THIỀN TÔNG VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ 20

H.T THÍCH THANH TỪ

YẾU CHỈ THIỀN TÔNG (tt)

III. YẾU CHỈ THIỀN TÔNG HAY CỐT TỦY KINH ĐIỂN. (tt)

B. KHỞI TU

1. ĐỐN NGỘ TIỆM TU:

Sau khi "kiến tánh" cần phải "khởi tu" mới đạt chứng ngộ, giải thoát sanh tử, đắc thành Phật quả. Cho nên khi xưa chư Thiền sư được giải ngộ rồi, các Ngài vào núi ở một mình đôi ba mươi năm, sau đó mới ra giáo hóa. Nếu không ở núi một mình, các Ngài ở tùng lâm theo chúng tu hành. Như Quốc sư Huệ Trung ở núi Bạch Nhai bốn mươi hai năm, sau đó mới ra làm Quốc sư. Thiền sư Tùng Thẩm hiệu Triệu Châu ở trong tùng lâm ba mươi năm, tâm mới thành một khối. Kiến tánh khởi tu cũng gọi là đốn ngộ tiệm tu. Lối tu này có hai:

a. Ứng dụng giác ngộ vô niệm để tu:

Thấy rõ niệm khởi là hư vọng, là vô minh, cần phải buông xả không theo. Niệm dấy lên là phá giới, là tội lỗi, luôn luôn tỉnh giác không để nó dẫn. Cho nên nói: "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm". Niệm khởi liền giác, giác tức niệm diệt. Thiền sư cả ngày trong bốn oai nghi đều sống giác niệm, không để thưa hở. Bởi vì từ ngàn đời chúng ta đã chấp nhận niệm là tâm mình, hiện nay biết nó hư giả, nó là tướng vô minh, song nó đã thành thói quen, thành tập quán, không thể tỉnh giác một sớm một chiều mà hết được. Trái lại, phải bền bỉ, lâu dài, kiên trì, tỉnh giác, chúng mới thưa dần và từ từ im bặt. Nếu không phải là người kiên trì, tỉnh giác, bền bỉ, lâu dài, dù có giải ngộ cũng không giải thoát sanh tử. Thế nên người xưa nói "Người tu thiền phải đầy đủ hai tâm kiên cố và trường viễn". Kiên trì tỉnh giác là tâm kiên cố, bền bỉ lâu dài là tâm trường viễn. Có kiên trì tỉnh giác mới khỏi bị niệm dẫn, có bền bỉ lâu dài mới chinh phục được chúng. Thiền sư là một chiến sĩ thường cầm kiếm trí tuệ tiêu diệt bọn ma vô minh vọng niệm. Tay không rời kiếm, mắt chẳng ngó lơ, mới là chiến sĩ dũng mãnh. Đến khi nào bọn ma vô minh vọng niệm diệt sạch, người chiến sĩ mới ca khúc khải hoàn và sống mãi trong thanh bình an lạc. Sự tu hành của Thiền sư không hạn cuộc trong thời khóa nghi lễ, mà lấy sự tỉnh giác làm chủ yếu. Vì thế, có khi cả ngày không thấy ngồi thiền hay tụng kinh, mà sự tu hành của Thiền sư rất cẩn mật. Thấy từng tâm niệm của chính mình suốt mười hai giờ, làm sao bảo lơi lỏng được. Chỗ này chỉ người trong cảnh biết được thôi.

b. Ứng dụng giác ngộ tri hữu để tu:

Tri hữu là biết mình có tánh giác. Tánh giác tức là ông chủ thật của mình. Quên tánh giác là đã mất ông chủ, chính là mất mình. Sống mà mất mình hay không biết mình sống, không phải vô minh là gì? Đối trị cái vô minh (mê) này, Thiền sư hằng nhớ ông chủ của mình. Lối nhớ ông chủ bằng cách sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà không chạy theo sáu trần, hằng sống với sáu đường hào quang sẵn có của mình. Cho nên nói: "Thấy sắc không dính sắc, nghe tiếng không kẹt tiếng". Bởi thường sống với ông chủ của mình, nên ngoài không bị năm trần quyến rũ, trong không bị pháp trần cuốn lôi. Đó là chỗ "Tâm như nên cảnh như". Chính chỗ này ông Bàng Long Uẩn có kệ:

            Đản tự vô tâm ư vạn vật

            Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu

            Thiết ngưu bất phạ sư tử hống

            Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu

            Mộc nhân bản thể tự vô tình

            Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh

            Tâm cảnh như như chỉ giá thị

            Hà lự bồ-đề đạo bất thành.

            Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật

            Ngại gì vạn vật thường vi nhiễu

            Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống

            Giống như người gỗ xem chim vẽ

            Người gỗ bản thể tự vô tình

            Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh

            Tâm cảnh như như chỉ thế ấy

            Nào sợ bồ-đề đạo chẳng thành.

Ông chủ là mình, làm sao mình nhớ? Nghĩa là chúng ta mắt thấy sắc biết mình có tánh thấy, tai nghe tiếng biết mình có tánh nghe, mũi ngửi mùi biết mình có tánh ngửi., cái gì chạm đến đều biết có mình, ông chủ đang tiếp xúc với sáu trần ấy. Hằng nhớ ông chủ như vậy thì đâu có chạy theo sáu trần. Ông chủ khi tiếp xúc với sáu trần tuy thường biết mà không có vọng phân biệt. Thường biết rõ ràng mà lặng lẽ nên gọi là Như. Thường nhớ ông chủ gọi là "Niệm chân như", hoặc nói "Nhất niệm vạn niên", hoặc nói "Bất ly đương niệm". Chỉ một niệm hiện tiền mà không rơi vào phân biệt. Song chúng ta dễ lầm chữ NIỆM. Ở trên nói niệm khởi hay vọng niệm, chữ niệm này là tâm vọng động vừa dấy lên. Ở đây nói niệm chân như, chữ niệm này là nhớ, hằng nhớ sống với tâm chân như, gọi là niệm chân như hay nhớ ông chủ. Cũng đồng một chữ niệm mà nghĩa dùng khác nhau. Một hình ảnh linh động nhất về lối tu này, như : Thiền sư Sư Nhan mỗi ngày thường ngồi trên tảng đá, lâu lâu tự gọi: "Ông chủ", tự đáp: "Dạ", tự nhắc: "Tỉnh, tỉnh, chớ để người lừa".

Vừa quên ông chủ là bị trần cảnh bên ngoài và pháp trần bên trong lôi đi, tức bị người lừa. Phải hằng tỉnh, hằng giác mới khỏi bị người lừa. Hằng sống với ông chủ đến khi thuần thục rồi, đạo bồ-đề hiện tiền còn gì lo ngại.

Lại nữa, đối cảnh tâm không chạy theo cảnh, niệm dấy lên không theo niệm, hằng liễu tri mà lặng lẽ là sống với ông chủ. Ông chủ là cái hằng liễu tri nơi toàn thân, không bị cảnh dẫn thì ông chủ ngồi sờ sờ trong nhà, khỏi cần kiếm tìm, tưởng nhớ chi cả. Sống được như vậy, thì đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền, nên nói: "Hái củi, lặt rau, thổi cơm, gánh nước đều là thiền".

Tóm lại, hai phần "đốn ngộ tiệm tu" trên, tuy nói tu mà không có tu. Vì lẽ tu là sửa sang bồi bổ, tánh giác không tướng mạo làm sao sửa sang? Hơn nữa tánh giác chẳng sanh chẳng diệt, nếu còn có tu là còn tạo tác, tức là còn sanh diệt. Đã không tu thì làm gì có chứng. Khi người tu hoàn toàn sống được với tâm thể như như, gọi là chứng đạo hay thành đạo. Song sự thật có chứng cái gì, có thành cái gì? Chẳng qua sống viên mãn với tâm thể của mình thôi. Tuy nhiên như thế, nói không tu mà tu. Vì khéo biết buông xả vọng niệm, hằng giác tỉnh luôn nên gọi là tu. Hoặc thường nhớ ông chủ của mình, không giây phút nào để vọng tâm ngoại cảnh lừa gạt lôi đi gọi là tu. Nói không chứng mà chứng. Vì tánh giác đã sẵn có nơi chúng ta, mà cả muôn đời bỏ quên mất, nay nhận ra và sống toàn vẹn với nó gọi là chứng. Ví như chúng ta có hòn ngọc quí, chôn cất nơi nào quên mất, bỗng có người chỉ, sực nhớ lại, đào xới lên, lấy được hòn ngọc cầm trong tay, gọi là được. Đấy sự tu chứng của tinh thần Thiền tông là như thế. Nói có tu cũng được, nói không tu cũng được, nói có chứng không chứng cũng phải. Bởi nó chỉ là phương tiện tạm thời, không có thật pháp để tu để chứng. Ví như các pháp môn khác, như Tịnh độ thì dùng câu niệm Phật làm pháp tu, Mật tông thì dùng câu thần chú làm pháp tu, thiền Tiểu thừa thì dùng đề mục làm pháp tu. Chỉ riêng Thiền tông không mượn một pháp nào cả, khéo biết buông xả vọng niệm, hằng tỉnh giác không quên là đủ. Đây là đi đường chim (điểu đạo), thẳng tắt không nương phương tiện, nên nói "Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật".

2. TIỆM TU ĐỐN NGỘ:

Đúng tinh thần Thiền tông, phải trước kiến tánh sau mới khởi tu, song với người tha thiết tu hành mà chưa kiến tánh thì sao? Chư Tổ sau này vì thương người có chí tu mà chưa kiến tánh, nên lập ra những phương tiện sau:

a. Tọa thiền khán công án hay thoại đầu:

Đây là lối tu do các Thiền sư dòng Lâm Tế đời Tống lập ra. Khán công án hay khán thoại đầu, lối dụng công cũng như nhau, chỉ khác ở điểm công án là một câu của người xưa để lại, thoại đầu tùy thời biến chế. Phương pháp tu này gọi là "lấy độc trừ độc". Vì có một nghi vấn đặt trong đầu thì mọi vọng tưởng đều lặng mất. Cho nên người khán công án hay thoại đầu phải tin tưởng tuyệt đối vị thầy mình đến thọ giáo. Ông dạy một câu như : "Trước khi cha mẹ chưa sanh, mình là gì?" v.v. liền phải sống chết với câu ấy, cho đến ngày ngộ đạo mới thôi. Khi khán thoại đầu, nên đề khởi câu thoại đầu lên, sau chữ "gì?" có một sức mạnh nghi kéo dài im lặng, khi sức nghi yếu dần, liền đề khởi nữa, cứ thế mãi. Câu nói đặt thành nghi vấn là thoại, cái nghi kéo dài im lặng là đầu. Hay nói khác hơn, trước khi chưa đặt nghi vấn là đầu, nghi vấn dấy lên là thoại. Chủ yếu dùng cái nghi đập chết mọi vọng tưởng. Khi cái nghi đã thành khối, khỏi cần đề khởi mà lúc nào cũng nghi, gọi là "nghi tình". Một khi cái nghi tan vỡ ra là ngộ đạo. Thế nên nói "đa nghi đa ngộ". Song tu khán thoại đầu phải gan dạ, chết sống với câu mình nhận nơi Thầy, cho đến ngộ đạo, không được học kinh sách hay lý luận gì cả. Tu khán thoại đầu, khi tọa thiền khán thoại đầu, lúc ra ngoài hoặc làm công tác cũng vẫn khán thoại đầu, không đổi thay pháp nào khác.

b. Tọa thiền biết vọng:

Thiền giả nên ứng dụng phần giác ngộ hạ ở trên để tu. Khi tọa thiền đúng pháp rồi, thiền giả để tâm vắng lặng, vừa có vọng tưởng dấy lên liền "biết vọng không theo". Nếu vọng tưởng quá mạnh, biết vọng mà vẫn còn lôi đi, thiền giả nên thấy vọng ấy vốn không, nói quả quyết rằng: "Mày là không". Nếu dùng chữ không mà trị chưa nổi, thiền giả phải quở mắng nó, bảo: "Vì mày nên nhiều đời phải chịu luân hồi, giờ đây mày muốn xuống địa ngục hay sao?" Đó là lối mục đồng dùng roi để trị con trâu ngỗ nghịch. Hoặc hành giả phản quán lại xem cái vọng này từ đâu mà khởi. Phăng tìm nguồn gốc đến chỗ tột cùng, chúng liền mất tăm dạng, thế là an tâm.

Biết vọng không theo là lối tu nhẹ nhàng thanh thản, song phải có chí lắm mới khỏi chán. Bởi vì vọng tưởng quá nhiều, không theo cái này, cái khác lại nổi lên, cứ thế mãi khó tìm được phút giây yên tĩnh. Phải bền chí, đừng nản, biết vọng mãi rồi vọng sẽ thưa dần. Không theo vọng tưởng là chúng ta phá cái chấp ngã về tâm, đến khi vọng tưởng yếu thế sẽ có cơ kiến tánh giải ngộ. Ngoài giờ tọa thiền ra, thiền giả thường quán chiếu thân tứ đại này do duyên hợp hư giả, không thật, bất cứ đòi hỏi, cố chấp gì về thân đều quở trách: "Thân đã giả, còn muốn cái gì? Cầu cái gì?" Những suy tư nghĩ tưởng dấy lên cũng biết giả không theo. Nếu có làm việc thì chỉ biết việc ấy, không cho vọng tưởng dẫn đi nơi khác. Lặng lẽ chăm chỉ trong việc làm, không để chú vọng bén mảng đến trong đầu. Cứ thế hằng tu trong việc làm, hằng tu lúc rảnh rỗi, hằng tu khi tọa thiền. Không theo vọng tưởng là phá ngã chấp về tâm, biết thân duyên hợp hư giả là phá ngã chấp về thân. Đây là bước giác ngộ vô ngã của người tu Phật theo tinh thần Bát-nhã. Lối tu thiền này càng xem kinh học đạo là càng sáng thêm, chớ không trở ngại. Nhờ kinh làm sáng cho thiền, do thiền làm tỏ rạng được kinh.

c. Đối chiếu hai pháp tu:

Hai pháp tu "biết vọng" và "khán thoại đầu" đều gọi là "tiệm tu đốn ngộ". Dùng cái biết vọng hay câu thoại đầu để đập chết con khỉ ý thức. Khi con khỉ ý thức thật chết, liền ngộ đạo, nên nói "Sau khi chết liền tỉnh" (tuyệt hậu tái tô). Người tu đừng sợ hay quên và khờ dại, vì cố bỏ cố quên mà không quên không dại sao được? Tu thoại đầu có sức mạnh, song phải buông hết mọi học tập, mọi suy luận. Tu biết vọng thì nhẹ nhàng lại phù hợp với kinh điển, càng nghe kinh càng tin thêm pháp tu. Tu thoại đầu phải ngộ đạo mới sáng, ở giữa chừng coi như chết nơi khờ dại. Tu biết vọng thì tu một giờ sáng một giờ, càng tu thì trí tuệ càng tăng, cho đến khi phá tan cái chấp ngã. Tu thoại đầu phải có bậc thầy đạt đạo trong pháp tu này dẫn dắt, mới đến nơi đến chốn. Tu biết vọng nương nơi kinh, chúng ta thấy rõ đường lối tu, có khi nhân nghe kinh liền được kiến tánh. Bởi những lý do trên, chủ trương chúng tôi dạy Tăng Ni và Phật tử sơ cơ tu thiền bằng lối "biết vọng", đồng thời giảng Kinh, Luận cho họ nghe, mong họ nhận ra bản tánh, để tiến lên "kiến tánh khởi tu" ở trên. Giả sử thiền giả chưa được kiến tánh, cứ như thế mà tu vẫn dũa mòn ngã chấp, trí tuệ Bát-nhã từ từ phát hiện.

3. PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN:

Cả bốn lối tu trên đều cần tọa thiền, đành rằng hằng tu trong bốn oai nghi (đi đứng nằm ngồi) song tọa thiền là phương tiện thù thắng hơn cả. Chính đức Thích-ca Mâu-ni sau khi thành đạo Ngài vẫn tọa thiền. Có vị tăng hỏi: "Phật thành đạo rồi, ngồi thiền chi nữa?" Phật bảo: "Ta ngồi thiền để điều hòa thân thể và răn nhắc đệ tử sau này không lười trễ tọa thiền." Vì thế chúng ta phải cố gắng tập tọa thiền. Tọa thiền có chia mấy phần dưới đây:

a. Trước khi tọa thiền:

Hành giả khéo tập đi đứng nằm ngồi đều nhẹ nhàng thư thả, buông xả không để tâm bực tức buồn rầu. Muốn tọa thiền phải sắm phương tiện ngồi, một cái "bồ đoàn" đặt trên một tấm nệm mỏng sáu tấc vuông. Nếu không có tấm nệm, trải mền hai ba lớp cũng được. Bồ đoàn may bằng vải, trong dồn gòn đừng cứng lắm, bề cao một tấc, bề kính hai tấc tây, hình tròn. Nếu không có bồ đoàn nên lấy mền xếp làm tư, khi ngồi chỉ để phân nửa bàn tọa lên mền cho có thế ngả về trước một chút, xương sống dễ thẳng. Ngồi phải lựa chỗ ít gió mà không nực lắm. Nếu ban đêm ngồi trong mùng chớ để đèn sáng lắm, cũng đừng tối mò, sáng vừa vừa là tốt.

b. Trong khi tọa thiền:

Đến giờ tọa thiền, trải nệm lót bồ đoàn xong, ngồi lên bồ đoàn, xương cùng đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi. Nếu ngồi bán già, kéo chân trái để lên đùi mặt, hoặc chân mặt để lên đùi trái cũng được, tùy sự thuận tiện của hành giả. Hai thế ngồi ấy, một là kiết tường hai là hàng ma. Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo để lên đùi mặt, chân mặt kéo để lên đùi trái, kéo sát vào thân. Kế nới rộng dây lưng, cổ áo, sửa thân ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên bàn tay mặt, hoặc ngược lại cũng được. Hai bàn tay để trên hai lòng bàn chân, những ngón tay chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái vừa đụng nhau, nằm ngay chiều cái rún. Nếu lòng bàn chân bên nào trũng quá, nên lấy khăn xếp lại chêm cho hai tay ngang bằng nhau. Chuyển động thân ba lần, ban đầu rất mạnh, sau yếu dần. Ngồi lưng thẳng vừa phải, đừng cố gắng, đầu hơi cúi, chiều chót mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tai ngang bả vai, mắt mở một phần ba, gương mặt bình thản, ngồi yên. Dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, thở thật dài và sạch, hơi ra tưởng như tất cả phiền não bệnh hoạn theo hơi thở ra ngoài hết. Ngậm miệng lại dùng mũi hít hơi vào, dài nhẹ và thật đầy, hơi vô tưởng không khí trong sạch vào khắp châu thân. Như thế ba lần. Thở xong, ngậm miệng lại, môi và răng vừa kề nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng mũi đều đều nhẹ nhẹ mà dài. Thân ngồi ngay thẳng như cột trụ, dù có ngứa ngáy cũng không cựa động, nhức mỏi cũng gan dạ chịu đựng đúng giờ mới xả. Vọng tưởng dừng là định, đừng đòi hỏi cái định nào khác. Ứng dụng đúng câu Thiền sư Huyền Giác nói: "Tỉnh tỉnh lặng lặng là phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng là sai; lặng lặng tỉnh tỉnh là phải, lặng lặng hôn trầm là sai". Đây là phương pháp nhập thiền.

Đến trụ thiền, tùy trình độ ứng dụng một trong bốn pháp trên để trị tâm. Nếu người sơ cơ nên dùng lối biết vọng để tu. Khi ấy, thở ra vào an ổn đôi ba phút, buông hơi thở để tâm an tịnh, vừa có vọng khởi liền biết vọng không theo, vọng lặng thì tâm lặng, vọng dấy liền biết vọng. Cứ thế mãi cho đến vọng thưa dần và im bặt. Nếu mơ màng ngủ gục, cần mở mắt sáng ra, chấn chỉnh thân nghiêm trang lại, ma ngủ vẫn hoành hành nên trụ tâm tại mé tóc nhọn trên trán, ma ngủ vẫn trầm trọng, nên xả thiền đi kinh hành. Nếu vọng tưởng quá mạnh, nên trụ tâm tại chót mũi hay giữa rún. Song chỉ tạm thời cho qua cơn mãnh liệt của chúng thôi. Vọng tưởng bình thường nên giữ biết vọng không theo, chẳng cần làm gì khác. Như thế ngồi được bao lâu tùy sức tu tập của hành giả. Trong lúc ngồi nghe ngực nặng, tim hơi nhói là ngồi thẳng quá, phải rùn xuống một chút, nghe nhức xương sống gần lưng quần, biết ngồi cong rồi, phải thẳng lên. Khéo léo đừng để thành bệnh.

Khi xuất thiền, trước đọc bài nguyện hồi hướng, kế dùng miệng thở ra, mũi hít vào ba lần như khi mới vào, động hai bả vai lên xuống năm lần, động cái đầu cúi ngước năm lần, và nghiêng sang phải sang trái năm lần. Động hai bàn tay nắm lại duỗi ra năm lần, dời hai bàn tay ra đầu gối, chuyển động toàn thân ba lần, từ nhẹ ra mạnh. Xoa bóp toàn thân từ đầu đến chân, chỗ nào bất an càng bóp nhiều, xoa hai tay ấm áp vào mắt ba lần. Cần nhớ mỗi mỗi hành động đều nhẹ nhàng êm ái, đừng thô ồn. Dời thân khỏi bồ đoàn, ngồi thường yên tịnh khoảng năm phút, sẽ đứng dậy đi.

c. Sau khi tọa thiền:

Nếu hoàn cảnh thuận tiện, hành giả sau khi xả thiền, ra sân hoặc hành lang nhà đi kinh hành thẳng chân độ muời phút. Bước thẳng chân mà chẳng động, tâm vẫn biết vọng không theo. Bắt tay vào việc làm nào đều chỉ biết trong việc làm ấy, có vọng tưởng kéo đi, buông chúng không theo. Đó là biết tu sau khi xả thiền.

d. Trong khi tọa thiền thấy cảnh lạ:

Hành giả trong khi tọa thiền thường có tướng lạ phát hiện, nghe thân nặng nề như có vật gì đè lên, thân nhẹ nhàng muốn bay bổng, có những con li ti bò ngứa trên mặt, luồng điện từ xương sống chạy lên, có vật gì xúc chạm rợn người, thân muốn lay động, đầu lắc lơ, thấy phía trước có ánh sáng, nghe như có người nói bên lỗ tai., tất cả những tướng ấy đều không nên chấp nhận hay sợ hãi. Phải quán nó là hư giả, vẫn giữ thân làm chủ không cho nó xâm phạm. Cho đến dù thấy ma hay thấy Phật cũng không mừng không sợ, vì biết đều là tướng hư giả nên không chấp nhận. Nhà thiền nói "gặp ma giết ma, gặp Phật giết Phật" là thế. Vui mừng và sợ hãi là nhân của điên cuồng. Kinh Lăng Nghiêm nói về ngũ ấm ma, mỗi đoạn kết thúc Phật dạy: "Nếu cho mình chứng thánh tức rơi vào bọn tà, không nghĩ chứng thánh là cảnh giới tốt" (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà, bất khởi thánh tâm tức thiện cảnh giới). Cảnh tà hay tốt đều tại tâm mình chấp mà ra. Đừng quan tâm đến ngoại cảnh, chủ yếu an tâm là đúng. Dù có cảnh dữ hiện ra vẫn là tướng biến hóa không thật, cái không thật làm gì hại được mình mà sợ. Trong khi ngồi thiền thấy cảnh lạ, phần lớn là mơ, cần phải mở mắt tỉnh táo nhìn chúng, nếu nhìn mà chúng không mất thì nhắm mắt lại tưởng năm uẩn này là không, tướng kia cũng không thì khỏi sợ sệt.

e. Lợi ích tọa thiền:

Tọa thiền là một lối tu căn bản của đạo giác ngộ, đức Thích-ca ngày xưa cũng do tọa thiền được ngộ đạo, Giới Định Tuệ là ba cửa giải thoát của đạo Phật. Tọa thiền đúng pháp sẽ đem lại cho thân chúng ta sự điều hòa khỏe mạnh, da dẻ tươi tốt, ít sanh bệnh hoạn. Khi nghe uể oải trong người sắp bị cảm, chúng ta ngồi thiền độ một tiếng đồng hồ là tan ngay. Nếu cảm gió hơi nặng, cần ngồi đôi ba lần mới hết. Vì ngồi thiền hơi nóng xông ra, mọi thứ khí lạnh đều bị tan nên hết cảm. Về phần tâm tán loạn, tọa thiền đuổi chúng nhanh hơn bình thường. Song có nhiều vị thấy lúc ngồi thiền loạn nhiều hơn ở ngoài, chẳng qua lúc ở ngoài cảnh động nên ít thấy tâm mình động, khi tọa thiền cảnh đã vắng nên dễ thấy tâm động. Tâm động mà xả hết không theo, dần dần tịnh lại, đây là hiệu quả của tọa thiền. Bởi tọa thiền thiết yếu nên tăng sĩ ít ai không tập tọa thiền. Chúng ta nghe Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương nói kệ:

            Bế hộ sơ dung tẩu

            Vi tăng nhạo tọa thiền

            Nhất tâm vô tạp niệm

            Vạn hạnh tự thông huyền

            Nguyệt ấn thu giang tĩnh

            Đăng minh thảo xá tiên

            Kỷ nhân năng đáo thử

            Đáo thử kỷ năng chân.

            Đóng cửa dáng gầy nhác

            Làm tăng thích tọa thiền

            Nhất tâm không niệm tạp

            Muôn hạnh tự thông huyền

            Trăng in dòng thu lặng

            Đèn sáng nhà cỏ tươi

            Mấy người hay đến đó

            Đến đó mấy kẻ chân.

Tóm lại, phương pháp tọa thiền tuy đã chỉ qua mấy trang giấy này, song quí nhất là hành giả trực tiếp với những vị có thật tu thiền để được chỉ rõ cách tọa thiền và sửa cho những chỗ sai, kết quả sẽ tốt hơn.

C. HIỆU DỤNG

Ứng dụng lối tu thiền của Thiền tông một cách đúng đắn, đạt hiệu quả không thể kể hết. Vì đây là lối tu siêu thoát tộ? đỉnh, thẳng tắt vô cùng. Nếu ứng dụng được viên mãn thì một đời giải thoát sanh tử, từ phàm phu tiến thẳng lên Phật quả, như nói: "Mê là chúng sanh, ngộ là Phật". Bằng ứng dụng được phần nào thì đã vào hàng Bồ-tát, tuy chưa thoát khỏi sanh tử, song đi trong sanh tử coi như dạo hoa viên. Thiền sư Từ Minh nói: "Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ". Dưới con mắt các Thiền sư, thật cuộc đời là mộng huyễn không hoa, không có gì là chướng ngại. Công dụng hữu hiệu tạm chia làm hai phần:

1. Tánh giác là hòn ngọc như ý:

Tất cả nhân loại không quí gì bằng sanh mạng, sanh mạng được coi trọng nhất trên nhân gian này. Bởi vì tất cả của cải sự nghiệp, danh vọng tài sắc. đều để tô điểm cho sanh mạng. Mất sanh mạng tất cả cái ấy trở thành vô nghĩa. Song sanh mạng con người thời nay, nếu kéo dài lắm chỉ trong vòng bảy tám mươi năm. Cái đau khổ nhất của con người là khi nghe mình sắp mất sanh mạng. Vì thế bất cứ sự cầu khẩn, van xin, quỵ lụy, lạy lục nào miễn là được kéo dài thêm sanh mạng thì họ sẵn sàng làm. Nhưng cuối cùng con người đành phải trói tay cúi đầu dưới nhát kiếm của con quỷ vô thường. Thật là mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được. Nếu có một phương pháp nào khiến con người thoát được cái chết thì trên nhân gian này còn gì quí bằng! Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu quí vị phương thuốc hy hữu duy nhất trên đời, nếu quí vị uống nó vào thì "bất tử", chính là tánh giác của quí vị đấy. Người giác ngộ tánh giác là nhận ra được cái "bất tử". Vì thế tánh giác này được Phật dụ là hòn ngọc như ý. Được hòn ngọc này rồi, con người dứt sạch mọi đau khổ, mọi mong cầu đều toại nguyện. Nhưng rất tiếc, hòn ngọc quí để bên gói bánh kẹo, với đứa bé lên năm bao giờ cũng quí gói bánh kẹo, xem thường hòn ngọc. Cũng thế, tánh giác thường hằng, đơn giản, hiện hữu nơi chúng ta, mà bị chúng ta lãng quên. Chúng ta cứ say mê theo cái tưởng tượng, cái nhớ nhung, cái suy tư, cái tính toán, cái so sánh. quên bẵng tánh giác. Nếu có người chỉ thẳng tánh giác ấy cho thấy, cũng vẫn xem thường. Vì thương đứa bé, muốn nó nhận hòn ngọc để sau này no ấm đời đời, người trí phải nói với nó: "Hòn ngọc này sẽ làm ra nhiều bánh kẹo, có nó thì muốn bánh kẹo lúc nào cũng có, chẳng những bánh kẹo mà mọi đồ chơi cũng đầy đủ nữa". Do thích bánh kẹo, ham đồ chơi, đứa bé nhận hòn ngọc. Cũng vậy, đức Phật diễn tả trong kinh nào là tam thân, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng v.v. và v.v., đều đầy đủ nếu người nào ngộ được tánh giác. Vì thích thần thông tự tại biến hóa vô cùng, chúng ta phát tâm bồ-đề hướng về tánh giác. Hoặc vì tánh hiếu kỳ, ưa tưởng tượng quái dị, những người này không thích cái gì đơn giản bình dị, muốn chỉ tánh giác thực hữu mà giản đơn cho họ, không sao tránh khỏi họ sẽ xem thường. Buộc lòng đức Phật phải nói một cách khó khăn, quá sức tưởng tượng của họ, có thế họ mới quí trọng kính nể và tìm tòi tu tập.

Thật sự tánh giác lồng sẵn nơi con người xác thịt của chúng ta, nó hiển bày từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta, song nó không phải mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là phần vật chất do tứ đại hòa hợp mà thành; tứ đại thể nó vô tri nên không phải tánh giác. Y Ù là cái tâm vọng tưởng quấy động bám vào bóng dáng của trần cảnh, biến động sanh diệt, chợt có chợt không, chẳng phải tánh giác. Bởi vì tánh giác là liễu tri thường hằng, không tướng mạo, không sanh diệt. Cho nên năm căn tiếp xúc với năm trần, liễu tri mà không so sánh phân biệt, đó là hiện tướng của tánh giác. Nhẫn đến khi không có năm trần, tánh giác cũng hằng hiển bày như vậy. Bên trong ý thức dấy động hay dừng nghỉ, biết rõ mọi động tác của ý là tánh giác. Nếu không tánh giác, cái gì biết ý thức có động hay không động? Vì tánh giác không động, không tướng mạo nên không sanh diệt. Sống được với tánh giác là đi vào bất tử (vô sanh), sống với vọng tưởng là đi vào sanh tử. Bất tử là Niết-bàn giải thoát, sanh tử là luân hồi đau khổ. Vọng tưởng là cái động của tánh giác, vọng tưởng lặng xuống là tánh giác tròn đầy. Chúng tôi mượn bài kệ của Thiền sư Thanh Hồng để kết thúc đoạn này:

            Chân không trạm tịch duy thường tại

            Bất giác lương điền vọng sở mông

            Chân tánh hà tằng ly vọng hữu

            Hoa khai hoa lạc tự xuân phong.

            Chân không lặng lẽ thường còn mãi

            Chẳng biết lương điền vọng che lồng

            Chân tánh đâu từng lìa vọng có

            Hoa khai hoa rụng tự gió xuân.

2. Tự tại khi chết:

Người tu thiền cốt yếu được sanh tử tự tại, khi sống cũng như khi chết mình hoàn toàn làm chủ. Muốn làm chủ khi chết, chính lúc còn sống này mình phải làm chủ cả thể xác lẫn tâm hồn. Như Thiền sư Đạo Giai nói: "Muốn biết khi chết được tự tại (hay) không tự tại, chỉ xem hiện tiền tự do (hay) chẳng tự do". Tự do đây có nghĩa là mình làm chủ mình hoàn toàn, không phải tự do đối với xã hội. Đối với danh vọng tài sắc. không quấy nhiễu được ta, đối với khổ vui sống chết. không phiền lụy đến ta, ta sống trong cuộc đời phồn tạp mà vẫn không vướng bận, như cây bá hiên ngang đứng sừng sững giữa trời. Trong khi sống tự tại như vậy, đến lúc chết làm gì chẳng tự do. Tại sao được như vậy? Bởi vì chúng ta đã thấy rõ cái không sanh tử ở trong cái sanh tử, có cái chân thật nằm trong cái giả dối. Các Thiền sư vì sống với cái chân thật nên không màng đến cái giả dối, sống với cái không sanh tử nên làm chủ được cái sanh tử. Chúng ta hãy xem cái chết của Thiền sư:

Trước khi sắp tịch, Thiền sư Đặng Ẩn Phong hỏi chúng: "Tôi thường thấy các vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi, hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?" Chúng thưa: "Có." Sư hỏi: "Có vị nào lộn ngược tịch chăng?" Chúng thưa: "Chưa từng thấy." Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn như đứng. (Đặng Ẩn Phong là đệ tử Mã Tổ).

Vua Đường Mục Tông sai Lưỡng Nhai Tăng Lục là Linh Phụ đến thỉnh Thiền sư Vô Nghiệp về triều. Linh Phụ đến làm lễ thưa: "Hoàng Thượng ân chỉ phen này chẳng giống lúc thường, xin Hòa thượng hãy thuận thiên tâm, không nên nói bệnh." Sư cười chúm chím nói: "Bần đạo có đức gì làm phiền thế chủ. Mời các Ngài đi trước, tôi sẽ đi đường riêng." Sư bèn tắm gội, đến giữa đêm bảo đệ tử Huệ Âm v.v. : "Các ngươi! Tánh thấy nghe hiểu biết cùng hư không đồng tuổi, chẳng sanh, chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không lặng, không một pháp có thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lầm, trôi lăn không cùng." Nói xong Sư ngồi yên thị tịch. (Cũng là đệ tử Mã Tổ).

Ông Bàng Long Uẩn sắp tịch, bảo con gái là Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa: "Mặt trời đã đúng ngọ mà có nguyệt thực." Ông ra cửa xem. Linh chiếu lên tòa của ông, ngồi kiết già chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy cười, nói: "Con gái ta lanh lợi quá!" Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Đến ngày thứ bảy Châu Mục Vu Công đến thăm, ông bảo: "Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, khéo ở thế gian đều như bóng vang." Nói xong ông nằm gác đầu trên đầu gối Vu Công mà tịch.

Thiền sư Lương Giới Động Sơn cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. Sư mở mắt bảo: "Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật là tu hành chân chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?" Sư bảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn quyến luyến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai Sư cũng theo chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: "Tăng già vô sự, sắp đến giờ ta ra đi, chớ làm ồn náo". Sư vào trượng thất ngồi yên mà tịch. (Sư là đệ tử Vân Nham).

Chỉ Y Đạo Giả đến tham vấn Tào Sơn Bổn Tịch. Tào Sơn hỏi: "Đâu chẳng phải Chỉ Y Đạo Giả ư?" Đạo Giả thưa: "Chả dám." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là việc của Chỉ Y?" Đạo Giả thưa: "Chiếc áo cừu vừa khoác ngoài thân, muôn pháp thảy đều như." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là dụng của Chỉ Y?" Đạo Giả lại gần: "Dạ!" Liền đứng tịch. Tào Sơn bảo: "Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đến thế ấy?" Đạo Giả mở mắt hỏi: "Một chân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?" Tào Sơn bảo: "Chưa phải diệu." Đạo Giả hỏi: "Thế nào là diệu?" Tào Sơn bảo: "Chẳng mượn! Mượn!" Đạo Giả trân trọng liền tịch. (Đệ tử Động Sơn).

Một hôm Phổ Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa đều chẳng nhận. Lâm Tế dạy Viện Chủ mua chiếc quan tài, Phổ Hóa về đến, Lâm Tế bảo: "Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi!" Phổ Hóa liền tự vác đi. Phổ Hóa đi quanh phố chợ rao: "Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang cửa Đông tịch." Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: "Tôi ngày nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch." Như thế đến ba ngày, mọi người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư không ai theo xem, một mình Phổ Hóa tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi, mọi người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa đâu, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần, xa dần rồi mất. (Đệ tử Bàn Sơn)

* Thiền sư Thiện Chiêu bị Y Lý Hầu ba phen thỉnh trụ trì chùa Thừa Thiên mà Sư không đi. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi phen nữa. Sứ giả đến thưa: "Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi tôi liều chết mà thôi." Sư cười bảo: "Bởi nghiệp già bệnh không thể xuống núi, giả sử đi có trước có sau, tại sao quyết đồng?" Sứ giả thưa: "Thầy chịu đi thì trước sau tùy lựa chọn." Bảo chúng sửa soạn hành lý xong, Sư gọi chúng lại nói: "Lão tăng đi, có người nào theo được?" Có vị Tăng ra thưa: "Con theo được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng thưa: "Năm mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta chẳng được." Lại có vị Tăng ra thưa: "Con theo được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng thưa: "Bảy mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta cũng chẳng được." Thị giả ra thưa: "Con theo được, Hòa thượng đến đâu thì con đến đó." Sư bảo: "Ngươi theo lão tăng được." Nói xong, Sư bảo thị giả: "Ta đi trước nghe!" Sư dừng lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. (Sư là đệ tử Thiền sư Tỉnh Niệm dòng Lâm Tế).

Tạm dẫn bấy nhiêu cũng khá rườm lắm rồi, chúng tôi làm sao kể hết sự ra đi tự tại của các Ngài. Tuy nhiên đối với các Thiền sư có những cái kỳ đặc, song đấy chẳng phải quan trọng, vì đều là diệu dụng. Cái quan trọng nhất trong nhà Thiền là sống được tánh giác của mình, nó mới là bản thể. Bản thể là cái gốc, diệu dụng là cái ngọn. Chỉ lo không bám được gốc, đừng sợ mất ngọn. Khi sống được với thể giác rồi thì mỗi hành động nào cũng là thần thông diệu dụng cả. Ông Bàng Long Uẩn nói kệ:

            Nhật dụng vô biệt sự

            Duy ngô tự ngẫu hài

            Đầu đầu phi thủ xả

            Xứ xứ vật trương quai

            Châu tử thùy vi hiệu

            Khưu sơn tuyệt điểm ai

            Thần thông tịnh diệu dụng

            Vận thủy cập ban sài.

            Hằng ngày không việc khác

            Chỉ tôi tự biết hay

            Vật vật chẳng lấy bỏ

            Chỗ chỗ nào trái bày

            Đỏ tía gì làm hiệu

            Núi gò bặt trần ai

            Thần thông cùng diệu dụng

            Gánh nước bửa củi tài.

Thần thông ở đây là gánh nước bửa củi, vì mọi hành động ấy đều từ thể giác phát xuất. Chúng ta lại nghe một bà già trình thần thông:

Thiền sư Nam Tuyền, Qui Tông, Ma Cốc đi hành cước đến một cái quán của bà lão. Quí vị kêu bà đem trà, bà bảo: "Quí thầy trình thần thông rồi sẽ uống trà." Quí vị đưa mắt nhìn nhau. Bà bảo: "Quí thầy xem già này trình thần thông đây." Bà liền tay cầm bình trà, tay bưng chung trà, nghiêng rót vào chung để xuống.

Quả là thần thông trong hành động, đừng nghĩ thăng thiên độn thổ mới là thần thông. Bởi bất cứ một tác động nào lưu xuất từ bản thể đều là diệu dụng. Khổ nỗi, người tu hiện giờ chỉ trọng thần thông diệu dụng mà quên bản thể. Vì thế nên dễ lạc vào đường tà, chính quỷ thần vẫn được ngũ thông, làm sao giản trạch được đâu tà đâu chánh. Chỉ một bề trở về tánh giác là muôn đời không lầm.

Tóm lại, hiệu dụng của người tu Thiền tông là nhận ra tánh giác của chính mình, tánh giác này không sanh diệt, không tướng mạo mà hằng giác. Bởi hằng giác nên chẳng phải không, không tướng mạo nên chẳng phải có. Sống được với tánh giác là thoát ly sanh tử, tuổi thọ của tánh giác đồng với hư không. Cho nên trong kinh nói tuổi thọ của Phật không biết bao nhiêu tính kể. Đạt được tuổi thọ vô lượng vô biên ấy, còn gì hạnh phúc bằng, còn gì quí báu bằng. Sống với cái vĩnh cửu chẳng sanh chẳng diệt này mới thật là đến chỗ chân thật tuyệt đối. Còn cái gì ở thế gian có thể so sánh với tánh giác. Tánh giác này mới thật là ta (chân ngã), tánh giác không bao giờ mất (chân thường), tánh giác là chân thật hạnh phúc (chân lạc), tánh giác không có gì nhiễm ô được (chân tịnh). Sống đến chỗ chân ngã, chân thường, chân lạc, chân tịnh này mới là điểm cứu kính Thiền tông.

Trong khi trở về cái chân thật thì mọi cái giả dối giảm thiểu khả năng lôi cuốn chúng ta. Từ từ ta làm chủ lại chúng, ta điều khiển chúng theo chỗ muốn của chúng ta. Mọi khổ đau buồn thảm tự suy thối, không còn là điều quan trọng đối với chúng ta nữa. Với cái thân giả tạm, cái vọng tưởng hư ảo, sắc trần không hoa này, còn sức mạnh gì trói buộc chúng ta được. Bởi thấy được ông chủ thật của mình, mọi khách trần đều là trò đùa nên Thiền sư tự tại khi ra đi.

*

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM