MỤC ĐÍCH CỦA TÔI
Giảng tại
Thiền viện Chân Không -Xuân Canh Thìn (08-02-2000).
Cùng tất cả
Tăng, Ni và Phật tử,
Hôm nay là
ngày đầu năm Canh Thìn, tôi về đây tức là Thiền viện Chân Không để dự ngày
đầu Xuân, được chư Tăng chư Ni và tất cả quý Phật tử đến làm lễ chúc Tết.
Qua lời chúc nguyện của Tăng, Ni và Phật tử rồi, tôi sẽ có ít lời.
Trước nhất là
thành tâm cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho chư Tăng chư Ni và tất cả quý Phật
tử sang năm mới này được một năm hòa vui mạnh khỏe, luôn luôn tinh tấn
trên bước đường tu hành. Đó là lời cầu nguyện của chúng tôi.
Sau đây,
chúng tôi sẽ có những lời giải thích về mục đích của tôi khi thành lập
Thiền viện Chân Không. Tất cả Tăng, Ni và Phật tử, những người đã có mặt
lúc trước, chắc không còn lạ gì với Thiền viện Chân Không. Nhưng những
người mới đến hoặc là mới học thì chưa biết rõ. Giờ đây tôi nói lên mục
đích của tôi khi thành lập Thiền viện này như thế nào.
Bởi vì trong
thời gian tu, tôi cố gắng tu hành tìm cho ra manh mối giải thoát sanh tử
mà đức Phật từng dạy người xuất gia. Chính vì nỗ lực chuyên tu trong thời
gian nhập thất tại đây, tôi thấy được mục tiêu cứu kính của sự giải thoát.
Cho nên tôi mở cửa thất ra và bắt đầu xây dựng Thiền viện Chân Không để
hướng dẫn chỉ dạy cho Tăng, Ni và Phật tử biết được con đường tu, đạt được
mục đích đức Phật đã dạy.
Tại sao tôi
đặt tên Thiền viện này là Chân Không ? Có lắm vị cợt tôi, họ nói rằng ai
muốn lên Thiền viện Chân Không thì phải đi chân trần. Chân Không là chân
trần không có giày dép gì hết.
Thâm lý của
Chân Không rất là sâu kín, siêu thoát. Người thường không thể hiểu được.
Hôm nay tôi sẽ giải thích nghĩa Chân Không cho Tăng, Ni, Phật tử biết.
Hiểu được nghĩa Chân Không tức là biết được mục đích của tôi nhắm.
Tất cả chúng
ta khi đặt vấn đề gầy dựng đường lối tu thì phải có mục đích. Mục đích
chánh của người tu Phật là giải thoát sanh tử. Cho nên nói tu để giải
thoát sanh tử. Nhưng cái gì đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử ? Đó là
vấn đề hết sức quan trọng.
Khi đặt tên
Chân Không thì những người có cái nhìn cạn cợt không hiểu, không thấu
triệt được. Chớ những người có nghiên cứu kinh điển sâu thì chắc không có
ngại gì. Bởi vì từ chuyên môn trong nhà Phật nói rằng “Chân không diệu
hữu”. Đứng về thể thì nó là chân không, đứng về dụng nó là diệu hữu. Nhưng
cái diệu hữu không thể có nếu thiếu chân không. Vì vậy chân không là thể
tánh của diệu hữu. Đó là tôi nói về danh từ. Tôi dụ chân không cũng như
nước biển, diệu hữu cũng như sóng biển. Sóng có là từ nước, nhưng nước
không phải sóng. Nước không có sóng nhưng vì duyên gió thổi mạnh, mặt nước
dậy sóng. Như vậy dậy sóng là cái dụng ở bề ngoài, ở bên trên. Nhưng thể
của nước không phải sóng và nó trùm khắp.
Đối với thể
chân không là thể không sanh không diệt. Bởi không sanh không diệt cho nên
khi chúng ta tu thể nhập được bản thể đó thì không còn bị sanh tử luân hồi
nữa. Cho nên nói là giải thoát sanh tử. Ai tu muốn đạt được mục đích giải
thoát thì đều phải đi sâu, nhận chân được lý chân không, sống được với cái
thể chân không. Đó là giải thoát sanh tử.
Cho nên khi
làm bài thơ Chân Không, tôi đặt hai câu đầu như thế này: “Chân không thể
bất biến, huyễn hữu thường đổi thay.” Thể chân không không đổi dời, nhưng
về hình thức huyễn hữu thì luôn luôn sanh diệt, đổi thay. Nói đến chân
không là nói đến thể tánh bất sanh bất diệt sẵn có ở mọi người chúng ta,
nhưng tất cả chúng ta quên. Chúng ta chỉ thấy, chỉ biết, chỉ nhận cái
huyễn hữu thôi. Huyễn hữu là cái tạm bợ hư giả mà chúng ta cho là thật,
nên kẹt mắc ở đó. Vì vậy đi mãi trong luân hồi sanh tử. Đây là tôi chỉ lý
giải về chữ chân không. Còn tầm vóc quan trọng của chân không như thế nào
thì tôi sẽ dẫn những bài kệ của các vị Tổ để quý vị thấy, các Ngài nhận ra
thể chân không như thế nào và bảo nó quan trọng đến đâu.
Như Lục tổ
Huệ Năng khi đến chỗ Ngũ tổ, lúc đó Ngũ tổ bảo chư Tăng trong chùa Huỳnh
Mai phải trình kệ để Ngài thấy được chỗ tu hành của các vị tiến đến đâu,
đạt thế nào để Ngài truyền y bát làm Tổ thứ sáu. Khi ấy trong đại chúng có
ngài Thần Tú là giáo thọ sư cho năm trăm chúng. Về văn thì Ngài rất tài,
nhưng về đạo thì chưa sâu. Song vì trong chúng, Ngài là người lớn là giáo
thọ sư nên phải đứng ra trình kệ với Ngũ tổ. Bài kệ của Ngài khi đem lên
trình mà vẫn còn ngờ chưa đến nơi nên Ngài lén viết bài kệ dán ở bên vách,
chớ không dám trình thẳng với Ngũ tổ. Bài kệ là:
Thân thị Bồ-đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Tạm dịch:
Thân như cây Bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng,
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi nhơ.
Quý vị nghe
bài kệ hay chưa ? Thân như cây Bồ-đề, tâm là đài gương sáng, luôn luôn
phải lau chùi, chớ để dính bụi nhơ. Ngài dụ thân mình giống như cây Bồ-đề,
tâm mình như đài gương sáng. Đài gương sáng nhưng nếu để bụi phủ thì nó sẽ
tối, sẽ mờ nên phải luôn luôn lau chùi thì nó mới được sạch mãi, sáng mãi.
Bài kệ này với người thường như chúng ta thấy rất là hay, gần gũi để chúng
ta tu hành. Bởi vì nơi tâm chúng ta hiện giờ mù mịt u tối là tại cái gì ?
Tại vì những bụi nhơ phiền não xấu xa hay là vọng tưởng cứ che phủ. Vì vậy
mà ta phải lau phải chùi luôn, nó mới sáng. Như vậy với bài kệ này chúng
ta thấy hay rồi. Nhưng với Lục tổ Huệ Năng, khi ấy là một ông cư sĩ giã
gạo dưới nhà bếp, nghe ông điệu nói có bài kệ trình ở trên thì ông xin lên
để xem và nhờ đọc dùm. Khi nghe đọc xong, ông liền làm một bài kệ đối lại
với bài kệ đó. Bài kệ của Lục tổ Huệ Năng như sau:
Bồ-đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài,
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai.
Tạm dịch:
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ.
Qua bốn câu
kệ đó, chúng ta thấy Ngài phủi hết, phủi sạch tất cả cái gì của ngài Thần
Tú. Ngài Thần Tú nói thân là cây Bồ-đề thì Ngài nói Bồ-đề không có cây.
Thân như cây Bồ-đề là cả một hình thức. Thân là một hình thức, cây Bồ-đề
là một hình thức. Tâm là đài gương sáng, thì tâm giống như cái gương để
trên đài. Cái gương và cái đài là hình thức. Với Lục tổ thì Ngài nói gương
sáng không cần đài. Tại sao vậy ? Bởi vì gương sáng là tự nó sáng, chớ đâu
phải để trên đài cao nó mới sáng. Chúng ta thấy lối diễn đạt của Lục tổ,
Ngài không chấp nhận những hình thức mà chỉ thẳng tâm thể. Tâm thể tự
trong sáng, chớ không phải có cái đài nó mới sáng. Qua hai câu trên, Ngài
chỉ rõ Bồ-đề là tánh giác. Tánh giác không có hình thức là cây. Gương sáng
là chỉ cho tâm. Tâm trong sạch cũng không phải là đài. Như vậy tánh giác
và tâm thanh tịnh của mình không có hình không có tướng. Với ngài Thần Tú,
Ngài vẽ thành hình tướng. Bởi hình tướng cho nên Ngài mắc kẹt.
Đến câu thứ
ba, “bản lai vô nhất vật” là xưa nay không một vật, “hà xứ nhạ trần ai”
chỗ nào dính bụi nhơ. Nếu tâm mình, Bồ-đề của mình là một vật có hình có
tướng thì nó mới dính bụi, bị những thứ nhơ nhớp dính vào lấp vào, cho nên
mờ tối. Nhưng sự thực tâm thể của mình xưa nay không một vật. Nếu là vật
thì không phải tâm thể. Mà tâm thể thì không phải vật. Cho nên Ngài nói
xưa nay không một vật. Không một vật thì chỗ nào dính bụi bặm được.
Sở dĩ chúng
ta nói tâm của mình nhơ, tâm của mình nhiễm. Nó nhơ nó nhiễm là cái tâm
thanh tịnh hay cái tâm đang theo cảnh trần. Sở dĩ nhơ nhiễm là tại vì
chúng ta dùng cái tâm sanh diệt chạy theo trần cảnh nên mới nhơ, mới
nhiễm. Chớ tâm chân thật không có hình tướng, làm gì có nhơ, làm gì có
nhiễm. Hằng ngày chúng ta chỉ sống với tâm sanh diệt, chỉ sống với tâm đối
đãi phân biệt. Đó là tâm hư ảo mà chúng ta cho là tâm mình, cho là tâm
thật. Vì vậy mà nó bị nhơ bị nhiễm. Hay nói như ngài Thần Tú là nó bị bụi
bặm dính. Chúng ta nhận sâu thấy rõ được tâm chân thật tức là thể tánh bất
sanh bất diệt của mình, thì cái đó không có gì làm nhơ, không có gì làm
nhiễm được hết. Vì vậy Lục tổ nói “bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần
ai”, tức là xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi nhơ được. Có vật
thì mới dính, không vật thì làm sao dính.
Như vậy Lục
tổ nhìn tận tường cái tâm thể thanh tịnh không sanh diệt, cho nên Ngài nói
rõ nó không một vật, không dính bụi bặm. Còn ngài Thần Tú chỉ trên phương
diện tu hành, còn mắc kẹt trong tâm đối đãi có hình có tướng nên bị bụi
dính, cần phải lau chùi.
Lục tổ trình
bày ý của Ngài tận tường như vậy nên Ngũ tổ nhìn thấy bài kệ, Ngài biết
người này đã đạt đạo. Cho nên Ngài thầm truyền y bát cho Lục tổ. Vì vậy
nói tới Lục tổ là nói tới con người nhận chân được cái thể bất sanh bất
diệt của chính mình. Nên có lần dạy chúng, Ngài nói: “Phật dạy tất cả pháp
để trị tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp”. Nghĩa là
Phật dạy mỗi pháp môn tu là để trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có
tâm bệnh mới cần pháp Phật để trị. Với Ngài, tâm bệnh đã hết sạch thì đâu
cần pháp của Phật nữa. Như vậy để thấy cái tâm sanh diệt nơi Ngài đã lặng,
chỉ còn tâm thể bất sanh bất diệt. Lúc đó pháp của Phật đối với Ngài không
cần thiết. Bởi vì pháp Phật là phương thuốc trị tâm bệnh. Cũng như thế
gian có những thứ thuốc trị thân bệnh. Thân chúng ta bệnh cần thuốc trị.
Nếu thân không bệnh có cần thuốc không ? Thuốc cũng thừa. Cho nên chỗ đó
là chỗ hết sức thiết yếu.
Cái “bản lai
vô nhất vật” này là cái gì ? Đó là một lối nói khác của cái thể chân
không. Thể chân không là bản lai vô nhất vật của Lục tổ thấy ngày xưa.
Chính vì Lục tổ nhận ra bản lai vô nhất vật mà Ngài tu giải thoát sanh tử.
Bây giờ chúng ta nhận, chúng ta biết nơi mình có cái thể chân không, bản
lai vô nhất vật. Đó là chỗ để chúng ta giải thoát sanh tử, không còn bị
trói buộc, không còn bị sanh diệt nữa. Tôi dẫn bài kệ của Lục tổ để cho
quý vị thấy ý nghĩa chân không.
Bây giờ đi
xa hơn là một Thiền sư Việt Nam, Thiền sư Chân Nguyên ở đầu thế kỷ mười
tám, Ngài có làm bài kệ:
Pháp tánh Như Lai vô nhất vật,
Ứng độ quần sanh hữu bách ban,
Nhược ngộ chân không hằng địch diện,
Như Lai thường trụ tại Linh San.
Tạm dịch:
Pháp tánh Như Lai không một vật,
Ứng độ quần sanh việc cả trăm,
Nếu ngộ chân không luôn đối mặt,
Như Lai thường trụ ở Linh San.
Chính Thiền sư Chân Nguyên ở đời Lê, ngộ được lý Thiền rồi, Ngài mới viết
ra quyển Kiến Tánh Thành Phật, tôi dịch và đã cho in. Ngài nói pháp tánh
là không có một vật. Không một vật mà khéo nhận được, khi nhận được pháp
tánh tức là Phật tánh. “Ứng độ quần sanh hữu bách ban” nghĩa là ứng theo
trình độ của chúng sanh để độ họ thì hiện ra trăm thứ ngàn thứ. Như vậy
thì “Pháp tánh Như Lai vô nhất vật” đó là chân không. “Ứng độ quần sanh
hữu bách ban” là diệu hữu. Chân không chúng ta đạt được rồi thì mới có
diệu dụng là diệu hữu. “Nhược ngộ chân không hằng địch diện” tức là nếu
ngộ chân không luôn ở trước mặt. “Như Lai thường trụ tại Linh San” thì đức
Phật thường còn ở trên hội Linh Sơn chớ Ngài không có tịch. Ở trên hội
Linh Sơn là đức Phật Thích Ca. Còn đức Phật của mỗi người chúng ta ở đâu ?
Ở hội nào ? Đức Phật Thích Ca không sanh không diệt có mặt mãi trên hội
Linh Sơn. Nếu chúng ta nhận được thể chân không thì đức Như Lai chân thật
của mình thường ở tại hội nào ? Hội Chân Không hay hội Thường Chiếu ?
Như vậy quý
vị mới thấy lẽ thực của nó, giá trị của nó đối với chư Tổ khi nhận thấy
rồi thì biết rõ ràng. Tất cả chúng ta khi nhận được cái chân không không
sanh không diệt thì nó hằng hữu ở trước mắt chớ không đâu xa. Mà không bao
giờ cái đó bị sanh bị diệt. Như vậy quý vị đã thấy tổ Huệ Năng, Ngài nói
bản lai vô nhất vật thì ở đây tổ Chân Nguyên ở Việt Nam cũng lặp lại bản
lai vô nhất vật và chỉ thẳng cho chúng ta thấy nếu chúng ta nhận được rồi
thì Phật ở thường trực nơi chúng ta, trước mắt chúng ta chớ không đâu xa
hết.
Ở trên tôi
dẫn hai vị Tổ.
Bây giờ đến
vị Tổ thứ ba là Thiền sư Minh Chánh đầu thế kỷ mười chín, tức là sau ngài
Chân Nguyên một thế kỷ. Ngài xuất hiện vào triều Nguyễn. Ngài là một Thiền
sư thuộc tông Tào Động ở Việt Nam. Đọc sử, Ngài thấy sự việc xảy ra cuối
đời đức Phật, tức là khi Phật sắp Niết-bàn, Ngài thọ trai ở nhà ông Thuần
Đà. Thuần Đà là một người thợ săn, nói theo Bắc tông thì ông nhổ được một
số nấm chiên đàn, quý lắm. Nghe đức Phật đi đến, ông bèn nấu cơm và làm
nấm này cúng dường Phật. Khi cúng dường, Phật thọ trai dùng nấm đó nhưng
Phật cấm không cho chư Tăng dùng. Điều này khiến người ta ngạc nhiên, Phật
dùng mà không cho chư Tăng dùng.
Đây là nói
theo Bắc tông. Còn theo
Nam tông thì
nói thế này, ông săn được con heo rừng. Ông làm thịt cúng dường Phật, Phật
nhận thức ăn này nên bị bệnh kiết. Hai thuyết đó, tôi không biết ai đúng,
chỉ nghe sao nói vậy. Nhưng biết rằng đây là bữa cơm cuối cùng của đức
Phật Thích Ca. Sau bữa cơm đó Ngài bị bệnh kiết, rồi Ngài đi tới Sa La
Song Thọ nằm dưới hai cội cây thị tịch. Trước khi tịch, Phật bảo chúng
Tăng: - Người cúng dường cho ta được phước đức lớn, một là khi ta thành
đạo có mục nữ (chăn bò) cúng cho một chén sữa. Đó là người có công đức rất
lớn. Hai là Thuần Đà. Khi Phật sắp Niết-bàn, cúng bữa cơm chót. Hai người
đó có công đức rất lớn. Thế mà chư Tăng không chịu. Chư Tăng cứ nguyền rủa
tại ông Thuần Đà cúng bữa cơm đó có những thứ độc để Phật ăn, Phật bị bệnh
kiết rồi tịch. Như vậy ông giết Phật.
Chúng ta
thấy Phật thì khen, mà chúng Tăng lại chê. Vì vậy Thiền sư Minh Chánh đọc
chuyện này rồi, Ngài cảm hứng làm một bài tụng để nêu ra theo nhận xét của
Ngài. Tụng rằng:
Hay lắm Thuần Đà, hay lắm Thuần Đà !
Không nói ngắn, chẳng nói dài,
Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai.
Tìm hay lại hóa người chê vụng,
Bắn sẻ ai dè sói chực ngay.
Công danh cái thế màn sương sớm,
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài.
Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật,
Công lao uổng phí một đời ai !
Bài tụng
này, Ngài viết bằng chữ Nôm cho nên khỏi dịch. Tại sao Ngài nói “Hay lắm
Thuần Đà, hay lắm Thuần Đà !” Bởi vì câu chuyện Thuần Đà là cái manh mối
tranh cãi giữa đại chúng. Nhưng thực tình việc tranh cãi đó không có gì là
lẽ thực hết. Cho nên Ngài tán thán ông Thuần Đà. Bây giờ Ngài mới giải
thích việc tranh cãi là vô nghĩa.
“Không nói
ngắn, chẳng nói dài. Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai.” Nói ông cúng là có
tội hay ông cúng là có phước v.v… đó là một lối tranh luận. Cũng như thế
gian nói cái này dài, nói cái kia ngắn. Thì chữ ngắn chữ dài có giá trị cố
định hay không ? Nếu cây dài một thước rưỡi để dưới đất, chúng ta nhìn
thấy cây này dài. Nếu đem cây ba thước để cạnh nó thì nó thành ngắn. Như
vậy dài đó là cái giả danh. Khi có một cái dài hơn nữa thì cái dài đó trở
thành ngắn mất. Cây ba thước nếu để gần cây sáu thước thì cây sáu thước
dài, cây ba thước ngắn. Cứ vậy mà chồng lên chồng lên hoài, cái dài cái
ngắn đổi thay, không có cái gì cố định hết. Cái dài cái ngắn đã không cố
định thì cái tốt cái xấu có cố định không ? Thí dụ như không có bình hoa
nào thì người ta thấy bình hoa trang là đẹp. Nhưng nếu có bình hoa nào đặc
biệt hơn thì hoa trang còn đẹp không ? Nó hết đẹp rồi. Như vậy cứ tăng
lên, cái đẹp này nếu gần cái đẹp hơn thì nó trở thành xấu. Đem cái khác
đẹp hơn để gần thì cái đẹp thứ hai trở thành xấu. Cứ vậy chồng lên hoài,
cái đẹp không có gì cố định hết. Thế mà chúng ta cãi với nhau. Cái gì mình
nói đẹp mà ai nói xấu thì mình giận, không chịu. Cái gì mình nói dài, ai
nói ngắn mình không chịu. Như vậy thì cái chấp dài, cái chấp ngắn không
thật. Nên ý nghĩa dài ngắn tốt xấu không có cố định. Nó chỉ là đối đãi,
tạm có, tạm nói chớ không thật. Từ nghĩa dài ngắn tốt xấu đã không thật
rồi, thì tất cả các đối đãi khác có thật không, có cố định được không ?
Hẳn là không.
Cho nên Ngài
nói thêm: “Tìm hay lại hóa người chê vụng, bắn sẻ ai dè sói chực ngay”.
Mình muốn cố làm cho hay, làm cho đẹp. Vì cố làm nên vô tình biến thành
vụng. Muốn làm khéo mà lại trở thành vụng, chớ không được khéo. Bởi vì cái
khéo cái vụng cũng là tương đối, làm sao cố định được.
“Bắn sẻ ai
dè sói chực ngay”, mình thấy con chim đậu trên cành bắn nó rơi xuống để có
mồi ăn. Thì vừa rơi xuống, chó sói nó chụp, tha mất. Chính cái được là bắn
chim rớt. Nhưng rớt xuống rồi bị chó tha mất, vậy có được không ? Mới thấy
được rồi liền mất. Như vậy mới thấy hay liền dỡ, thấy được liền mất. Ở đời
không có cái gì là cố định, không có cái gì bảo đảm là chân thật hết.
Trên phương
diện đối đãi của các pháp thế gian, thì không có cái gì gọi là thực. Là
đối đãi thì tạm bợ, giả dối, không có thực. Cho nên: “Công danh cái thế
màn sương sớm, phú quý kinh nhân giấc mộng dài”. Hai câu này nghe xót xa
làm sao !
“Công danh cái
thế” tức là công danh vượt hơn tất cả người đời, chẳng qua là màn sương
sớm thôi. Nghĩa là một lúc nào đó chúng ta được nó, rồi một thời gian nó
cũng tan biến hết, không còn. “Phú quý kinh nhân giấc mộng dài”, giàu sang
nghe tới người ta phải giựt mình, phải hoảng hốt, nhưng cũng là một giấc
mộng dài thôi. Hai câu này là hai câu Ngài cảnh tỉnh người đời. Tất cả cái
dài ngắn, tốt xấu, được mất, hay dỡ đều là đối đãi, đều là tạm bợ thì công
danh phú quý cũng là tạm bợ thôi. Công danh tột cùng cũng chỉ là màn sương
sớm. Phú quý người nghe phải giật mình cũng là một giấc mộng dài. Như vậy
còn cái gì để tham, còn cái gì để theo đuổi. Đó, để cảnh tỉnh những ai
đang cặm cụi, đang dính mắc trong đám công danh, trên mồi phú quý hãy sớm
thức tỉnh. Nó chỉ là giấc mộng, là màn sương thôi, không có gì thật để
chúng ta phải dính, không có gì thật để chúng ta dồn hết sức trong đời
mình rồi phải bị mất, chớ không được gì.
Đến phần người
tu: “Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật, công lao uổng phí một đời ai”. Quý vị
thấy đời ai ? Nếu tu cầu giải thoát sanh tử mà không nhận ra cái bản lai
vô nhất vật, nghĩa là không nhận ra được cái thể chân không thì dụng công
cách này, dụng công cách nọ, rốt cuộc rồi chỉ là uổng phí một đời, không
tới đâu hết. Bởi vì tu là để giải thoát sanh tử, mà không nhận được cái
thể bất sanh bất diệt thì làm sao giải thoát sanh tử. Mà không giải thoát
sanh tử thì mục đích của người tu đạt được cái gì ? Như vậy thì bao nhiêu
công lao, bao nhiêu sức lực, dụng công tu hành mà không đạt được chân
không hay là bản lai vô nhất vật thì uổng phí đi một cuộc đời. Đáng tiếc !
Đọc câu này tôi rất xót xa cho người tu. Tu một đời mà không nhận được cái
thể chân thật thì uổng phí, đáng tiếc biết bao !
Kết luận bốn
câu cuối của bài thơ, Ngài cảnh tỉnh hai hạng người: Hạng người thế tục
đang đắm đuối, đang mê man trên bã công danh, trên mồi phú quý phải tỉnh
phải thấy nó chỉ là màn sương, nó chỉ là một giấc mộng, không có gì thật
đáng để cho chúng ta phải đem hết cuộc đời chôn vùi trong đó. Hai câu sau
cảnh tỉnh những người tu xuất gia mà không nhận được cái thể chân không,
mãi đuổi theo tất cả tướng sanh diệt, rốt cuộc rồi dù dùng bao nhiêu công,
bao nhiêu sức chỉ là uổng phí một đời, không ra gì. Đó là lời nhắc nhở hết
sức chân thật, hết sức nhiệt tình.
Chúng ta là
người tu từ cư sĩ đến xuất gia đọc bài này, chắc rằng ai ai cũng phải
tỉnh, cũng phải giác, đừng đắm mê những đối đãi, dù nó đẹp, dù nó được
người ta tán tụng ngợi khen, cũng chỉ là cái tạm bợ, hư dối thôi không có
gì chân thật.
Để kết thúc
hai chữ chân không, tôi đặt tên Thiền viện này, là hiện thân của câu bản
lai vô nhất vật của Lục tổ, chớ không có gì lạ. Mà bản lai vô nhất vật tức
là thể tánh chân không. Vì vậy khi thấy được chỗ này rồi, tôi liền đặt nó
một cái tên để chúng ta nhìn, chúng ta nghe đều nhớ đều nhắc lại cái mục
đích tối hậu của mình. Chớ không thì chúng ta tu hoặc là để cầu phước hoặc
là để cầu tuệ, mà phước tuệ đơn giản chưa tới chỗ cuối cùng. Phải thấy
được thể chân không bất sanh bất diệt này thì mới xứng đáng một đời tu của
mình.
Thiền viện
Chân Không ra đời, đó là mục đích mà tôi đã nhắm từ khi thành lập nó. Nó
là mục đích của chúng tôi nhắm, cho nên qua Thường Chiếu qua Trúc Lâm thì
nó là cái gì ? Ở đây là cái thể mà Thường Chiếu, Trúc Lâm là cái dụng. Từ
cái thể này được rồi thì những dụng kia mới thành. Nếu không có thể này
thì những dụng kia cũng khó mà đạt được. Như vậy tất cả các tên tôi đặt
cho Thiền viện là một ý thức cụ thể trên đường tu trong chỗ thấy của tôi,
chớ không phải tùy hứng cũng không phải bắt chước. Tôi thấy cái cần, cái
cuối cùng trên đời tu thế nào, tôi phải đặt thế ấy để cho tất cả Tăng, Ni
ở tại đây ai cũng phải ôm ấp trong lòng mình. Tu thế nào cho được giải
thoát sanh tử, tu thế nào cho thấy được bản lai diện mục hay bản lai vô
nhất vật. Như vậy mới xứng đáng công phu tu của mình. Còn mọi việc được
mất khen chê hay dỡ tốt xấu, chỉ là trò chơi, chỉ là cái bóng, không có gì
đáng quan trọng. Cái quan trọng tối thượng của mình là đến chỗ chân không.
Vậy thì chân
không là mục đích tôi đã nhắm từ buổi ban đầu. Đến nay, tất cả người tu
trong các Thiền viện cũng như những Phật tử đã cùng đi một đường theo
chúng tôi, chúng ta phải nhớ mục đích này, đừng bao giờ để sai chạy, đừng
bao giờ để lạc lối. Như vậy mới đúng ý nghĩa là người tu theo Phật giải
thoát sanh tử luân hồi. Vì đó là gốc, chúng ta phải đạt cho được. Chớ đừng
tìm, đừng kiếm cái gì khác lạ ở bên ngoài. Như thế thì không xứng đáng,
không đúng với ý nghĩa chân thật của chúng ta hy sinh tu hành và mục tiêu
chúng ta đã nhắm đến.
Đó là lời giải
thích của chúng tôi bằng hai chữ chân không. Mong tất cả Tăng, Ni và Phật
tử biết rõ để ứng dụng tu cho đạt được mục đích đó mới xứng công mình, mới
đáng con nhà họ Thích. Đây là chỗ mong mỏi, trông đợi của tôi.
] |