NGUYỆN VỌNG CỦA TÔI
Giảng tại
Thiền viện Trúc Lâm - Xuân Canh Thìn (05-02-2000).
Hôm nay là
ngày Tết Nguyên Đán, ở chùa cũng như ngoài thế gian, dân tộc Việt Nam rất
quý trọng ngày Tết Nguyên Đán. Cho nên đầu năm con cháu trong nhà đến chúc
mừng cho cha mẹ, ông bà. Năm nay, ở trong chùa cũng thể theo thông lệ
chung đó mà có buổi lễ chúc Tết đầu năm do Tăng, Ni và Phật tử tới đây
chúc mừng năm mới. Vì vậy buổi lễ này bắt đầu bằng lời chúc Tết của Tăng,
Ni và Phật tử. Sau đó chúng tôi mới nhắc nhở, chuẩn bị cho một năm mới
được tốt đẹp hơn.
Tăng, Ni đã
chúc Tết tôi rồi. Giờ đến phần tôi. Tôi có lời chúc mừng lại mà cũng là
lời khuyến khích tu hành. Trong đây tôi có chia ra hai phần:
- Phần thứ
nhất là tôi chúc mừng quí vị đầu năm.
- Phần thứ
hai là tôi nói nguyện vọng của tôi cho tất cả quí vị nghe, biết để sau này
nối tiếp những gì tôi muốn làm, tôi đang làm, quí vị tiếp tục theo.
Trước hết
tôi chúc Tết cho Tăng, Ni và toàn thể Phật tử. Tất cả chúng ta là người
Việt Nam, sống trên đất nước Việt
Nam,
tự nhiên chúng ta cũng theo phong tục tập quán của người Việt Nam. Tổ tiên
chúng ta ngày xưa rất là quan trọng ngày mồng Một tết. Những người nào tên
xấu thì sáng không được đến nhà khách, sợ mang cái không tốt lại cho người
ta. Cho nên ai muốn tới nhà thăm thân quyến thì phải tên tốt mới được vô,
mới được đón.
Như vậy mới
thấy ngày đầu năm người Việt
Nam rất là
quan trọng. Ở chùa chúng ta lý đáng đã vượt qua khỏi những phong tục tập
quán đó. Nhưng cái gì hay của Tổ tiên mình, chúng ta dù tu cũng không thể
bỏ qua, trừ những điều gì vô nghĩa thì chúng ta không làm. Vì vậy ở chùa
cũng nhân ngày đầu năm chúc mừng nhau. Chúng ta dùng những lời đạo đức để
khuyến khích, để sách tấn nhau tu hành. Đó cũng là lợi lạc lớn, để rồi
chúng ta nhớ ngày kỷ niệm đầu năm mà cố gắng thực hành, cố gắng ứng dụng
cho đời tu được hữu ích.
Tăng, Ni đã
chúc mừng năm mới cho tôi. Kế đây tôi chúc lại cho tất cả Tăng, Ni và Phật
tử. Sang năm Canh Thìn này, tôi cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho Tăng, Ni và
Phật tử một năm an vui, tinh tấn tu hành và luôn luôn tỉnh giác, không để
cho những cái mê lầm che lấp tâm mình. Tôi cầu nguyện tất cả quí vị lúc
nào cũng thấy rõ đạo đức là ngọn đuốc sáng. Mình phải rán mồi, rán thắp
cho cháy ngọn đuốc của mình, để rồi mình sẽ mồi cho cháy những ngọn đuốc
của người sau. Mình thấy đường đi, cũng muốn cho tất cả người cùng thấy
như mình và mãi về sau cũng được sáng suốt luôn. Ngọn đuốc chánh pháp
chúng ta mồi được, không bao giờ quên, không bao giờ để cho nó tắt, phải
tiếp nối mãi mãi. Đó là lời chúc chân thành của tôi, cũng là ước nguyện
của tôi. Mong tất cả Tăng, Ni và Phật tử thành tâm ghi nhớ.
Phần chúc
Tết của tôi đã xong. Giờ tới phần nguyện vọng của tôi.
Nguyện vọng
của tôi thế nào ? Muốn thấy muốn biết nguyện vọng của tôi cho thật rõ thì
câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao tôi đặt tên Thiền viện này là Trúc Lâm ?
Quí vị nghe dường như lạc đề. Nhưng thật ra khi tôi đặt tên một ngôi Thiền
viện nào, thì đó là tất cả nỗi lòng ôm ấp của tôi. Nó thể hiện qua những
từ ngữ đó, chớ không phải là chuyện ngẫu nhiên hay là bắt chước ai. Mà là
tất cả nỗi lòng tôi đang ôm ấp.
Vì vậy muốn
biết tại sao tôi đặt tên Thiền viện Trúc Lâm thì quí vị chịu khó nghe cho
kỹ dòng thời gian từ trước đến nay, mới thấy rõ ý nghĩa đó. Bây giờ tôi
nói xa xôi một chút. Đọc lịch sử Việt
Nam, tất cả
chúng ta đều thấy, đều biết rõ rằng nước Việt Nam đã bị Bắc thuộc hơn một
ngàn năm, rồi Tây thuộc cả một trăm năm. Trong thời Tây thuộc, tôi đã có
mặt vào thời gian cuối. Có mặt trong lúc đất nước bị lệ thuộc ngoại bang,
chúng tôi thấm sâu nỗi đau khổ tủi nhục của dân tộc bị ngoại bang cai trị.
Bởi vậy tôi mong mỏi, trông chờ đất nước Việt Nam được độc lập vững bền,
dài lâu để cho những nỗi khổ đau của dân tộc, những tủi nhục của dân tộc
được lành những vết thương đau đớn ấy.
Vì vậy lúc
nào tôi cũng có sẵn một tâm niệm nguyện cầu cho đất nước chúng ta được độc
lập vững bền dài lâu, cho dân tộc chúng ta được an vui, được hạnh phúc. Đó
là nguyện vọng của tôi đối với đất nước.
Một đất nước
thực sự độc lập đòi hỏi phải độc lập về chính trị, độc lập về quân sự, độc
lập về văn hóa, độc lập về kinh tế. Nhưng chúng tôi lại có duyên sâu trong
Phật pháp. Cho nên ở trên đất nước Việt
Nam, mà tôi
chỉ có mặt trong lãnh vựïc Phật giáo, chớ tôi không có mặt trong những
lãnh vực khác. Vì thế ở trong lãnh vực Phật giáo, tôi phải làm thế nào cho
Phật giáo Việt Nam đóng góp một phần lớn cho dân tộc, cho đất nước. Làm
sao đem được ánh đuốc sáng của Phật giáo soi cho người dân Việt Nam thấy
được con đường sáng suốt, thấy được những hầm hố, không phải vấp ngã,
không bị những điều khó khăn làm cho mình phải trở ngại trên bước đường
tiến tới. Vì vậy tôi bao giờ cũng nghĩ phải làm sao cho Phật giáo Việt Nam
được có những điểm rất là sáng suốt, rất là tốt đẹp, để ngọn đuốc sáng này
soi rọi cho dân tộc chúng ta thấy được, đi được trên con đường tốt đẹp đó.
Vì vậy khi tôi đặt vấn đề phải làm sao tạo duyên cho Tăng, Ni tu và tạo
duyên truyền bá Phật pháp cho hàng Phật tử hiểu. Đến đây, tôi thấy cơ
duyên thuận lợi cho nên mới thành lập Thiền viện nơi này.
Khi thành
lập Thiền viện, tôi nhìn lại kỹ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam,
những mốc nào những điểm nào thích hợp với hoàn cảnh, với đất nước hiện
tại để chọn làm cái mốc son. Chúng ta tu, truyền bá, đem ra phổ biến cho
mọi người thấy biết mà ứng dụng. Được như vậy mới phù hợp với tinh thần
dân tộc của chúng ta trong giai đoạn hiện tại này. Khi chọn lựa, tôi chấm
ngay cái điểm Phật giáo đời Trần. Tôi cho đó là một điểm son. Đó là thời
gian xứng đáng để cho chúng ta nương theo mà tu, nương theo mà truyền bá
và cũng nương theo mà thể hiện được tinh thần lợi dân ích nước. Đem tất cả
khả năng đức độ của chúng ta gieo rắc cho người dân, cho đất nước mình
được những mầm non tươi đẹp và cường tráng. Do đó chúng tôi lấy Phật giáo
đời Trần làm cái mốc chính.
Khi xây dựng
xong Thiền viện, tôi đặt tên là Thiền viện Trúc Lâm, đúng với ý nghĩa là
Trúc Lâm Yên Tử. Chữ Trúc Lâm có hai:
1- Trúc Lâm
khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã được nhà Vua xây dựng một ngôi Tinh xá
để tên là Tinh xá Trúc Lâm. Đó là Trúc Lâm thời đức Phật.
2- Trúc Lâm
hiện nay của chúng ta là Trúc Lâm Yên Tử, chớ không phải Trúc Lâm của ngôi
Tinh xá thuở kia. Trúc Lâm Yên Tử để nói lên một hệ thống truyền bá Phật
pháp ngay trong đời Trần. Hệ thống truyền bá đó có những ưu gì, đặc điểm
nào mà tôi chọn. Đây là điều tôi sẽ nói ở sau.
Khi tôi chọn
được tên để đặt là Thiền viện Trúc Lâm, thì tự nhiên quí vị thấy đó là một
tâm hồn đang hướng về Phật pháp. Mà Phật pháp này đã được dân tộc Việt Nam
chọn lọc. Từ sự chọn lọc này ứng dụng được để truyền bá cho mọi người. Nói
tới Trúc Lâm Yên Tử thì chắc không ai chẳng biết. Nhưng tinh thần trong đó
thì ít người thấu hiểu.
Như tôi đã
nói, một nước độc lập thì phải độc lập về chính trị, về quân sự, về văn
hóa, về kinh tế. Thì thời Trần là thời dành được thắng lợi sau khi quân
Nguyên Mông sang xâm lấn đất nước ta. Các Vua đời Trần đã chống được giặc.
Như vậy về phần chính trị, về quân sự thì các Ngài đã làm rất vẻ vang cho
đất nước. Về văn hóa thì thời Trần, nếu quí vị đọc lại những bản văn đời
Trần thì thấy các vua đời Trần đã có ý niệm cụ thể rằng chúng ta không thể
nào mượn văn hóa Trung Quốc làm văn hóa Việt Nam mãi. Mà văn hóa thì chữ
viết là một điều kiện thể hiện nền văn hóa của mình. Cho nên đời Trần tuy
là học chữ Hán, nhưng các Ngài muốn chuyển thành chữ Việt, do đó mới trọng
chữ Nôm. Tuy chữ Nôm đã có trước rồi, nhưng tới đây là thời phát triển.
Cho nên vua Trần Nhân Tông khi còn làm Thái thượng hoàng, Ngài đã viết một
bản văn rất có giá trị đạo đức, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Bản văn đó là
bài phú Cư Trần Lạc Đạo, hoàn toàn bằng chữ Nôm. Như vậy thì không phải
chỉ độc lập bằng quân sự, bằng chính trị thôi mà Ngài muốn độc lập luôn cả
về văn hóa, không lệ thuộc Trung Quốc. Đó là điều tôi thấy rất là đáng nể,
đáng kính.
Hiện nay chúng
ta phải làm sao để cho đạo Phật được tốt. Mà muốn đạo Phật tốt thì chúng
ta phải tạo cái duyên cho đời được đẹp. Chớ không thể nào đạo tốt mà đời
để mặc thế nào cũng được. Chúng ta phải làm sao cho đạo với đời đều tốt
đẹp với nhau. Thời Trần các vua là Thiền sư, hiểu Phật pháp rất uyên thâm.
Các Ngài lại yêu nước, dành quyền lợi cho dân tộc, làm những việc xứng
đáng như vậy. Khi làm tất cả việc đó, các Ngài không bao giờ xao lãng sự
tu tập, sự nghiên cứu Phật pháp.
Chúng ta thấy
đạo Phật thời Trần là một đạo Phật rất tích cực, nằm ở trong hệ thống
chính quyền. Đem đạo đức làm lợi ích cho dân. Nhưng cái hay của các Ngài
là những ông vua Thiền sư, khi cầm quân đánh giặc chống ngoại xâm không
lúc nào các Ngài tuyên bố rằng tôi nhân danh đạo Phật để đi đánh giặc. Mà
đạo Phật chỉ có ở trong tâm của các Ngài. Còn hành động chống ngoại xâm,
là trách nhiệm của một công dân, của người lãnh đạo đất nước. Chớ không
đem đạo Phật vào việc chiến tranh để làm hoen ố đạo. Đó là điều rất hay.
Các vua từ
vua Trần Thái Tông cho đến Trần Nhân Tông, rồi sau này Anh Tông v.v… đều
là những ông vua thấm nhuần đạo Phật. Mà chưa bao giờ nhân danh đạo Phật
để làm chuyện sát hại quần sanh, chỉ khi rỗi, khi nhàn hạ thì các Ngài cố
gắng đem đạo Phật ứng dụng tu hành và truyền bá cho quần chúng. Còn khi
loạn lạc thì các Ngài nhân danh là một người có trách nhiệm với đất nước,
đứng ra lãnh đạo chống ngoại xâm, chớ không có bóng dáng đạo Phật ở trong
đó.
Chúng ta dùng
hình ảnh Thiền tông đời Trần là một hình ảnh rất tốt đẹp. Nên khi đặt tên
Thiền viện rồi, tôi đã có chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần. Khi
nói khôi phục Thiền tông đời Trần thì có nhiều vấn đề liên hệ. Tôi sẽ thứ
tự trình bày cho quí vị thấy.
Trước tiên
liên hệ tới Phật pháp, tới Tam tạng giáo điển. Trong Tam tạng giáo điển là
kinh, luật, luận. Nhưng trong Tam tạng giáo điển, tôi lại nghiêng trọng về
kinh tạng và luận tạng mà luật tạng tôi hơi lơ là. Tự nhiên quí vị thấy có
điều gì, ổn hay không ? Tại sao tôi lại có cái nhìn, có cái hướng lệch như
vậy ? Sự thực tôi thấy đó là một trọng tâm.
Bởi vì đức
Phật từng dạy tất cả giáo lý của Ngài là những phương thuốc trị tâm bệnh
cho chúng sanh. Chúng sanh có vô số bệnh thì Phật cũng dùng vô số thuốc để
trị bệnh. Như vậy kinh là để dạy chúng ta biết phương pháp tu dẹp sạch
phiền não. Đó là cái trọng tâm. Còn luật, thường thường chúng ta hay nghe
các vị tôn túc nhắc rằng giới luật là quan trọng. Nhất định giới luật phải
quý phải kính, song tôi đặt nặng phần căn bản, phần tinh hoa của giới luật
để gìn giữ, còn phần chi tiết, phần hình thức thì tùy hoàn cảnh, tùy thời
chớ không cố định. Quí vị nghiệm xét kỹ thì thấy phần hình thức của luật
có tánh cách nghiêng về phong tục tập quán của Ấn Độ thời cổ đại. Như
trong giới Tỳ kheo tăng 250 giới, mà thực sự chúng ta thấy hai phần Tứ ba
la di, Thập tam tăng tàng là trọng yếu. Còn những phần sau, ngày nay chúng
ta giữ được bao nhiêu, nhất là 100 pháp chúng học, chúng ta có giữ được gì
không ? Đó đều là tùy theo tập quán phong tục của địa phương mà Phật chế
ra để đừng bị người ta không bằng lòng. Đây là điều tôi thấy rất rõ.
Tôi đã từng
nói với Tăng, Ni rằng đức Phật ra đời là để cứu độ chúng sanh. Cứu độ
chúng sanh bằng cách nào ? Là đem chánh pháp chỉ dạy cho người ta tu, để
dẹp sạch phiền não giải thoát sanh tử. Như vậy cứu độ chúng sanh chớ không
phải cứu độ riêng cho dân tộc Ấn Độ. Ngài ra đời cứu độ chúng sanh thì
mình ở đâu, nước nào cũng là một chúng sanh. Như vậy Ngài cứu độ chúng ta,
chớ không phải Ngài tuyên bố Phật ra đời là vì dân tộc Ấn Độ, vì giáo hóa
dân Ấn Độ. Như vậy đức Phật không tự đặt Ngài ở trong một phạm vi của một
dân tộc, của một đất nước, của một màu da v.v… mà Ngài đặt Ngài là người
của tất cả chúng sanh. Đã là người của tất cả chúng sanh thì chúng ta theo
đạo Phật phải biết những gì Phật dạy để trị tâm bệnh. Mình lấy đó để ứng
dụng tu hành, dẹp trừ được phiền não. Đó là cái gốc.
Tới điểm thứ
hai, hiện tại chúng ta nhìn Phật giáo truyền bá trên thế giới, rõ ràng có
hai hệ phái
Nam
tông và Bắc tông. Hiện giờ, quí vị thấy tôi đang theo hệ phái nào ? Chắc
không ai nghi ngờ tôi theo Bắc tông. Tại sao tôi lại theo Bắc tông mà tôi
không thích Nam tông ? Như tôi đã nói Phật là người của chúng sanh. Đã là
người của chúng sanh thì chúng ta ở nước nào, nơi nào cũng có quyền tu
theo Phật hết.
Tôi thí dụ
như có một xí nghiệp bào chế thuốc tây. Họ bào chế thứ thuốc rất hay trị
lành bệnh. Nếu người nhức đầu có thuốc nhức đầu uống liền lành. Người đau
bụng có thuốc đau bụng uống liền lành v.v… Thuốc nào cũng hay hết, uống
vào liền lành bệnh. Nhà thuốc chế những phương thuốc ấy ở bên Pháp, họ có
nói rằng thuốc tôi chỉ chế trị bệnh cho người Pháp không ? Hay thuốc này
chế ra, ai biết đúng bệnh và đúng thuốc, uống đúng liều lượng thì sẽ lành.
Tất cả ai uống cũng được hết. Đó là điều thứ nhất.
Điều thứ
hai, thuốc chế ra từ phương Tây như ở Pháp chẳng hạn. Chúng ta là người
Việt
Nam muốn uống thuốc tây, mình phải chuẩn bị làm sao, uống bằng cách nào
cho có hiệu quả ? Uống thuốc Tây phải mặc đồ Tây, phải mũi cao như Tây,
lấy phấn thoa mặt cho trắng… uống mới có hiệu quả hay sao ? Hay là bất cứ
ăn mặc thế nào, bất cứ màu da thế nào, bất cứ mũi xẹp mũi cao gì miễn biết
uống đúng thuốc, đúng bệnh và đúng liều lượng thì bệnh được lành.
Đạo Phật
xuất phát từ Ấn Độ, phong tục tập quán của Ấn Độ, ăn mặc khác mình, xử sự
khác mình. Bây giờ mình muốn dùng phương thuốc của Phật từ Ấn Độ trị bệnh
cho người Việt
Nam thì có
phải ăn mặc giống người Ấn Độ không ? Mình phải xử sự như người Ấn Độ
không ? Chúng ta không thể nào tu theo đạo Phật, dùng những phương pháp
Phật dạy để trị tâm bệnh của mình, mà bắt buộc mình phải giống người Ấn
Độ, mình phải ăn mặc như người Ấn Độ, mình phải xử sự như người Ấn Độ. Đâu
cần thiết như vậy. Mà cần thiết ở chỗ mình biết bệnh, biết thuốc và biết
liều lượng uống thì bệnh lành. Đó là một lẽ thật.
Bây giờ quí
vị giở bộ luật Tứ phần ra thì thấy trong đó hết bao nhiêu phần nói về y
bát. Mà bây giờ mình có mang y bát đi khất thực như Phật hồi xưa không ?
Thế mà bảo phải giữ giới thì làm sao giữ đây ? Khi tôi sang Ấn Độ gặp mùa
lúa chín, ngồi trên tàu hỏa chạy đi dọc đường thấy mấy cô gái Ấn Độ cắt
lúa, tôi thương quá, họ quấn cái y lùm xùm cắt lúa khó khăn làm sao ! Nhớ
lại người Việt
Nam mình mặc
đồ gọn ghẽ cắt rất lẹ làng, còn họ xùng xình quá, cắt lúa hết sức khó. Đây
là tại tập quán của người ta như vậy. Người ở quê từ người nam người nữ,
trẻ già gì cũng quấn y. Cho nên Phật tu ở Ấn Độ, Phật cũng quấn y. Chuyện
đó là chuyện đương nhiên.
Hệ phái Bắc
tông bây giờ dùng từ là Phát triển có những cái không cố chấp như thuở
xưa. Như Bắc tông truyền sang Trung Hoa thì các Thiền sư ở Trung Hoa có ăn
mặc giống Ấn Độ không ? Chính Phật, Ngài quấn y tu hành thành Phật. Bây
giờ mình khi nào lễ Phật cũng quấn y để tỏ lòng tôn trọng cung kính Phật.
Còn cách ăn mặc, xử sự trong mọi hoàn cảnh thì mình phải khác. Cho nên
người Trung Hoa ăn mặc như người Trung Hoa, chỉ khác là cái áo khác màu
với người thế tục thôi. Còn cái y chỉ dành khi nào lễ Phật. Bình thường
người ta cũng mặc đồ thường để làm việc cho gọn ghẽ. Sang Nhật Bản, quí vị
thấy người Nhật Bản có làm giống người Ấn Độ không ? Y cũng có, nhưng y
chỉ dành khi lễ lượt, còn bình thường họ cũng ăn mặc quần áo theo Nhật
Bản. Như vậy chỉ khác với người thế gian, người tu ăn mặc nâu sòng, không
lòe lẹt như người thế gian thôi.
Bắc tông dám
cải đổi những gì không phải cái gốc, cái nguồn thì mình có thể sửa được.
Gốc nguồn là pháp Phật. Còn ăn mặc là hình thức bên ngoài. Như vậy mình là
người Việt
Nam, muốn
học Phật mà giữ nguyên bản sắc Việt Nam, mình phải ăn mặc và thực hành
theo Bắc tông thì hợp hơn. Đó là một lý do riêng của tôi.
Còn một lý
do thứ hai sâu sắc hơn là kinh điển Phật dạy như các bộ A Hàm. Trong các
bộ A Hàm luôn luôn dạy chúng ta tu. Khi chúng ta đã phá được ngã chấp,
pháp chấp rồi thì liền được chứng quả A-la-hán, là nhập Niết-bàn. Niết-bàn
là vô sanh hay nói cách khác chúng ta tu đến quả vị A-la-hán rồi thì sẽ
giải thoát sanh tử. Song nói giải thoát sanh tử, tôi đặt ra một câu hỏi:
Nếu có người bị trói, bị cột trong cây hay là một nơi nào đó mà họ khổ sở,
họ dẫy dụa ra không được. Có người thấy thương lại mở dây trói họ ra,
người ta gọi người đó là người giải thoát cho họ. Ông A ông B bị cột trói,
mở dây cột trói nói giải thoát cho họ. Giải thoát có nghĩa gì ? Giải thoát
là một động từ. Nhưng giải thoát phải giải thoát cho ai, giải thoát cái
gì, còn một chủ từ nữa.
Trong kinh
Phật nói hết phiền não thì được giải thoát sanh tử. Mà giải thoát sanh tử
không biết ai giải thoát, cái gì giải thoát Phật không nói thêm. Quí vị
đọc hết trong các kinh A Hàm thử xem, không bao giờ Phật nói thêm cái gì
nữa. Chỉ nói giải thoát sanh tử là đủ. Nếu nói thêm, như trong kinh dạy có
vị A-la-hán tịch. Các Tỳ kheo hỏi Phật: “Vị A-la-hán này tịch rồi sẽ về
đâu ?” Phật chỉ trả lời rằng: “Như củi hết thì lửa tắt”. Một đống củi đang
cháy, nếu củi còn thì lửa tiếp tục còn cháy. Củi hết thì lửa tắt. Phật trả
lời gọn như vậy thôi. Như vậy thì sao ? Mình không biết sao nữa hết. Như
vậy nói tới giải thoát có một cái gì chưa ổn.
Cho nên bước
qua lãnh vực kinh điển Đại thừa thì các Ngài nói trắng ra giải thoát sanh
tử là giải thoát cái gì ? Giải thoát sanh tử nghĩa là mình dứt sạch phiền
não rồi thì Phật tánh chân tâm của mình hiển lộ. Phật tánh chân tâm là cái
không có sanh tử. Cho nên dứt được những cái che đậy, những cái cột trói
làm cho mình phải sanh tử thì mình hết sanh tử. Cái gì hết sanh tử ? Là
Phật tánh, là chân tâm của mình. Cái đó là cái giải thoát sanh tử. Rõ ràng
quá, không còn gì nghi ngờ nữa. Còn như trước nói thì mình thấy có gì
không ổn. Nhưng phải suy cho kỹ, tại sao đức Phật nói tới đó thôi ? Bởi vì
Ngài ra đời ở Ấn Độ, mà giáo lý của đạo Bà la môn luôn luôn nói con người
có một thần ngã. Tất cả hiểu biết của mình thuộc về thần ngã. Cho nên chết
rồi thì thần ngã đó hoặc được sanh nơi này nơi kia, hoặc được về với Tự
Tại Thiên chẳng hạn. Vì vậy mà Phật dè dặt. Nếu nói còn có cái gì đó thì
người ta nói “Như vậy là thần ngã rồi” nên Phật không nói. Phật chỉ nói
củi hết lửa tắt là giải thoát. Vậy thôi, không nói thêm gì nữa.
Hoàn cảnh
đức Phật buổi đầu khó khăn như vậy nên Phật không muốn nói hết. Sau này
kinh điển Đại thừa là của Phật nói hoặc không phải Phật nói mà đệ tử Phật,
những vị chứng quả A-la-hán hoặc quả Bồ-tát tiếp nối giải thích cho rõ cho
người sau hiểu, thì việc đó không lỗi lầm gì hết. Cũng là một bước để cho
người sau không nghi ngờ.
Chúng ta
thấy kinh điển Đại thừa lúc nào cũng chỉ chúng ta một hướng đi vừa thực tế
vừa chân thật. Chúng ta biết trong người chúng ta cái gì giả, rồi tìm
phăng có cái thật. Cái thật với cái giả, mà cái giả mình không lầm thì cái
thật sẽ hiển hiện.
Như vậy ngay
nơi mình, tu rồi mình thấy rõ không nghi ngờ gì hết. Sự dạy dỗ tu hành rất
thực tế, dễ dàng hơn. Đó là lý do tại sao tôi theo Bắc tông. Nhiều khi quí
vị không hiểu nói sao cũng người tu Phật ở Việt
Nam,
có người theo Nam tông, người theo Bắc tông là lý do gì ? Đây, tôi có lý
do rõ ràng như vậy. Bởi vì dân tộc của chúng ta, tổ tiên của chúng ta ngày
xưa tu theo Bắc tông. Bây giờ chúng ta thấy Bắc tông có những lối nhìn cụ
thể, thực tế mà không bị gò bó.
Bắc tông chỉ
cho chúng ta thấy giáo lý đến chỗ cứu kính, không phải nói giải thoát
không. Mà giải thoát là cái chân tâm, cái Phật tánh của chúng ta không còn
bị phiền não cột trói nữa, cho nên cái đó tự tại, thênh thang giải thoát,
không bị sanh tử. Như vậy cái nào cũng cụ thể, cũng rõ ràng cho nên chúng
ta theo.
Những gì tôi
đã nói ở trên là để nói lên nguyện vọng của tôi cho quí vị biết.
Chúng ta là
lớp người sau, chúng ta theo đạo Phật mà đạo Phật đã truyền bá trên đất
nước chúng ta gần hai mươi thế kỷ rồi, tức là cả hai thiên niên kỷ. Như
vậy đạo Phật ảnh hưởng rộng lớn sâu đậm thế nào đối với dân tộc Việt
Nam.
Như ở trên tôi đã nói đời Trần muốn cách mạng văn hóa, không lệ thuộc
Trung Quốc. Bây giờ chúng ta ở trong đạo Phật, chúng ta có bị lệ thuộc gì
văn hóa của Trung Quốc không ? Ngày nay quí vị tới chùa thấy tối công phu
Tịnh độ, khuya trì chú Lăng Nghiêm. Như vậy thì “Hai thời khóa tụng mà
hiện giờ chúng ta tu là Phật dạy hay ai đặt ra ?” Đó là câu hỏi cần phải
biết. Chúng ta tu Phật mà thấy người ta làm thì làm theo không biết mình
làm đó là học theo ai, bắt chước người nào, đó là thiếu sót lớn.
Chính khi
nghiên cứu hai thời khóa tụng rồi, tôi buồn, rất là buồn. Vì hai thời khóa
tụng ra đời trong thời nhà Thanh ở Trung Quốc, chính đời vua Khang Hy. Ông
mời các Thiền sư, các vị Tăng có tiếng tăm tới sắp đặt hai thời khóa tụng.
Mà thời nhà Thanh là thời Phật giáo suy đồi. Đặt ra hai thời khóa tụng để
cho dân Trung Quốc tụng, mà sao lại lọt qua Việt
Nam. Việt
Nam cũng tụng theo. Tụng theo cả trăm năm nay. Quí vị nghĩ sao?
Nếu ở Nhật
Bản, quí vị thấy có tụng hai thời khóa tụng như mình không ? Ở Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan có tụng hai thời khóa tụng không ? Chỉ có ở Trung Quốc
đời nhà Thanh thôi. Phật giáo thịnh nhất ở Trung Quốc là đời Đường, đời
Tống. Sang đời Nguyên, đời Thanh là Phật giáo suy đồi. Từ cái suy đồi đó,
người ta mới tạo ra hai thời khóa tụng. Hai thời khóa tụng ra đời thì càng
suy đồi hơn nữa. Mình lại lấy cái đó làm nền tảng tu hành cho xứ sở mình,
cho Phật giáo Việt
Nam thì quí
vị có vui được không ? Chính khi tụng hai thời khóa tụng thì Phật tử hiện
nay nghe có hiểu câu nào không ? Cứ tụng bằng chữ Hán. Mình học Phật, tại
sao ở Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn, các vị kiết tập bằng văn tự Nam
phạn và Bắc phạn. Nam phạn tức là tiếng Pali, Bắc phạn tức là tiếng
Sanskrit. Như vậy kinh sau này của Ấn Độ bằng hai thứ chữ Sanskrit và
Pali.
Khi người
Trung Hoa nghiên cứu đạo Phật, học đạo Phật, người ta chuyển thành chữ Hán
hết, ba tạng kinh đều bằng chữ Hán. Chúng ta ngày xưa vì chưa có chữ quốc
ngữ cố định nên mình cũng phải học kinh chữ Hán. Ngày nay đã có chữ quốc
ngữ là chữ mà tất cả đều chuyển được hết từ tiếng Pháp, tiếng Anh chuyển
thành tiếng Việt được, tại sao chữ Hán mình không chuyển thành chữ Việt.
Chúng ta cứ đem chữ Hán ra đọc. Hiện nay nhiều vị tu ở chùa, chữ Hán cũng
chút ít mà tụng kinh chữ Hán có biết gì đâu. Rồi Phật tử lại cũng tụng mà
không biết gì hết. Như vậy mình tu Phật có lệ thuộc những người đi trước
hay là những nước đàn anh đã theo đạo Phật ? Người ta chế, người ta sắp
đặt ra rồi mình theo như vậy thì có lệ thuộc không?
Rõ ràng,
chúng ta muốn độc lập về văn hóa mà ở trong tôn giáo chúng ta lệ thuộc một
cách đau đớn, đáng buồn. Cho nên tôi lên tiếng, tôi nói phải thay đổi lại,
không được lệ thuộc như vậy nữa. Như vậy chúng ta muốn không lệ thuộc thì
phải can đảm, phải chuyển hóa những gì lâu nay chúng ta bị lệ thuộc. Bây
giờ dứt khoát phải thay đổi. Như vậy mới gọi là gan, như vậy mới gọi là
người dám nhận đúng nhận sai. Nếu chúng ta không như vậy thì không có làm
gì được.
Ở đây, Thiền
viện Trúc Lâm ra đời, quí vị thấy chúng ta có cải đổi không ? Tất cả những
nghi thức đều chuyển thành tiếng Việt. Cho tới người ta gọi tôi là cầu kỳ.
Lâu nay người ta quen gặp nhau hoặc tất cả buổi lễ khi niệm tới danh hiệu
đức Phật thì niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, gần như đây là một
thông lệ không thay đổi được. Mà tôi dám thay đổi. Tôi đổi lại Nam Mô Phật
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tại sao tôi kỳ khôi vậy ? Làm việc lạ đời như vậy
?
Quí vị nhớ,
nếu đứng về mặt văn hóa thì văn hóa Trung Quốc, về câu văn luôn luôn danh
từ chung được đặt sau, danh từ riêng được đặt trước. Như Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là danh từ riêng, Phật là
danh từ chung. Danh từ chung đặt sau, danh từ riêng đặt trước. Đó là lối
văn phạm của Trung Quốc.
Còn người
Việt
Nam thì sao, danh từ chung được đặt trước, danh từ riêng được đặt sau. Thí
dụ như muốn giới thiệu một vị Thượng tọa tên Chân Tâm thì chúng ta phải
nói sao ? Đây là Thượng tọa Chân Tâm hay Chân Tâm Thượng tọa ? Nếu mình
nói Chân Tâm Thượng tọa chắc người ta cười rần, phải không ? Bởi vì Thượng
tọa là danh từ chung, Chân Tâm là danh từ riêng. Nói theo Việt
Nam
thì đây là Thượng tọa Chân Tâm. Như vậy Việt Nam phải rõ ràng là Việt Nam.
Tại sao chúng ta lệ thuộc chữ nghĩa, rồi lệ thuộc văn phạm, lệ thuộc hoàn
toàn. Như vậy chúng ta có can đảm hay không ?
Chúng ta là
người Việt
Nam, tu theo
đạo Phật, phải đem chánh pháp của Phật ứng dụng tu hành, chớ không nên lệ
thuộc người Ấn Độ về hình thức cũng như văn hóa chữ nghĩa. Mà không lệ
thuộc người Ấn Độ chẳng lẽ chúng ta lệ thuộc Trung Hoa. Trung Hoa không lệ
thuộc Ấn Độ, Nhật Bản không lệ thuộc Ấn Độ, mà Trung Hoa có ngôn ngữ văn
tự của Trung Hoa, Nhật Bản có ngôn ngữ văn tự của Nhật Bản. Việt Nam chúng
ta cũng có ngôn ngữ văn tự Việt Nam, mà chúng ta cứ ròng rặc đọc theo
Trung Hoa thì có lệ thuộc không ? Chúng ta tu theo Đại thừa, không cho lệ
thuộc bất cứ hình thức hay văn hóa nào ngoại lai. Nhưng rõ ràng Phật giáo
Việt Nam chúng ta lệ thuộc một cách đáng thương. Cho nên tôi chủ trương
cái gì lệ thuộc thì chúng ta phải gỡ. Chúng ta phải cởi ách nô lệ. Nô lệ
về chính trị, nô lệ về kinh tế, nô lệ về văn hóa. Không lẽ chúng ta để bị
nô lệ như vậy. Đây là cái nhìn riêng của tôi.
Hơn nữa,
Phật giáo đã đóng góp văn hóa cho dân tộc Việt
Nam
rất đáng kể. Nhưng nhiều khi chúng ta không để ý. Nếu để ý quí vị sẽ thấy.
Thuở nhỏ khoảng mười tuổi tôi thuộc lòng câu chuyện “mù rờ voi”. Mỗi khi
làm gì xem có vẻ không được, không thành hình thì các ông già bà già nói:
“Mầy làm như mù rờ voi”. Tôi không biết mù rờ voi là gì, chỉ biết làm như
vậy là không đúng thôi. Có chỗ nói kỹ hơn có con voi và một đám người mù
rờ nó. Người nói con voi như cái trống, người nói như cây cột, người nói
như cây chổi… Như vậy biết rằng mấy người mù nói không đúng thật hình
tượng con voi, mà chỉ đúng một bộ phận thôi. Cho nên làm việc gì không
đúng hoàn toàn, người ta nói “mầy là mù rờ voi”. Mình tưởng câu đó, chuyện
đó do tổ tiên mình đặt ra, nó là văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nhưng sau
này khi nghiên cứu kỹ bộ kinh Trường A Hàm, tôi thấy câu chuyện đó nằm
ngay trong kinh A Hàm.
Trong kinh
Trường A Hàm kể rằng: Phật nói có một ông Vua muốn trắc nghiệm những người
mù, ông bảo quần thần dẫn một con voi vào triều để trước sân triều. Mời
những người mù lại đứng hai bên. Ông quan hô to rằng: “Đây là con voi, ở
trước mặt các ông. Vậy các ông rờ xem diễn tả lại hình dáng con voi cho
nhà Vua nghe. Thử ai diễn tả đúng thì được khen thưởng.” Sau đó, mỗi người
chụp vào con voi, rờ được bộ phận nào liền nói. Như người chụp được cái
chân, vuốt từ trên xuống thì la lên “con voi giống cây cột”. Người chụp
được cái đuôi thì la “con voi giống cây chổi chà”. Người chụp được cái
bụng thì la “con voi giống cái trống”. Người chụp được lỗ tai thì la “con
voi giống cây quạt” v.v… Mỗi người nói mỗi cách. Nhà Vua và bá quan là
người sáng mắt nhìn thấy tức cười. Nhưng những người mù đó, người nói con
voi giống cây cột, người nói con voi giống cái trống. Hai người không chịu
thua. Người nào cũng nói mình trúng vì mình nắm được mà. Vì vậy người này
nói anh nói bậy, người kia nói anh nói trật. Hai người cãi một hồi đi đến
đánh lộn nhau. Đánh nhau tứ tung rồi, nhà Vua mới ra lệnh giải hòa mà bảo
rằng: “Vì các ông mù nên chỉ rờ được một bộ phận con voi. Nói diễn tả đúng
chỗ mình rờ được, chớ chưa thấy toàn bộ. Mỗi người đều rờ trúng nhưng chỉ
trúng một bộ phận, chớ không có toàn thể. Chỉ khi nào các ông sáng mắt thì
mới thấy toàn thể con voi”.
Nếu sáng mắt
rồi nhìn con voi có ai cãi lộn nhau đâu. Con voi như vậy thì thấy như vậy,
có gì đâu mà cãi. Sở dĩ cãi lộn là tại mù, nắm được có một phần. Cho nên
mình nói khác, người nói khác thành ra cãi lộn. Kết luận Phật nói: - Các
nhà triết học hiện đại cũng như vậy, như người mù. Nghĩa là nắm được một
bộ phận chân lý, rồi họ cho đó là cứu kính. Họ la lên, người khác cũng nắm
một bộ phận chân lý, cũng la lên. Và hai người không giống nhau thành cãi
lộn, sanh ra tranh cãi hơn thua phải quấy. Phật nói chỉ có người giác ngộ
trọn vẹn rồi thì mới thấy chân lý. Mà thấy chân lý trọn vẹn thì không còn
gì để cãi hết. Người giác ngộ trọn vẹn sẽ thấy như đức Phật.
Câu chuyện
đó phát nguồn từ kinh điển Phật, nó ăn sâu trong văn hóa Việt
Nam. Chẳng
những một câu chuyện mà còn nhiều câu chuyện nữa. Nếu quí vị chịu khó đọc
những kinh như Bách Dụ v.v… sẽ thấy có những thí dụ mà tổ tiên chúng ta
cũng dùng để dạy răn nhắc con cháu. Thế mới thấy văn hóa Phật giáo ảnh
hưởng đến dân tộc chúng ta rất nhiều. Vì vậy ngày nay chúng ta biết tôn
trọng sự độc lập của dân tộc. Chúng ta là người ở trong tôn giáo, cũng
phải biết tôn trọng sự độc lập của văn hóa Phật giáo. Chúng ta đừng lệ
thuộc hoặc một thứ chữ này thứ chữ khác. Hay cũng đừng lệ thuộc bất cứ một
đường lối nào của những người cùng tu đạo Phật ở nơi khác. Người ta thực
hiện theo phong tục tập quán của họ, mình cứ bắt chước, không sử dụng đúng
với tinh thần của Phật giáo Việt Nam. Chúng ta phải có một nền Phật giáo
Việt
Nam
thực sự. Nếu không thì chúng ta lệ thuộc một cách đáng thương. Nhất là bây
giờ quí vị về các chùa xưa thì thấy tụng kinh, thấy các hình thức lễ lượt
thật là Trung Quốc, chớ không có Việt
Nam
chút nào hết.
Tu theo đạo
Phật thì chúng ta phải có một cái nhìn, có một trí tuệ sáng suốt, chọn lựa
cái gì là hữu ích, có giá trị thực, chúng ta ứng dụng. Cái nào không thích
hợp, cái nào lệ thuộc về văn hóa của nước này hoặc nước kia thì chúng ta
phải cởi, phải bỏ để chuyển lại thành tất cả Phật giáo Việt
Nam
là của người Việt Nam. Ai cũng đọc, ai cũng hiểu và ai cũng có thể áp dụng
tu được. Như vậy mới thấy cái hay của tinh thần Bắc tông. Không như thế
thì chúng ta theo Bắc tông mà lệ thuộc Bắc tông, chớ không phải theo Bắc
tông mà độc lập như người Nhật, người Trung Hoa.
Chính vì vậy
tôi thấy chỉ có thiền Trúc Lâm Yên Tử là một đường lối tu thích ứng với
hoàn cảnh hiện tại của xã hội. Đó là một lối tu rất là Việt
Nam. Tại sao
? Quí vị thấy ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ngài Vô Ngôn Thông, ngài Thảo Đường…
truyền bá Thiền sang Việt Nam. Nhưng tới đời Trần, các Ngài lượm lặt những
tinh hoa của ba vị trước, rồi kết hợp lại thành thiền Trúc Lâm Yên Tử. Mà
thiền Trúc Lâm Yên Tử là thiền Việt
Nam.
Vì tổ Trúc Lâm là người Việt
Nam,
không phải từ Trung Quốc tới, không phải từ Ấn Độ sang. Đó là người Việt
Nam đứng ra tinh lọc những cái hay, những cái quý để giáo dục, để chỉ dạy
lại cho người sau, người Việt Nam.
Như
vậy, chúng ta không lấy đó làm cái mốc để chúng ta nhắm thì còn cái nào
tốt hơn. Cho nên tôi phải dùng Trúc Lâm Yên Tử làm mục tiêu chúng ta nhắm
để thực hiện theo tinh thần đó, ứng dụng tu và ứng dụng truyền bá để cho
người Việt Nam được tự tín rằng trên đất nước Việt Nam vẫn có những người
từng tu theo đạo Phật, từng tu theo Thiền tông, đã chứng ngộ, đã tự tại ra
đi và đã thấy được chân lý, tiếp tục truyền nối mãi tới ngày nay không
mất.
Như thế
người ta mới đủ lòng tin rằng Phật giáo Việt
Nam
có giá trị. Nếu chúng ta chạy theo bên này bên kia bên nọ để học, rốt cuộc
chúng ta không có gì hết. Thí dụ, chúng ta qua Thái Lan học, qua Miến Điện
học, qua Nhật Bản học v.v… để nói lên rằng ở Việt Nam chưa có gì để chúng
ta học. Nếu Phật giáo Việt Nam chưa có gì làm sao truyền bá được gần hai
mươi thế kỷ. Nếu không có gì thì nó bị mất bị diệt rồi. Mà truyền bá thời
gian dài như vậy thì biết rằng Phật giáo Việt Nam có một chỗ đứng rất
vững, có một đường đi rất rõ ràng, chớ không phải là không có gì. Nhưng
rất tiếc con cháu Việt
Nam
chúng ta không biết khai thác, không biết khơi dậy cái hay, cái đẹp, cái
tốt của Tổ tiên mình đã làm. Chúng ta tưởng chừng như mình không có gì,
rồi quên cái hay của Tổ tiên mình, chạy đi học của những người khác.
Như vậy mình
có lệ thuộc không ? Tuy theo đạo Phật mà chúng ta vẫn lệ thuộc. Cho nên
tôi chủ trương mình theo đạo Phật thì phải có lập trường, lấy cái hay của
Phật giáo Việt Nam làm chỗ đứng cho vững, để mình làm lợi ích cho người
Phật tử Việt Nam. Còn tham vọng hơn là cho tất cả những nước khác, người
ta mến đạo Phật nhìn thấy Phật giáo Việt Nam là một ngọn đuốc sáng, là chỗ
đáng tin cậy để họ học hỏi. Như vậy mới hay chứ ! Chẳng lẽ mình cứ chạy đi
học chỗ này học chỗ kia, rồi rốt cuộc cái của mình lại bỏ.
Chúng ta
phải biết khơi dậy ngọn đuốc sáng của Tổ tiên mình. Đó là chỗ mà tôi muốn
nói cho tất cả hiểu. Vậy nguyện vọng của tôi là gì ? Nguyện vọng của tôi
là muốn làm sao cho đất nước Việt
Nam được độc
lập, vững bền, lâu dài. Và muốn làm sao cho Phật giáo Việt Nam cũng có
những nét độc lập của Phật giáo Việt Nam. Đem đạo Phật ứng dụng tu nơi tâm
của mình, chớ không lệ thuộc hình thức người Ấn Độ, cũng không lệ thuộc
hình thức người Trung Hoa, người Nhật Bản v.v… Chỉ Phật giáo Việt Nam là
của Việt Nam. Như vậy chúng ta mới có được một cái gì cho đất nước mình,
cho xứ sở mình, chớ không thì chúng ta trống rỗng, chỉ học của người thôi,
mình không có gì hết. Đó là chỗ nhắm của tôi. Nếu tôi không nói ra, có lẽ
trong đây Tăng, Ni năm năm, mười năm sau có người hỏi tại sao Thầy đặt tên
Thiền viện này là Thiền viện Trúc Lâm, rồi lúng túng không biết trả lời.
Như không biết tại sao lâu nay người ta niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật mà Thầy lại niệm ngược lại, kỳ vậy.
Có thể việc
làm của tôi, chỗ mong mỏi, trông đợi của tôi, tôi muốn thực hiện mà người
sau tôi không biết. Đó cũng là cái hại. Nên hôm nay nhân ngày đầu năm tôi
nói rõ nguyện vọng của tôi cho Tăng, Ni và Phật tử hiểu. Sở dĩ tôi đặt tên
Thiền viện là cả một nguyện vọng gởi gấm vào đây, chớ không phải việc làm
suông, bắt chước hay tùy hứng. Mà đem tất cả tâm tư nguyện vọng của tôi
gởi gấm vào tên của Thiền viện. Và nhắm mãi, trông đợi mãi những người sau
tôi thấy rõ được nguyện vọng của tôi mà tiếp nối, làm cho nó sáng tỏ, làm
cho nó được lâu dài. Đó là chỗ trông đợi mong mỏi nơi tất cả Tăng, Ni và
Phật tử hiện giờ.
Hôm nay buổi
nói chuyện vào ngày đầu Xuân hay ngày Tết Nguyên Đán tới đây cũng tạm
xong. Vậy mong tất cả Tăng, Ni quí vị nhớ kỹ hiểu rõ thâm ý của tôi trông
đợi, mong mỏi thế nào, quí vị rán thực hiện. Như vậy chúng ta mới có được
một hướng đi và mới có được một con đường tiếp nối dài xa cho con cháu mai
sau. Đó là sự mong mỏi của tôi.
] |