PHÁP PHẬT LÀ THUỐC TRỊ
TÂM BỆNH CỦA CHÚNG SANH
Nói chuyện với đoàn Bác sĩ Phật tử Thành phố
Hồ Chí Minh - ngày 08-01-2000
Trong kinh Phật dạy pháp của Phật là những phương thuốc trị tâm bệnh cho
chúng sanh. Chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não, thì Phật có tám
muôn bốn ngàn pháp môn. Như vậy mỗi pháp của Phật trị mỗi bệnh của chúng
sanh. Nếu chúng sanh có bệnh, biết rõ bệnh của mình, lấy pháp của Phật trị
thì bệnh sẽ lành. Còn người có bệnh mà không biết thì chịu thua, hoặc biết
bệnh nhưng không biết thuốc cũng không dùng được.
Như vậy pháp Phật là pháp trị
bệnh cho chúng sanh. Thế nhưng pháp Phật đã có hai ngàn năm trăm mấy chục
năm rồi, mà bệnh chúng sanh cũng không hết, bởi vì chúng sanh nhiều bệnh
quá.
Như chúng ta
đã biết, sau khi đức Phật giác ngộ dưới cội bồ-đề rồi, Ngài tìm đến năm
anh em ông Kiều Trần Như để hóa độ. Bài pháp đầu tiên Phật nói là Tứ Diệu
Đế. Tứ Diệu Đế chia ra hai phần, một phần chỉ ra sự đau khổ, một phần dạy
cách diệt đau khổ.
Về
phần đau khổ, Phật chỉ thân này chứa đựng bao nhiêu sự đau khổ, nên có
thân là có khổ. Vậy cái khổ đó ai đặt ra, từ đâu đến ? Đức Phật bảo cái
khổ đó có nguyên nhân. Nguyên nhân đó là gì ? Gọi là Tập. Như vậy khổ là
một lẽ thật, nguyên nhân tạo khổ cũng là một lẽ thật. Vì vậy nên nói Khổ
đế, Tập đế.
Khổ đã không phải ngẫu nhiên đến
mà có nguyên nhân. Vậy khi biết nguyên nhân rồi muốn cho hết khổ thì phải
tiêu diệt nguyên nhân gây khổ. Tiêu diệt được nguyên nhân gây khổ thì sẽ
hết khổ. Nhưng muốn tiêu diệt nguyên nhân đau khổ không thể nói suông, mà
phải có phương pháp. Cũng như thầy thuốc biết bệnh đang hành, bệnh nhân
đang khổ, thì phải truy nguyên tìm ra vi trùng gây bệnh. Biết chính xác vi
trùng rồi thì phải diệt vi trùng, diệt vi trùng xong mới hết bệnh. Nhưng
nói diệt vi trùng suông thôi thì không được, phải có phương thuốc cụ thể,
mới diệt hết vi trùng.
Cũng vậy, Phật
dạy tất cả khổ của chúng sanh đều có nguyên nhân. Nếu chúng ta tra cứu
biết rõ nguyên nhân rồi thì phải tiêu diệt nó, muốn tiêu diệt nó phải có
phương pháp. Nên Phật nói Khổ đế là quả, Tập đế là nhân. Diệt đế là diệt
hết nhân khổ. Muốn diệt hết nhân khổ phải có phương pháp, phương pháp đó
là Đạo đế. Có phương pháp mới dùng phương pháp ấy diệt hết nguyên nhân đau
khổ. Do đó, Diệt đế là quả giải thoát, còn nhân của quả giải thoát là Đạo
đế, tức phương pháp diệt khổ.
Đức Phật dạy chúng sanh đâu khác gì việc của các thầy thuốc đang làm. Nên
đạo Phật rất thực tế, không nói chuyện viễn vông xa vời gì hết. Ai có bệnh
chỉ cần dùng thuốc đúng thì trị lành bệnh. Trị lành bệnh là hết khổ, nên
nói đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh.
Ở
thế gian, thầy thuốc trị về thân bệnh. Trong đạo, Phật trị tâm bệnh. Giữa
hai việc điều trị đó, việc nào quan trọng hơn ? Điều trị tâm bệnh quan
trọng hơn. Bởi vì dù thầy thuốc hay mấy, biết bệnh nhân đang bị đau tim,
hay đau phổi. Thầy thuốc có thuốc nhưng người bệnh cứ rầu, cứ buồn, thì
trị nổi không ? Không nổi. Vì tâm người bệnh không an, không vui thì điều
trị khó lành. Vì vậy nên tâm bệnh rất là hệ trọng. Nếu thầy thuốc có được
hai phương thuốc, một trị thân bệnh, một trị tâm bệnh thì hay biết mấy.
Trị như vậy mới toàn hảo, còn chỉ một phần thì chưa được.
Để
trị tâm bệnh Phật dạy những pháp để tiêu trừ nguyên nhân sanh ra bệnh.
Bệnh của chúng sanh tới tám muôn bốn ngàn, pháp của Phật cũng có tới tám
muôn bốn ngàn. Nhưng nói về cội gốc của bệnh, thì có sáu thứ căn bản phiền
não. Trước khi nói pháp trị bệnh chúng ta cần phải biết các thứ bệnh. Bệnh
tình đó đang thế nào, muốn giới thiệu thuốc thì phải biết hậu quả hay hiện
trạng bệnh đang hoành hành ra sao.
Bây
giờ thử nghiệm lại tất cả chúng ta trong hiện đời khổ hay vui ? Nếu vui
thì không có bệnh, không bệnh thì cần gì thuốc. Nếu có bệnh mới tìm nguyên
nhân gây bệnh và trị bằng cách nào. Trong nhà Phật nói con người bị bốn,
hoặc tám thứ khổ vây hãm, không ai thoát khỏi. Sanh khổ, già khổ, bệnh
khổ, chết khổ, có ai khỏi đâu ? Như vậy quả thật chúng ta là bệnh nhân
rồi. Ngoài ra còn ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ
ấm xí thạnh khổ. Nghĩa là thương yêu xa lìa khổ, oán thù mà gặp mặt hoài
khổ, mong muốn không được khổ, thân này tự bại hoại không an khổ. Kiểm lại
trong tám thứ khổ chúng ta đều có đủ. Rõ ràng xác định được chúng ta là
bệnh nhân rồi, thì mới nói tới trị liệu.
Muốn trị bệnh thì phải phăng tìm nguyên nhân. Nguyên nhân nào sanh ra
những thứ khổ đó. Phật nói nhiều lắm nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Vì có nhân này nên có quả kia. Thí dụ như
tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu ?
Nhưng rồi cũng phải chết, bởi vậy nên khổ. Bây giờ mình hết tham sống thì
không sợ chết. Mà không sợ chết thì đâu còn khổ.
Từ
tham sanh bao nhiêu thứ khổ. Đức Phật chia ra hai thứ: một là tham về ngũ
dục, hai là ngũ trần. Tham ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy. Tài là
tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống, thùy là ngủ
nghỉ, năm cái này để cho mình tham. Từ những tâm tham này sanh ra các thứ
khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc gì để trị vi trùng tham.
Tham tài phải lấy hai thứ thuốc hòa hợp lại trị. Thuốc thứ nhất là “bố
thí”, thuốc thứ hai là “vô thường”. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta
bị năm nhà cướp lấy. Năm nhà là gì: 1- Nước lụt, 2- Trộm cướp, 3- Con bất
hiếu, 4- Lửa cháy, 5- Vua chúa hay quan quyền tìm cách cưỡng đoạt.
Như chúng ta chứng kiến nạn lụt
miền Trung vừa rồi, bao nhiêu năm dành dụm chỉ một cơn lũ là cuốn sạch,
không còn gì cả. Như vậy tài sản của chúng ta có bảo đảm đâu, nên Phật nói
nó thuộc về năm nhà. Nếu không bị lụt, có khi bị cháy cũng rụi. Không cháy
thì bị trộm cướp, không bị trộm cướp thì con bất hiếu phá hết sự nghiệp.
Không bị con cái thì gặp những thế lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy.
Tuy nói tiền
bạc của cải của mình nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài, như vậy tham để
làm gì ? Nghĩ đến lý vô thường chúng ta bớt tham. Bớt tham thì bớt khổ.
Con người thường có bệnh hễ tiền của trong tay thì được một đòi hai, được
hai đòi bốn, muốn thêm hoài. Ở đây Phật dạy phải xả, phải bố thí. Nên nghĩ
chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho người. Như vậy là bớt
lòng tham. Nếu người dư dả đem bố thí, vì biết rằng của cải giữ không
được, không có tâm gom góp, keo xẻn là đã trị được bệnh tham tài. Rõ ràng
có bệnh thì có thuốc. Biết được nguyên nhân vì tham tài, mà cầu bất đắc
nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài không được thì khổ. Bây giờ mình
đem ra bố thí tức không cần giữ gìn nữa thì đâu còn lòng tham. Mà không
tham thì đâu có khổ.
Người tham sắc Phật dạy dùng
thuốc “quán bất tịnh” để trị. Bởi vì khi tham sắc thì thấy người đẹp, tự
nhiên chúng ta nghĩ ngợi người đó đẹp thế này, người đó quí, sang thế nọ
v.v… Ngược lại nếu chúng ta quán thân mình bẩn thỉu không ra gì, thân mọi
người cũng vậy. Quán đến khi mình gớm thân mình, thì thân người khác mình
cũng gớm luôn. Mà gớm thì hết tham. Đó là cách trị bệnh tham sắc.
Đến tham danh phải dùng pháp
quán “vô thường”. Bởi vì mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Thí dụ như
người ứng cử Tổng Thống được đắc cử, thì bốn năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có
còn mãi đâu ? Bởi nó không bền, vì vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ
hai thứ hòa hợp. Khi chưa được danh vì lo lắng chạy chọt đủ thứ đã là khổ.
Khi được rồi lo nó mất lại khổ nữa. Nếu thật sự nó mất thì càng buồn. Cho
nên quán tham danh gốc là khổ đau. Người không hiếu danh dù được mời gọi
cũng không muốn. Nếu có làm việc gì thì vì tất cả lợi ích chung chớ không
vì danh vị của mình. Đã vì tất cả lợi ích chung thì được không mừng, mất
cũng không lo, như vậy mới không khổ.
Đến việc tham ăn (thực) cũng là gốc của khổ. Phải dùng hai thứ thuốc “vô
thường” và “bất tịnh” hòa lại. Thức ăn khi còn ở miệng thì quí, nhưng nuốt
qua khỏi cổ rồi thì hết quí. Dã sử nó không chịu vào mà ụa ra thì có gớm
không ? Như vậy nó quí khi còn ở ngoài. Nuốt vô rồi nó trở thành dơ, đâu
phải là quí. Tại vì chúng ta cứ mê say nên cho là quí. Nếu thấy nhơ nhớp
thì đâu có tham. Lại một điều nữa, thức ăn ngon được bao lâu ? Chỉ một hai
phút ở trong lưỡi trong miệng thôi, qua khỏi cổ thì hết ngon rồi, nên nó
tạm bợ vô thường, tham làm gì. Xét như vậy thì bớt được tham ăn.
Tới
bệnh tham ngủ. Nhà Phật dạy muốn trừ bệnh tham ngủ phải dùng thuốc “vô
thường”, thuốc “tinh tấn” hòa lại. Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu,
không có gì bảo đảm. Giờ nào còn sống thì mừng giờ đó, qua giờ khác thì
không thể biết được. Vì thân này rất mỏng manh, rất tạm bợ. Nên chúng ta
hiện sống, có những việc nên làm đáng làm, mà không lo làm, cứ nằm ngủ
hoài. Nhà Phật dùng câu: “Cần tu như lửa cháy đầu”, nếu đốm lửa rơi trên
đầu thì chúng ta chần chờ hay phủi ngay. Vô thường đến bất kể lúc nào,
chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy giờ nào còn sống, còn khỏe thì
nên làm tất cả những gì có thể làm, chớ không bỏ trôi ngày giờ lãng phí
một cách vô ích.
Như vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn thì trừ được bệnh tham ngủ. Nên
tôi thường nói với Tăng, Ni muốn trị bệnh tham ngủû thì phải dùng cây roi
tinh tấn mà đánh cho nó thức.
Như vậy là trị năm thứ ngũ dục bằng năm thứ thuốc rồi. Ở đây tôi không nói
ngũ trần vì ngũ trần cũng anh em với ngũ dục vậy thôi.
Qua
sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bệnh tham đã
có mấy bài thuốc ở trên rồi, đến đây khỏi phải nhắc lại. Kế bệnh sân, thì
trị bằng hai thứ thuốc “từ bi” và “nhẫn nhục”. Nhẫn nhục là giải quyết cấp
thời, khi người ta làm trái ý, mình nổi sân lên liền phải nhẫn, buông xả
đi thì gọi là nhẫn nhục. Buông xả dừng được cơn thịnh nộ rồi, nhưng lâu
lâu nhớ lại cũng tức. Nghĩ rằng người ta nói bậy, làm bậy, mình mới giận.
Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại vì ngu si nên họ làm quấy thật đáng
thương. Nghĩ như vậy mới hết giận luôn, chớ còn đè nén, mai mốt nhớ lại
giận nữa thì không được. Cho nên có thuốc nhẫn nhục mà không có thuốc từ
bi thì cũng dễ tái phát. Có nhẫn nhục rồi phải có từ bi quán theo sau đó.
Bởi vì nếu chúng ta có tình thương thì lỗi nhiều thấy ít, nếu không thương
thì lỗi ít thấy nhiều, không thể thứ tha được. Vì vậy phải vừa nhẫn nhục,
vừa quán từ bi mới trị hết bệnh nóng giận.
Đến si, tức si mê. Si mê có hai tầng bậc: Thứ nhất không biết gì là tội,
gì là phước, gì là tà, gì là chánh, không phân biệt rành rẽ. Đó là si mê
hạng thấp.
Tuy
nhiên quí Phật tử thử xét lại xem thiện, ác chúng ta đã phân biệt rành
chưa ? Đôi khi chúng ta tưởng như mình đã biết rất rành về thiện ác, nhưng
có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác lại thành thiện. Thí dụ cô
giáo phạt học trò lười, trốn học hoài thì thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó
sợ cố gắng học, như vậy thì ác hay thiện ? Còn dã sử như kẻ ghiền á phiện
bị ụa mửa, có người thấy vậy mua á phiện đưa cho họ hút, như vậy thiện hay
ác ? Mới nhìn như thiện vì kẻ đang khổ, cho hút thì họ đỡ khổ, nhưng sự
thật thì ác vì làm cho họ ghiền hoài. Nên nhiều việc mới nhìn thấy thiện,
mà hậu quả lại ác hoặc ngược lại mới nhìn thấy ác nhưng hậu quả lại thiện.
Vì vậy phân biệt thiện ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể
phân biệt được. Phân biệt được thiện ác mới phân biệt được tội phước. Cái
gì tội, cái gì phước ? Nếu việc làm giúp ích được người lâu dài thì có
phước. Còn việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho
người lâu dài thì trở thành ác. Như vậy thiện ác thật khó xử, khó giải
quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện ác thì tội phước mới không
lầm lẫn.
Cũng vậy tà chánh, rất khó phân biệt. Có những trường hợp mới nghe như
phải, như chánh, nhưng mà rốt cuộc lại tà. Như có người trong đạo Phật,
rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên tin đức Phật có đầy đủ vạn năng
xin cái gì cũng được. Vì vậy mỗi khi có tai nạn hoặc gặp vui buồn cứ đến
xin Phật cầu Phật. Quan niệm như vậy là đã thành tà. Cung kính Phật tại
sao lại tà, đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử chúng ta không nhận ra. Đức
Phật từng tuyên bố “ta không có quyền ban phước giáng họa cho ai”. Vậy
chúng ta xin Phật cho hết tai họa thì có ngược lại lời Ngài nói không ?
Phật dạy một đàng, chúng ta làm một ngả, không phải tà là gì ? Trong đạo,
người mắc kẹt bệnh này rất nhiều. Tu thì không chịu tu mà cứ xin. Phật dạy
dùng pháp để trị tâm bệnh mà chúng ta cứ xin là sao ? Có nhiều Phật tử nói
tôi theo đạo Phật mười năm rồi, mà động tới thì phiền não đủ thứ. Tu mà
không hết khổ thì đạo Phật vô hiệu, không giá trị. Như vậy kẻ ấy làm tăng
giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật ? Việc này thật tế nhị. Quí
Phật tử phải hiểu tin Phật là nên tin điều gì và không nên tin điều gì.
Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái này cái nọ. Được như ý
thì nói Phật linh, rủ nhau đi chùa. Nếu không được như ý thì Phật không
linh. Bà Chúa Xứ linh hơn, đi xin Bà Chúa Xứ, thế là đã lạc vào đường tà.
Phật dạy chúng ta phương pháp tu, nếu có nóng giận nên tu pháp gì, đâu có
cầu ai. Ứng dụng pháp Phật để tu thì phiền não giảm, đau khổ bớt. Như vậy
Phật cứu khổ cho mình rồi. Cũng như thầy thuốc khám bệnh, cho thuốc, nhưng
bệnh nhân không chịu uống. Vậy làm sao hết bệnh. Kẻ ấy thầy thuốc cũng
chịu không có cách nào khác. Phật là thầy thuốc trị tâm bệnh cho chúng
sanh. Nhưng chúng sanh không chịu dùng thuốc thì làm sao hết bệnh, nên
theo đạo Phật mà vẫn tà như thường. Hiện nay có rất đông người theo đạo
Phật như vậy.
Nhiều huynh đệ than phiền nói
tôi tu mà cứ chỉ trích người này chỉ trích người kia. Vì tôi thấy việc tà
mà không xây dựng, không chỉ dạy thì đối với Phật pháp tôi đã có tội rồi.
Do đó muốn phân biệt tà chánh rất là khó.
Đó
là chưa kể nhiều người tuyên bố mình là Bồ-tát tái thế để độ chúng sanh,
hay họ tuyên bố có câu chú lá bùa trị lành tất cả bệnh. Quí Phật tử nghĩ
sao, điều đó chánh hay tà ? Trong nhà Phật dạy không có vị Bồ-tát nào hiện
thân ra đời mà vỗ ngực xưng tên ta là Bồ-tát cả. Bồ-tát đi lẫn trong quần
chúng hành mật hạnh Bồ-tát. Nếu nói ta là Bồ-tát để được người cung kính
lễ lạy thì làm sao hành hạnh Bồ-tát ? Chỉ như có người bệnh cần phải cõng
đi bệnh viện thì Bồ-tát làm. Người gặp cảnh nghèo đói cần giúp thì Bồ-tát
giúp thầm lặng, không hiện tướng khác người. Đôi khi vì thử người, Bồ-tát
hiện thân thấp kém để thử người mến đạo. Nếu xưng Bồ-tát, mọi người đều
quí kính hết thì làm được gì. Tự xưng Bồ-tát còn không phải hạnh Bồ-tát,
huống nữa tự xưng Phật thì chúng ta bái không nên lại gần, vì đó là tà
rồi.
Điểm kế nữa, người dạy tu mà bảo phải thề độc, nếu bỏ đạo sẽ bị đọa địa
ngục v.v… Như vậy tà hay chánh ? Chắc chắn là tà rồi. Bởi tà nên họ sợ
người ta bỏ. Vì vậy bắt thề độc, lỡ vô rồi phải trung thành. Đó là tà
giáo, nhiều Phật tử bị lầm đáng thương lắm.
Đức
Phật dạy chúng ta qui y Phật thề tránh điều dữ nguyện làm việc lành, chớ
không thề thốt gì hết. Lúc nào không muốn tu nữa thì thôi, không có chuyện
hăm dọa bỏ đạo bị đọa địa ngục. Phân biệt tà chánh phải dùng trí tuệ. Muốn
trị bệnh si mê thì vận dụng trí tuệ quán chiếu mới trị được. Bởi vì từ si
mê người ta tạo đủ thứ nghiệp, chịu đủ thứ khổ. Nay muốn có trí tuệ chúng
ta phải: Một học chánh pháp (hữu sư trí), hai tu thiền định (vô sư trí).
Lấy trí tuệ dẹp si mê.
Phần thứ nhất tôi nói về si mê cạn, đến phần thứ hai tôi nói về si mê sâu.
Si mê sâu là giả mà tưởng là thật, cái thật lại không biết. Như thân này
giả mà chúng ta tưởng thật. Đó là si mê. Si mê sâu này rất nguy hiểm vì
chấp giả làm thật, nên không bao giờ biết được cái thật. Đến tâm cũng chấp
cái giả của tâm cho là tâm thật. Trong kinh Lăng Nghiêm, phần bảy chỗ hỏi
tâm. Phật hỏi ngài A-nan:
-
Cái gì là tâm của ông ?
Ngài A-nan trả lời:
-
Bạch Thế Tôn cái hay suy nghĩ là tâm con.
Phật quở:
-
Cái đó không phải tâm ông.
Ngài hoảng hốt hỏi Phật.
-
Vậy con không có tâm sao ?
Phật nói:
-
Ông có tâm, nhưng cái suy nghĩ đó không phải là tâm ông.
Phật liền dùng thí dụ chàng Diễn Nhã Đạt Đa đứng trước mặt gương soi mặt,
thấy đầu mặt rõ ràng trong gương. Khi úp gương xuống đầu mặt mất. Ông ôm
đầu chạy nói: “Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi”. Tại sao ông ôm đầu chạy
lại la mất đầu ? Tại chấp bóng cho là đầu thật, nên mất bóng liền ôm đầu
thật chạy la mất đầu. Chúng ta cũng vậy, suy nghĩ phân biệt mà cho là tâm
mình. Thật ra đó là duyên theo bóng, nghĩ về người thì có bóng người, nghĩ
về vật có bóng vật. Nó lăng xăng nhưng tìm lại thì mất dạng. Không phải
bóng là gì ? Khi không suy nghĩ, không tính toán gì hết, lặng yên, lúc đó
có tâm mình không ? Tâm là cái biết, mắt thấy biết, tai nghe biết. Vậy mà
chúng ta không bao giờ nhận cái đó, cứ nhận bóng dáng cho là mình. Như vậy
chúng ta có giống Diễn Nhã Đạt Đa không, cứ chấp bóng là tâm mình. Chấp
bóng là mình tức chấp tâm giả cho là thật, thì không bao giờ thấy được tâm
thật.
Nên
biết, tại sao chúng ta phải tu thiền. Là để cái tâm tạm bợ bóng dáng đó
lặng xuống, nếu theo nó liên tục thì làm gì thấy cái thật. Tôi thường ví
dụ như cái gương, nhìn vào thấy có bóng người, bóng vật. Lúc đó chúng ta
thấy mặt gương rõ không? Bởi mãi lo thấy bóng mà quên gương. Nếu khi không
thấy bóng mới nhận ra mặt gương luôn trong sáng. Cũng vậy, tâm chúng ta
luôn hiện tiền trong sáng. Nhưng chạy theo vọng tưởng thì quên tâm. Khi
dừng được vọng tưởng, cũng như gương không có bóng, mặt gương hiện rõ
ràng. Chúng ta tu thiền chủ yếu là vì thế.
Tâm theo cảnh
là tâm tạo nghiệp, buồn thương giận ghét là mầm tạo nghiệp. Nếu không nghĩ
ngợi lăng xăng thì có buồn thương giận ghét không ? Tâm không buồn thương
giận ghét đâu có sanh diệt. Không sanh diệt mới thật là cái chân thật của
mình. Do đó si mê tầng thứ hai này rất sâu. Tầng thứ nhất vừa nói có thể
biết liền, còn thứ si mê này thật thâm trầm, Phật gọi đó là vô minh.
Đối với si mê cạn thì chúng ta dùng trí tuệ hữu học phân biệt chánh, tà.
Đối với si mê sâu chấp giả làm thật thì phải có công phu tu. Từ trí do
huân tu mới nhận chân được lẽ thật. Đây là nhân giải thoát sanh tử.
Tóm
lại, muốn trị bệnh si mê phải dùng thuốc trí tuệ và thiền định. Trí tuệ là
trí hữu học, còn thiền định để tăng trí vô sư. Như chỉ thắp đèn mới phá
được bóng tối. Nếu không như thế thì làm sao phá được phiền não. Cho nên
người học Phật không có trí tuệ thì không làm sao phá được phiền não. Vì
trí tuệ phá si mê. Mà si mê sanh ra phiền não. Si mê chấp thân, si mê chấp
tâm v.v… Bao nhiêu khổ đau theo đó mà ra.
Đến
bệnh mạn, tức ngã mạn. Tại sao chúng ta có bệnh khinh mạn hay ngã mạn này
? Vì một là chấp thân, hai là chấp tâm. Thí dụ người đẹp, sang cả thì thấy
ta hơn thiên hạ, hoặc người thông minh học giỏi cũng thấy ta hơn người. Từ
hai thứ chấp thân chấp tâm, thân đẹp thì cho là quí, tâm lanh lợi thì cho
là khôn ngoan, đó là bệnh ngạo mạn. Bệnh này phải dùng thuốc “vô ngã” để
trị. Vô ngã có hai: Về thân thì do tứ đại hòa hợp. Về tâm thì tất cả suy
nghĩ đều là vọng tưởng hư dối, có gì thật đâu mà chấp. Ta đã không thật mà
trọng mình khinh người là điều vô lý. Nên dùng pháp quán vô ngã, thân tứ
đại duyên hợp nên không có ngã thật, tâm cũng là bóng dáng của ngoại trần,
nên cũng không thật, có gì là khôn có gì là hơn. Lấy vô ngã để phá ngã
mạn, đó là thuốc trị bệnh mạn.
Đến nghi, thường nghi có hai
loại: Trong nhà thiền hay nói “đa nghi đa ngộ” thì cái nghi này là nghi
quí. Còn nghi bệnh như: một là nghi mình, hai là nghi Tam Bảo. Nghi không
biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có đúng không, các thầy tu có thật
không. Do nghi như vậy nên đối với Tam Bảo mất hết lòng tin. Kế, nghi mình
tu không nổi. Đã nghi mình, nghi Tam Bảo thì làm sao tiến được. Cho nên
muốn hết nghi phải lấy thuốc “chánh tín” để trị. Tức là lấy lòng tin. Lòng
tin ở đây là từ trí tuệ mà có, chớ không phải tin mù quáng. Bởi tin có
hai: Tin do trí tuệ gọi là chánh tín. Tin một cách mù quáng gọi là mê tín.
Chữ tin này cần phải hiểu cho rõ ràng.
Dùng chánh tín
tức là lòng tin chân chánh để dẹp cái nghi. Chánh tín là tin thế nào ?
Một: Tin Tam bảo bằng trí tuệ, đức Phật có thật hay không, chúng ta phải
tra khảo tìm hiểu cho rõ. Khi nào biết thật có đức Phật là con người tu
hành thành đạo, tin được Phật rồi. Thứ hai là tin pháp của Phật. Pháp này
đúng sự thật hay huyền hoặc sai với chân lý. Nếu đúng thì chúng ta mới tin
pháp. Thứ ba là tin Tăng, những vị xuất gia tu theo Phật gồm có Tăng Ni.
Các vị này có tu chân chánh hay không ? Nghiệm xét thấy hoàn toàn chân
chánh đúng với chánh pháp của Phật mới tin. Nhờ biết nhận định từ trí tuệ
nên gọi là chánh tín. Vì vậy Phật dạy phải văn tư tu. Xét đủ rồi mới đủ
lòng tin Tam Bảo. Tin Tam Bảo là tín tha, kế đến phải tự tín, tức là tin
nơi mình. Tin chắc rằng mình có thể tu được. Nhờ tin như vậy nên mới cố
gắng tu. Nếu không, chúng ta sẽ sợ mình ăn chay không nổi, ngồi thiền
không nổi. Không tin mình thì không thể làm gì được, mặc dù tin Tam Bảo.
Cho nên tin Tam Bảo còn phải tự tin nữa. Những việc Phật làm được chúng ta
cũng làm được. Mình sẽ tu được, không thua ai. Lòng tự tín phải mãnh liệt
như vậy. Tóm lại, lấy thuốc chánh tín để trị bệnh nghi ngờ.
Cuối cùng là ác kiến. Trong phần ác kiến có: thân kiến, biên kiến, kiến
thủ, giới cấm thủ, tà kiến. Ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh phần tà kiến, bởi vì
phần này rất tế nhị. Thường người ta nói tà là lệch là nghiêng. Kiến ở đây
không phải thấy mà nhận định. Tà kiến nghĩa là nhận định một cách sai lầm.
Thí dụ như nói chết là hết, hoặc cho rằng chết rồi, linh hồn vẫn còn hoài,
A trở lại làm A, muôn kiếp vẫn là A thôi. Đây là tà kiến, vì một bên chấp
đoạn kiến, một bên chấp thường kiến. Ngoài ra như chuyện đến núi Sam xin
vay tiền Bà Chúa Xứ về làm ăn v.v… Đây là vừa thuộc về mê tín, vừa là tà
kiến.
Nếu nói Bà Chúa Xứ linh thiêng, ai vay tiền Bà đều phát đạt hết thì từ
Long Xuyên lên Châu Đốc mọi người phải giàu hết vì họ ở gần, dễ chạy lên
vay. Nhưng thực tế xét kỹ từ Long Xuyên lên Châu Đốc hay vùng lân cận được
bao nhiêu người giàu ? Lẽ ra từ gần tới xa. Nhưng ở gần đã không ra gì thì
ở xa làm sao xin được. Tin như vậy là tin nhảm nhí, tin tà kiến. Tà kiến
ngay con người mình, cứ nghĩ mình có linh hồn, mình chết rồi linh hồn còn
nguyên trở lại làm người v.v… Nhà Phật gọi như thế là tà kiến, vì chấp
thường kiến. Còn cho rằng chết là hết không có nhân quả báo ứng gì cả thì
thuộc về đoạn kiến, cũng là tà kiến.
Trong đạo Phật không nói còn
mãi, cũng không nói chết là hết. Quan trọng là phải làm sao nhận ra nơi
con người mình phần nào sanh diệt, phần nào không sanh diệt. Nhận được như
vậy rồi, phải làm sao cho phần không sanh diệt không bị phủ che. Còn trên
mặt sanh diệt, nói còn hoài là sai, nói hết cũng sai. Bởi vì lâu nay người
ta hay nói cái gì mất rồi là hết, nhưng sự thật không hết. Tất cả đều là
một vòng chuyển biến tụ tán, tụ tán. Kể cả các hình thức nhỏ nhất như bụi
đất v.v… Cục đất to đập nát thành bụi nhỏ, nhìn cục đất thì thấy mất,
nhưng nó thành cát bụi chớ không mất, chỉ chuyển biến đổi hình đổi dạng
thôi. Thân này cũng vậy khi hoại đất trả về đất, nước trả về nước, gió trả
về gió, lửa trả về lửa chớ không mất, không hết. Vậy mà chúng ta thường
nhận định sai lầm, chết là hết. Đó là tà kiến. Nên người Phật tử phải biết
từ thể xác đến tinh thần đều tùy duyên. Chúng luân chuyển tụ nơi này tan
nơi kia chớ không hết. Tùy duyên luân chuyển tức là luân hồi.
Biết rõ nguyên nhân tạo thành
luân hồi như vậy mới có thể chận đứng nó lại. Hiểu thế mới tu giải thoát
sanh tử. Nhiều người nói tu để giải thoát sanh tử, nhưng hỏi giải thoát
cái gì, làm sao giải thoát thì không biết. Nếu chấp thân sanh diệt là thân
mình, chấp tâm sanh diệt là tâm mình, đó là tiếp tục tạo nghiệp luân hồi,
không bao giờ dừng. Còn không chấp hai thứ đó mà sống được với cái chân
thật không sanh diệt của mình thì không tạo nghiệp. Đó là giải thoát,
không bị lôi cuốn đi trong sanh tử nữa.
Có
người hiểu lầm đạo Phật, nói đạo Phật là đạo cứu khổ nhưng sao quí Thầy ít
làm việc từ thiện hơn người tu đạo Chúa. Thầy chỉ giảng kinh như vậy thì
cứu khổ chúng sanh chỗ nào ? Bởi vì cái nhìn của đạo Phật khác đạo Chúa.
Thí dụ như thấy đứa bé ra bãi biển vun cát làm núi non chơi, một lát sóng
biển ào lên cuốn trôi mất hết, rồi nó tiếp tục làm nữa, cũng bị cuốn trôi
mãi, như vậy tội nghiệp nó tốn công vô ích, sao không làm gì khác hay hơn.
Đây cũng vậy, nếu chúng ta còn
luân hồi, bỏ thân này tụ lại thân khác kiếp kiếp đời đời không ra khỏi.
Nên Phật nói không có khổ nào lớn bằng khổ luân hồi. Cuộc sống mấy chục
năm ra gì, có thiếu, có đói cũng là tạm thời. Dài thì chết muộn, ngắn thì
chết sớm, tất cả cũng phải chết, không ai thoát được. Như vậy điều đáng lo
nhất là làm sao ngay nơi thân này đừng tiếp tục làm việc vô ích nữa. Chúng
ta xét xem cứ mỗi lần sanh ra chết đi, ta làm được những gì cho người cho
mình. Hay sanh ra lớn lên rồi già chết, đời này qua đời khác. Cứ như vậy
hoài thật là vô lý. Nên Phật nói đi trong luân hồi không có khổ nào bằng.
Cứu khổ chúng sanh là làm sao cho họ thoát khỏi luân hồi. Đó là gốc của
đạo Phật. Điều này chỉ có Phật thấy chớ chúng ta đâu thấy. Con người chỉ
thấy đói rách và những thứ cần thiết trong cuộc sống. Mà thân này đã tạm
bợ thì những thứ phụ thuộc trong cuộc sống càng tạm bợ hơn. Vì vậy Phật
nói khổ từ đời này sang đời khác liên tục không biết khi nào dừng.
Trong kinh đức
Phật dạy rằng: “Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ
làm ngạ quỉ đói khát chưa phải là khổ, cái khổ làm trâu ngựa kéo cày kéo
xe chưa phải là khổ, chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ”. Cho nên đức
Phật nói vô minh mê lầm là khổ nhất. Bởi vì nó dẫn mình đi trong luân hồi
vô số kiếp. Phá được nó, không còn lầm lẫn nữa, gọi là giải thoát sanh tử.
Được vậy mới thực sự hết khổ. Đạo Phật hết sức thâm sâu, chỉ vì người ta
không biết nên mới phê phán thế này thế nọ.
Vì đạo Phật đưa chúng ta đi quá
cái tầm thường của con người, nên con người khó tin khó nhận. Đức Phật
thấy tột cội nguồn nên Ngài thương chỉ dạy cho chúng ta đến chỗ đó mới là
cứu kính. Không phải tu chút ít được phước sanh cõi lành mà cho là đủ. Sợi
dây xích dù bằng vàng, nhốt chúng ta trong nhà lầu cũng bằng vàng, nhưng
chúng ta vẫn thấy khổ như thường. Bởi vì còn dây xích là còn khổ. Dù xích
vàng hay sắt gì cũng đều khổ hết. Khi nào thoát khỏi dây xích mới hết khổ.
Giải thoát là như vậy. Cho nên đạo Phật không khuyên chúng ta tu để đời
sau được sanh lên cõi trời, mà phải giải thoát sanh tử. Đó mới là cội gốc.
Thế nên chúng ta phải biết những gì đức Phật dạy là những phương thuốc trị
bệnh cho chúng sanh hết khổ. Từ bệnh tham, bệnh sân, bệnh si v.v… những
bệnh đó bớt được là bớt khổ. Nếu được hết sạch thì sẽ đi đến chỗ giải
thoát sanh tử. Những phương pháp Phật dạy gọi là Đạo đế. Dứt được mầm đau
khổ là Diệt đế, là giải thoát sanh tử.
Như vậy học Phật, tu Phật là phải ứng dụng phương pháp Phật dạy. Thầy
thuốc cũng vậy, chẩn bệnh, cho thuốc, bệnh nhân phải uống thuốc mới lành
bệnh. Nếu cứ xin thầy cho tôi hết bệnh mà không chịu uống thuốc thì có
lành bệnh không ? Đạo Phật vì thế rất thực tế chớ không phải huyền hoặc
như người ta tưởng.
Hiểu được vậy mới thấy giá trị
đạo Phật rất chân thật. Người Phật tử không hiểu vô tình làm cho đạo Phật
trở thành mê hoặc. Lỗi đó tại ai ? Cũng tại một phần ở nhà chùa. Giáo lý
Phật dạy quá rõ ràng mà người tu không áp dụng, không đem ra dạy, lại dạy
những chuyện đâu đâu rốt cuộc nhìn đạo Phật có khác gì ngoại đạo. Những gì
ưu, những gì quý của đạo Phật cũng không biết. Cứ nói đạo nào cũng dạy ăn
hiền ở lành thôi. Mà không biết gốc của đạo Phật là thế nào. Vì không thấy
được điều đó nên ngày nay theo đạo Phật, mai mốt theo đạo khác, miễn đạo
nào cũng ăn hiền ở lành là được. Như vậy là không hiểu đạo Phật.
Hôm
nay nhân gặp gỡ quý vị thầy thuốc nên tôi nói về thuốc của đạo Phật. Bởi
vì Bác sĩ, thầy thuốc là thực tế khoa học, thì đạo Phật cũng thực tế khoa
học không có gì huyền bí hết. Chỉ tại người không hiểu và nhận định sai
lầm thôi.
Mong quý vị suy gẫm kỹ và ứng dụng tu hành cho có kết quả.
] |