LỜI ĐẦU SÁCH
Đây là quyển
sách đầu tiên chúng tôi viết về Thiền. Nó đã thai nghén
nhiều năm, nay mới ra mắt độc giả. Chúng tôi cho nó ra đời nhằm vào những
điểm sau đây:
Để bổ cứu phần
nào lối học Phật mất gốc của Phật giáo đồ Việt Nam.
Để giúp cho
những người có thiện chí tu thiền biết được lối tu và phân biệt tà chánh.
Để trả lời các
học giả nghiên cứu đạo Phật, thấy Thiền tông kỳ quái không liên hệ đến
kinh điển.
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo
Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho
dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư. Cho đến hiện nay
(1991) chư Hòa thượng tịch, bài vị đều để câu "Từ Lâm Tế chánh tông đệ tam
đệ tứ thập… thế…". Thế thì có Hòa thượng nào không thừa nhận mình là con
cháu nhà thiền.
Hầu hết chùa Phật hiện có ở Việt Nam, chùa
nào trên chánh điện cũng thờ Phật Thích-ca, phía sau thờ Tổ Bồ-đề-đạt-ma
hoặc Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Những lá phái của các chùa phát cho tín đồ trước
kia đều để Lâm Tế chánh tông, Lâm Tế gia phổ hay tông Tào Động. Thử hỏi
đức Phật Thích-ca thuở xưa tu pháp gì được thành Phật? Chư Tổ tu pháp gì
được thành Tổ? Tông Lâm Tế xuất xứ từ tông phái nào? Đức Thích-ca đâu
không do tọa thiền dưới cội bồ-đề giác ngộ thành Phật. Chư Tổ đâu không do
tu thiền mà thành Tổ. Tông Lâm Tế là một hệ phái của năm hệ phái Thiền
tông ở Trung Quốc. Thế mà hiện nay nghe ai nói tu thiền, đa số Tăng Ni cực
lực phản đối. Quả là chúng ta đã bỏ gốc theo ngọn, quên Phật, Tổ mình đang
thờ đang kính lễ, quên cả hệ phái của Tông Tổ nhà mình. Đích thực mình đã
phản bội với Tổ Tông của mình. Riêng trên đất Việt Nam, Phật Giáo từ đời
Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê và Nguyễn là Phật Giáo của hệ phái nào? Gần nhất,
phái Nguyên Thiều, Liễu Quán ở Trung, chúng ta đang chịu ảnh hưởng là tông
phái nào? Còn ai không biết Phật Giáo qua các đời, cho đến hai vị Tổ
Nguyên Thiều và Liễu Quán đều là hệ phái Thiền tông. Tại sao chúng ta hiện
nay lại sợ hãi chống đối Thiền tông? Nếu vì không hiểu, chúng ta cần phải
tìm hiểu cho thấu đáo. Vì không hiểu mà trở lại chống đối thì thật là vô
lý. Chúng ta là tăng sĩ Việt Nam mà không hiểu Thiền tông thật là một điều
đáng hổ thẹn, huống nữa là có quan niệm chống đối. Chúng ta có quyền nghi
ngờ về sự truyền bá Thiền, song không có quyền chống đối. Bởi nghi nên
chúng ta phải theo dõi tìm hiểu cho tường tận, nếu lối dạy Thiền ấy là
đúng đường hướng Phật Tổ, chúng ta tùy hỷ tán dương; bằng trái lại là
Thiền tà ngoại, cần phải chỉ trích cho Tăng Ni, Phật tử biết để tránh. Đó
là thái độ của người tu chân chánh biết tồi tà phụ chánh. Không cần biết
đúng hay sai, chỉ nghe nói tu Thiền là một bề phản đối, thử hỏi đây là
thái độ thế nào? Và đang làm gì cho Phật Giáo? Chính vì để bổ cứu cho sự
học Phật thiếu cơ bản, chúng tôi cho quyển sách này ra đời.
Có lắm người Phật tử hâm mộ tu Thiền, song
sự có mặt của nhiều lối tu Thiền ở Việt Nam làm họ không biết đâu tà đâu
chánh. Nếu người dè dặt đành chịu chùn chân không biết theo ai. Nếu người
nhiệt tình nóng bỏng nghe đâu theo đó, họ dễ bị lạc vào thiền tà ngoại.
Đây là một khuyết điểm lớn lao do không có người giản trạch chánh tà cho
họ biết. Người chịu trách nhiệm này chính là Tăng Ni. Tăng Ni là người có
bổn phận dẫn đường chỉ lối cho tín đồ tu học. Nếu chỗ sở mộ của Phật tử
khác với đường lối hiện tu của mình, bổn phận mình phải chỉ cho họ nơi nào
phù hợp với sở mộ mà đúng chánh pháp. Có thế Phật Giáo mới trùm hết căn
cơ, lợi ích khắp quần sanh. Chúng ta đừng chủ quan, tu theo tôi thì tôi
dạy, không ưng theo tùy ý đi đâu thì đi. Phật Giáo là tùy bệnh cho thuốc,
thứ thuốc của chúng ta không hợp với người bệnh, chúng ta cần giới thiệu
nơi nào có thuốc hợp với họ, đừng bắt họ một bề phải uống thuốc của mình.
Làm thế, vô tình khiến người ham tu phải thối bồ-đề tâm. Chính đây là một
trong những mục tiêu chúng tôi nhắm để viết quyển sách này.
Một ít học giả cho Thiền tông là quái thai
của Phật giáo. Đó là kẻ đứng ở cổng ngoài Thiền tông, nếu là người vào
trong nhà thiền sẽ nói khác, Thiền tông là cốt tủy của Phật giáo. Bởi vì
muốn chỉ chân lý hiện hữu nơi con người, song ngại người ta khinh thường
và dễ quên, nên kinh Đại thừa nói bằng cách diễn giảng trên trời dưới đất
đâu đâu, còn Thiền sư dùng thuật xuất quỷ nhập thần khiến người ta mờ mịt
không hiểu. Nếu ai tháo gỡ được cây chốt bí mật đó rồi, tự nhiên thấy nó
chân thật bình dị vô cùng. Chừng đó mới thấy Kinh và Thiền không có hai
lối. Tuy nhiên Thiền tông luôn luôn tuyên bố giáo ngoại biệt truyền, cốt
dẫn hành giả thấy đến nơi sống chân thật, không mắc kẹt trên văn tự ngữ
ngôn, không chết chìm trong suy tư lý luận. Nếu Thiền tông khác với kinh
Phật tức không phải đạo Phật rồi. Chính vì lẽ đó, chúng tôi mới đối chiếu
Thiền và Kinh để độc giả khỏi nghi ngại.
Vạch trần bộ mặt thật của Thiền tông cho
độc giả thấy, chúng tôi đã phá vỡ cánh cửa bí mật của nhà thiền. Việc làm
này là có tội với những bậc căn cơ bén nhậy, nhưng có công với những kẻ
căn cơ tầm thường như chúng tôi. Thời đại của chúng ta là thời đại khoa
học, nặng về lý trí và chân thật, nếu dùng những ngôn từ huyền ảo, những
hành động quái dị thì không bao giờ dân chúng chấp nhận. Buộc lòng chúng
tôi phải nói thật, chỉ thẳng, khả dĩ nhiều người thấy rõ được tinh thần
Thiền tông. Có thế Thiền tông mới sống lại trên đất nước Việt Nam. Với
tinh thần khôi phục Thiền tông chúng tôi phải làm như thế, không còn cách
nào khác hơn được.
Tập sách này chúng tôi gom những bài viết
và giảng về Thiền chung hợp lại. Đầu tiên bài viết về Cội Nguồn Thiền Tông
để độc giả biết rõ nguồn gốc Thiền tông. Kế bài viết về Thiền tông Việt
Nam Cuối Thế Kỷ 20 là nói lên chỗ y cứ và chủ trương tu Thiền trong các
Thiền viện. Tiếp bài viết về Yếu Chỉ Thiền Tông để thấy rõ chi tiết về lối
tu Thiền tông qua sự hướng dẫn của chúng tôi. Sau cùng ba bài giảng về
thiền, từ Vào Cửa Thiền đến Thấy Ông Chủ để độc giả cảm nhận con đường
tiến từ bậc đầu đến viên mãn. Đã là tổng hợp các bài chung lại, về hình
thức chắc hẳn thiếu sự mạch lạc, nhưng về tinh thần vẫn nhất quán. Mong
độc giả khéo nhìn tường tận tinh thần của quyển sách sẽ có lợi ích trong
việc tu hành.
Viết tại Thiền viện Thường Chiếu, ngày
cuối đông năm 1991
THÍCH
THANH TỪ
? |