp trước” v.v… Đó là tưởng tượng,
nói dối. Ai cũng có Chân tâm thì ai cũng có quyền tu, chỉ chưa chịu tu,
chưa chịu tỉnh thôi. Đạo Phật bình đẳng, không nói hạng này tu được, hạng
kia tu không được. Ai tu cũng được hết, chỉ chịu quay về.
Tu Phật không cầu xin, không mong mỏi gì ở đâu, mà
chính ở sẵn nơi mình. Cái quí báu đã sẵn, chúng ta chỉ cần quay về liền
đầy đủ, không tìm kiếm ở đâu, nên với Thiền sư không nói thần thông. Hồi
xưa tôi dịch nhiều đoạn Ngữ lục, Thiền sư nói năng rất bạo. Bấy giờ tôi
cũng thấy ngại không dám dịch, nhưng nghĩ thôi kệ quí ngài nói sao mình
dịch vậy. Như Thiền sư Đức Sơn, có người hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Cục cứt khô của ông già Hồ.
Chịu nổi không? Nói một câu thấy xúc phạm quá
chừng. Nhưng bây giờ tôi thấy khác. Bởi vì với Thiền sư là “trực chỉ nhân
tâm, kiến tánh thành Phật”, lúc nào cũng trở về mình để nhận Bản tánh
Phật, chớ không chỉ ra ngoài. Như có Thiền sư khi được hỏi:
- Bạch Hòa thượng, thế nào là Phật?
Ngài cầm cây gậy đập cho một cái rồi ngồi yên, hỏi:
- Hiểu không?
- Dạ không hiểu.
- Thôi trở về đi.
Tàn nhẫn vậy đó. Không dạy một lời. Tại sao vậy? Vì
chúng ta có bệnh tìm kiến giải, hiểu biết. Nếu hỏi Phật là gì, mình giải
thích Phật tiếng Phạn là Buddha, Trung Hoa dịch Phật-đà… nói một vòng dài
dòng họ chịu lắm. Còn Thiền sư không phải thế, tất cả đều quay về tâm
mình. Phật ở nơi tâm. Hỏi Phật là gì tức tìm cái hiểu bên ngoài,
nên các ngài đập cho một cái, ngồi yên. Chúng ta không biết tại sao ngài
đánh, tội lỗi gì? Tìm ở ngoài là lỗi, cho nên đánh một cái rồi ngồi yên.
Yên lặng là chỉ Phật của mình.
Quí vị không biết, thấy đánh một cái rồi ngồi yên,
hỏi “hiểu không”, đáp “không hiểu”. Chúng ta cũng hơi xót ruột, tội nghiệp
người ta hỏi một câu rất đạo lý, không giải thích mà còn đánh nữa. Chúng
ta đâu biết rằng nếu giải thích thì rơi vào kiến giải. Thiền sư không bao
giờ giải thích.
Thiền sư thường có ba chiêu thức. Chiêu thức thứ
nhất, ai tới hỏi “thế nào là Phật”, các ngài lấy phất tử giơ lên. Học nhân
nói “con không hiểu”, các ngài để xuống không nói gì thêm. Chúng ta hiểu
thế nào? Đưa phất tử lên, Phật ở đó đó. Đưa lên cho thấy giống như Phật
chỉ cánh tay cho A-nan vậy. Đó là chỉ ở sáu căn có Phật, nhất là ba căn
ngoài mắt, tai, thân. Khi hỏi “thế nào là Phật”, đưa phất tử lên rồi để
xuống, là Phật từ cửa mắt mà vào.
Chiêu thức thứ hai, có người hỏi: “thế nào giải
thoát sanh tử”, các ngài hét cho một tiếng rồi thôi, không nói thêm câu
nào. Chúng ta thấy khô khan, tàn nhẫn quá. Nhưng đó là chỉ cho thấy Phật
từ cửa tai mà vào.
Chiêu thức thứ ba mạnh hơn một chút, khi học nhân
hỏi “thế nào là Phật”, các ngài cầm gậy đập cho một cái đau điếng. Đó là
chỉ cho thấy Phật từ cửa thân mà vào.
Ba căn mắt, tai và thân ở ngoài dễ xúc chạm nên các
ngài thường sử dụng. Đánh để hỏi biết đau không? Đánh phải biết đau. Biết
đau là có Phật ở trong rồi, không có làm sao biết đau? Cái biết đau có suy
nghĩ không? Cái thấy có suy nghĩ không? Cái nghe có suy nghĩ không? Hét
một tiếng suy nghĩ gì kịp, chỉ ngay nơi mắt, nơi tai, nơi thân nhận ra ông
Phật sẵn có của mình. Biết đau, biết thấy, biết nghe là Chân tâm, tìm kiếm
gì nữa?
Như vậy Thiền sư có tâm lão bà không? Chúng ta mới
nghe thấy không chịu nổi, sao tàn nhẫn đáo để. Song nhà Thiền là trực chỉ,
chỉ thẳng tâm mình để nhận ra Bản tánh thành Phật. Nói Phật thế này thế
kia là cho người ta kiến giải bên ngoài, không trực chỉ nhân tâm. Hiểu như
vậy đọc sách thiền chúng ta không ngỡ ngàng, nếu không mình thấy Thiền sư
tàn nhẫn quá.
Tất cả người trong thế gian, ai không có Phật? Kể
cả người què, người cùi đều có Phật hết, chỉ tại họ không biết thôi. Biết
rồi chúng ta dám khinh ai không? Chỉ họ quay lại thì cũng như mình. Vì vậy
người tu không nên có tâm ngạo mạn, phải biết ai cũng có tâm Phật, tại họ
chưa quay về thôi. Tất cả chúng ta đều bình đẳng. Thế nhưng ai được làm
chuyện này chuyện nọ, chức này chức nọ liền khinh người khác. Những chức
tước ấy chỉ là giả danh, tạm thời, còn Chân tâm mới là cái thật của mỗi
người. Chúng ta biết tu rồi phải quí trọng mọi người như quí trọng mình.
Đó là người tu chân thật.
Chúng ta tu không có gì khó hết, khi không biết thì
thấy khó, khi biết rất dễ. Đang thấy, đang nghe mà không có niệm gì thêm
vào, đó là sống với Chân tâm. Đi, đứng, nằm, ngồi không thiếu chút nào
hết. Hiểu như vậy, việc tu rất dễ, không phải ngồi thiền bảy, tám tiếng
mới là thiền mà chỗ nào cũng thiền. Biết sống với Chân tâm là thiền. Đó là
chỗ thật các Thiền sư đã sống. Nhiều Thiền sư không ngồi thiền, các ngài
đi đây đi kia, cuốc đất, làm đủ thứ việc. Vì biết rồi ở cảnh nào cũng
thiền, còn không biết dù cố ngồi thiền tâm vẫn chạy, vẫn điên đảo.
Từ đây về sau, quí vị nghe hiểu nghiên cứu kỹ để tu
cho được thảnh thơi. Lâu lâu tôi gặp hỏi thăm “tu thế nào”, chớ không
giảng nhiều nữa. Bây giờ quí ở thực hành, không quí ở ngôn ngữ. Thực hành
được là gần với đạo, đừng nói nhiều mà không sống được thì cũng vô ích.
Mong tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu rồi ứng dụng tu. Thỉnh thoảng có gì
cần lắm đến hỏi tôi, còn không thì thôi, tôi thảnh thơi, không bận bịu gì
nữa. Quí vị không nên trách tôi “sao bây giờ Thầy không dạy”, dạy hoài chỉ
thêm lý thuyết thôi, không tới đâu hết. Bây giờ thực hành, ai cũng phải
thực hành. Tôi gặp lại chỉ hỏi: Hôm nay tu làm sao? Hiện giờ sống thế nào?
Vậy thôi. Chúng ta phải tu chớ không học lý thuyết. Lý thuyết nhiều mà
không tu thì cũng thành lý thuyết suông, không đưa tới đâu hết.
Đó là lời nhắc nhở của tôi. |