| 
       
      YẾU CHỈ THIỀN TÔNG 
      (tt) 
      III. YẾU CHỈ THIỀN TÔNG 
      HAY CỐT TỦY KINH ĐIỂN. (tt)
      
      
      B. KHỞI TU  
      
      
      
      1. ĐỐN NGỘ TIỆM TU:  
      
      
      Sau khi "kiến tánh" cần phải "khởi tu" mới đạt chứng ngộ, giải thoát sanh 
      tử, đắc thành Phật quả. Cho nên khi xưa chư Thiền sư được giải ngộ rồi, 
      các Ngài vào núi ở một mình đôi ba mươi năm, sau đó mới ra giáo hóa. Nếu 
      không ở núi một mình, các Ngài ở tùng lâm theo chúng tu hành. Như Quốc sư 
      Huệ Trung ở núi Bạch Nhai bốn mươi hai năm, sau đó mới ra làm Quốc sư. 
      Thiền sư Tùng Thẩm hiệu Triệu Châu ở trong tùng lâm ba mươi năm, tâm mới 
      thành một khối. Kiến tánh khởi tu cũng gọi là đốn ngộ tiệm tu. Lối tu này 
      có hai:  
      
      
      
      a. Ứng dụng giác ngộ vô niệm để tu:  
      
      
      Thấy rõ niệm khởi là hư vọng, là vô minh, cần phải buông xả không theo. 
      Niệm dấy lên là phá giới, là tội lỗi, luôn luôn tỉnh giác không để nó dẫn. 
      Cho nên nói: "Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm". Niệm khởi liền giác, 
      giác tức niệm diệt. Thiền sư cả ngày trong bốn oai nghi đều sống giác 
      niệm, không để thưa hở. Bởi vì từ ngàn đời chúng ta đã chấp nhận niệm là 
      tâm mình, hiện nay biết nó hư giả, nó là tướng vô minh, song nó đã thành 
      thói quen, thành tập quán, không thể tỉnh giác một sớm một chiều mà hết 
      được. Trái lại, phải bền bỉ, lâu dài, kiên trì, tỉnh giác, chúng mới thưa 
      dần và từ từ im bặt. Nếu không phải là người kiên trì, tỉnh giác, bền bỉ, 
      lâu dài, dù có giải ngộ cũng không giải thoát sanh tử. Thế nên người xưa 
      nói "Người tu thiền phải đầy đủ hai tâm kiên cố và trường viễn". Kiên trì 
      tỉnh giác là tâm kiên cố, bền bỉ lâu dài là tâm trường viễn. Có kiên trì 
      tỉnh giác mới khỏi bị niệm dẫn, có bền bỉ lâu dài mới chinh phục được 
      chúng. Thiền sư là một chiến sĩ thường cầm kiếm trí tuệ tiêu diệt bọn ma 
      vô minh vọng niệm. Tay không rời kiếm, mắt chẳng ngó lơ, mới là chiến sĩ 
      dũng mãnh. Đến khi nào bọn ma vô minh vọng niệm diệt sạch, người chiến sĩ 
      mới ca khúc khải hoàn và sống mãi trong thanh bình an lạc. Sự tu hành của 
      Thiền sư không hạn cuộc trong thời khóa nghi lễ, mà lấy sự tỉnh giác làm 
      chủ yếu. Vì thế, có khi cả ngày không thấy ngồi thiền hay tụng kinh, mà sự 
      tu hành của Thiền sư rất cẩn mật. Thấy từng tâm niệm của chính mình suốt 
      mười hai giờ, làm sao bảo lơi lỏng được. Chỗ này chỉ người trong cảnh biết 
      được thôi.  
      
      
      
      b. Ứng dụng giác ngộ tri hữu để tu:  
      
      
      Tri hữu là biết mình có tánh giác. Tánh giác tức là ông chủ thật của mình. 
      Quên tánh giác là đã mất ông chủ, chính là mất mình. Sống mà mất mình hay 
      không biết mình sống, không phải vô minh là gì? Đối trị cái vô minh (mê) 
      này, Thiền sư hằng nhớ ông chủ của mình. Lối nhớ ông chủ bằng cách sáu căn 
      tiếp xúc với sáu trần mà không chạy theo sáu trần, hằng sống với sáu đường 
      hào quang sẵn có của mình. Cho nên nói: "Thấy sắc không dính sắc, nghe 
      tiếng không kẹt tiếng". Bởi thường sống với ông chủ của mình, nên ngoài 
      không bị năm trần quyến rũ, trong không bị pháp trần cuốn lôi. Đó là chỗ 
      "Tâm như nên cảnh như". Chính chỗ này ông Bàng Long Uẩn có kệ:  
      
      
                  Đản tự vô tâm ư vạn vật  
      
      
                  Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu  
      
      
                  Thiết ngưu bất phạ sư tử hống  
      
      
                  Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu  
      
      
                  Mộc nhân bản thể tự vô tình  
      
      
                  Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh  
      
      
                  Tâm cảnh như như chỉ giá thị  
      
      
                  Hà lự bồ-đề đạo bất thành.  
      
      
                  Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật  
      
      
                  Ngại gì vạn vật thường vi nhiễu  
      
      
                  Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống  
      
      
                  Giống như người gỗ xem chim vẽ  
      
      
                  Người gỗ bản thể tự vô tình  
      
      
                  Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh  
      
      
                  Tâm cảnh như như chỉ thế ấy  
      
      
                  Nào sợ bồ-đề đạo chẳng thành.  
      
      
      Ông chủ là mình, làm sao mình nhớ? Nghĩa là chúng ta mắt thấy sắc biết 
      mình có tánh thấy, tai nghe tiếng biết mình có tánh nghe, mũi ngửi mùi 
      biết mình có tánh ngửi., cái gì chạm đến đều biết có mình, ông chủ đang 
      tiếp xúc với sáu trần ấy. Hằng nhớ ông chủ như vậy thì đâu có chạy theo 
      sáu trần. Ông chủ khi tiếp xúc với sáu trần tuy thường biết mà không có 
      vọng phân biệt. Thường biết rõ ràng mà lặng lẽ nên gọi là Như. Thường nhớ 
      ông chủ gọi là "Niệm chân như", hoặc nói "Nhất niệm vạn niên", hoặc nói 
      "Bất ly đương niệm". Chỉ một niệm hiện tiền mà không rơi vào phân biệt. 
      Song chúng ta dễ lầm chữ NIỆM. Ở trên nói niệm khởi hay vọng niệm, chữ 
      niệm này là tâm vọng động vừa dấy lên. Ở đây nói niệm chân như, chữ niệm 
      này là nhớ, hằng nhớ sống với tâm chân như, gọi là niệm chân như hay nhớ 
      ông chủ. Cũng đồng một chữ niệm mà nghĩa dùng khác nhau. Một hình ảnh linh 
      động nhất về lối tu này, như : Thiền sư Sư Nhan mỗi ngày thường ngồi trên 
      tảng đá, lâu lâu tự gọi: "Ông chủ", tự đáp: "Dạ", tự nhắc: "Tỉnh, tỉnh, 
      chớ để người lừa".  
      
      
      Vừa quên ông chủ là bị trần cảnh bên ngoài và pháp trần bên trong lôi đi, 
      tức bị người lừa. Phải hằng tỉnh, hằng giác mới khỏi bị người lừa. Hằng 
      sống với ông chủ đến khi thuần thục rồi, đạo bồ-đề hiện tiền còn gì lo 
      ngại.  
      
      
      Lại nữa, đối cảnh tâm không chạy theo cảnh, niệm dấy lên không theo niệm, 
      hằng liễu tri mà lặng lẽ là sống với ông chủ. Ông chủ là cái hằng liễu tri 
      nơi toàn thân, không bị cảnh dẫn thì ông chủ ngồi sờ sờ trong nhà, khỏi 
      cần kiếm tìm, tưởng nhớ chi cả. Sống được như vậy, thì đi đứng nằm ngồi gì 
      cũng thiền, nên nói: "Hái củi, lặt rau, thổi cơm, gánh nước đều là thiền".
       
      
      
      Tóm lại, hai phần "đốn ngộ tiệm tu" trên, tuy nói tu mà không có tu. Vì lẽ 
      tu là sửa sang bồi bổ, tánh giác không tướng mạo làm sao sửa sang? Hơn nữa 
      tánh giác chẳng sanh chẳng diệt, nếu còn có tu là còn tạo tác, tức là còn 
      sanh diệt. Đã không tu thì làm gì có chứng. Khi người tu hoàn toàn sống 
      được với tâm thể như như, gọi là chứng đạo hay thành đạo. Song sự thật có 
      chứng cái gì, có thành cái gì? Chẳng qua sống viên mãn với tâm thể của 
      mình thôi. Tuy nhiên như thế, nói không tu mà tu. Vì khéo biết buông xả 
      vọng niệm, hằng giác tỉnh luôn nên gọi là tu. Hoặc thường nhớ ông chủ của 
      mình, không giây phút nào để vọng tâm ngoại cảnh lừa gạt lôi đi gọi là tu. 
      Nói không chứng mà chứng. Vì tánh giác đã sẵn có nơi chúng ta, mà cả muôn 
      đời bỏ quên mất, nay nhận ra và sống toàn vẹn với nó gọi là chứng. Ví như 
      chúng ta có hòn ngọc quí, chôn cất nơi nào quên mất, bỗng có người chỉ, 
      sực nhớ lại, đào xới lên, lấy được hòn ngọc cầm trong tay, gọi là được. 
      Đấy sự tu chứng của tinh thần Thiền tông là như thế. Nói có tu cũng được, 
      nói không tu cũng được, nói có chứng không chứng cũng phải. Bởi nó chỉ là 
      phương tiện tạm thời, không có thật pháp để tu để chứng. Ví như các pháp 
      môn khác, như Tịnh độ thì dùng câu niệm Phật làm pháp tu, Mật tông thì 
      dùng câu thần chú làm pháp tu, thiền Tiểu thừa thì dùng đề mục làm pháp 
      tu. Chỉ riêng Thiền tông không mượn một pháp nào cả, khéo biết buông xả 
      vọng niệm, hằng tỉnh giác không quên là đủ. Đây là đi đường chim (điểu 
      đạo), thẳng tắt không nương phương tiện, nên nói "Chỉ thẳng tâm người, 
      thấy tánh thành Phật".  
      
      
      
      2. TIỆM TU ĐỐN NGỘ:  
      
      
      Đúng tinh thần Thiền tông, phải trước kiến tánh sau mới khởi tu, song với 
      người tha thiết tu hành mà chưa kiến tánh thì sao? Chư Tổ sau này vì 
      thương người có chí tu mà chưa kiến tánh, nên lập ra những phương tiện 
      sau:  
      
      
      
      a. Tọa thiền khán công án hay thoại đầu:  
      
      
      Đây là lối tu do các Thiền sư dòng Lâm Tế đời Tống lập ra. Khán công án 
      hay khán thoại đầu, lối dụng công cũng như nhau, chỉ khác ở điểm công án 
      là một câu của người xưa để lại, thoại đầu tùy thời biến chế. Phương pháp 
      tu này gọi là "lấy độc trừ độc". Vì có một nghi vấn đặt trong đầu thì mọi 
      vọng tưởng đều lặng mất. Cho nên người khán công án hay thoại đầu phải tin 
      tưởng tuyệt đối vị thầy mình đến thọ giáo. Ông dạy một câu như : "Trước 
      khi cha mẹ chưa sanh, mình là gì?" v.v. liền phải sống chết với câu ấy, 
      cho đến ngày ngộ đạo mới thôi. Khi khán thoại đầu, nên đề khởi câu thoại 
      đầu lên, sau chữ "gì?" có một sức mạnh nghi kéo dài im lặng, khi sức nghi 
      yếu dần, liền đề khởi nữa, cứ thế mãi. Câu nói đặt thành nghi vấn là 
      thoại, cái nghi kéo dài im lặng là đầu. Hay nói khác hơn, trước khi chưa 
      đặt nghi vấn là đầu, nghi vấn dấy lên là thoại. Chủ yếu dùng cái nghi đập 
      chết mọi vọng tưởng. Khi cái nghi đã thành khối, khỏi cần đề khởi mà lúc 
      nào cũng nghi, gọi là "nghi tình". Một khi cái nghi tan vỡ ra là ngộ đạo. 
      Thế nên nói "đa nghi đa ngộ". Song tu khán thoại đầu phải gan dạ, chết 
      sống với câu mình nhận nơi Thầy, cho đến ngộ đạo, không được học kinh sách 
      hay lý luận gì cả. Tu khán thoại đầu, khi tọa thiền khán thoại đầu, lúc ra 
      ngoài hoặc làm công tác cũng vẫn khán thoại đầu, không đổi thay pháp nào 
      khác.  
      
      
      
      b. Tọa thiền biết vọng:  
      
      
      Thiền giả nên ứng dụng phần giác ngộ hạ ở trên để tu. Khi tọa thiền đúng 
      pháp rồi, thiền giả để tâm vắng lặng, vừa có vọng tưởng dấy lên liền "biết 
      vọng không theo". Nếu vọng tưởng quá mạnh, biết vọng mà vẫn còn lôi đi, 
      thiền giả nên thấy vọng ấy vốn không, nói quả quyết rằng: "Mày là không". 
      Nếu dùng chữ không mà trị chưa nổi, thiền giả phải quở mắng nó, bảo: "Vì 
      mày nên nhiều đời phải chịu luân hồi, giờ đây mày muốn xuống địa ngục hay 
      sao?" Đó là lối mục đồng dùng roi để trị con trâu ngỗ nghịch. Hoặc hành 
      giả phản quán lại xem cái vọng này từ đâu mà khởi. Phăng tìm nguồn gốc đến 
      chỗ tột cùng, chúng liền mất tăm dạng, thế là an tâm.  
      
      
      Biết vọng không theo là lối tu nhẹ nhàng thanh thản, song phải có chí lắm 
      mới khỏi chán. Bởi vì vọng tưởng quá nhiều, không theo cái này, cái khác 
      lại nổi lên, cứ thế mãi khó tìm được phút giây yên tĩnh. Phải bền chí, 
      đừng nản, biết vọng mãi rồi vọng sẽ thưa dần. Không theo vọng tưởng là 
      chúng ta phá cái chấp ngã về tâm, đến khi vọng tưởng yếu thế sẽ có cơ kiến 
      tánh giải ngộ. Ngoài giờ tọa thiền ra, thiền giả thường quán chiếu thân tứ 
      đại này do duyên hợp hư giả, không thật, bất cứ đòi hỏi, cố chấp gì về 
      thân đều quở trách: "Thân đã giả, còn muốn cái gì? Cầu cái gì?" Những suy 
      tư nghĩ tưởng dấy lên cũng biết giả không theo. Nếu có làm việc thì chỉ 
      biết việc ấy, không cho vọng tưởng dẫn đi nơi khác. Lặng lẽ chăm chỉ trong 
      việc làm, không để chú vọng bén mảng đến trong đầu. Cứ thế hằng tu trong 
      việc làm, hằng tu lúc rảnh rỗi, hằng tu khi tọa thiền. Không theo vọng 
      tưởng là phá ngã chấp về tâm, biết thân duyên hợp hư giả là phá ngã chấp 
      về thân. Đây là bước giác ngộ vô ngã của người tu Phật theo tinh thần 
      Bát-nhã. Lối tu thiền này càng xem kinh học đạo là càng sáng thêm, chớ 
      không trở ngại. Nhờ kinh làm sáng cho thiền, do thiền làm tỏ rạng được 
      kinh.  
      
      
      
      c. Đối chiếu hai pháp tu:  
      
      
      Hai pháp tu "biết vọng" và "khán thoại đầu" đều gọi là "tiệm tu đốn ngộ". 
      Dùng cái biết vọng hay câu thoại đầu để đập chết con khỉ ý thức. Khi con 
      khỉ ý thức thật chết, liền ngộ đạo, nên nói "Sau khi chết liền tỉnh" 
      (tuyệt hậu tái tô). Người tu đừng sợ hay quên và khờ dại, vì cố bỏ cố quên 
      mà không quên không dại sao được? Tu thoại đầu có sức mạnh, song phải 
      buông hết mọi học tập, mọi suy luận. Tu biết vọng thì nhẹ nhàng lại phù 
      hợp với kinh điển, càng nghe kinh càng tin thêm pháp tu. Tu thoại đầu phải 
      ngộ đạo mới sáng, ở giữa chừng coi như chết nơi khờ dại. Tu biết vọng thì 
      tu một giờ sáng một giờ, càng tu thì trí tuệ càng tăng, cho đến khi phá 
      tan cái chấp ngã. Tu thoại đầu phải có bậc thầy đạt đạo trong pháp tu này 
      dẫn dắt, mới đến nơi đến chốn. Tu biết vọng nương nơi kinh, chúng ta thấy 
      rõ đường lối tu, có khi nhân nghe kinh liền được kiến tánh. Bởi những lý 
      do trên, chủ trương chúng tôi dạy Tăng Ni và Phật tử sơ cơ tu thiền bằng 
      lối "biết vọng", đồng thời giảng Kinh, Luận cho họ nghe, mong họ nhận ra 
      bản tánh, để tiến lên "kiến tánh khởi tu" ở trên. Giả sử thiền giả chưa 
      được kiến tánh, cứ như thế mà tu vẫn dũa mòn ngã chấp, trí tuệ Bát-nhã từ 
      từ phát hiện.  
      
      
      
      3. PHƯƠNG PHÁP TỌA THIỀN:  
      
      
      Cả bốn lối tu trên đều cần tọa thiền, đành rằng hằng tu trong bốn oai nghi 
      (đi đứng nằm ngồi) song tọa thiền là phương tiện thù thắng hơn cả. Chính 
      đức Thích-ca Mâu-ni sau khi thành đạo Ngài vẫn tọa thiền. Có vị tăng hỏi: 
      "Phật thành đạo rồi, ngồi thiền chi nữa?" Phật bảo: "Ta ngồi thiền để điều 
      hòa thân thể và răn nhắc đệ tử sau này không lười trễ tọa thiền." Vì thế 
      chúng ta phải cố gắng tập tọa thiền. Tọa thiền có chia mấy phần dưới đây:
       
      
      
      
      a. Trước khi tọa thiền:  
      
      
      Hành giả khéo tập đi đứng nằm ngồi đều nhẹ nhàng thư thả, buông xả không 
      để tâm bực tức buồn rầu. Muốn tọa thiền phải sắm phương tiện ngồi, một cái 
      "bồ đoàn" đặt trên một tấm nệm mỏng sáu tấc vuông. Nếu không có tấm nệm, 
      trải mền hai ba lớp cũng được. Bồ đoàn may bằng vải, trong dồn gòn đừng 
      cứng lắm, bề cao một tấc, bề kính hai tấc tây, hình tròn. Nếu không có bồ 
      đoàn nên lấy mền xếp làm tư, khi ngồi chỉ để phân nửa bàn tọa lên mền cho 
      có thế ngả về trước một chút, xương sống dễ thẳng. Ngồi phải lựa chỗ ít 
      gió mà không nực lắm. Nếu ban đêm ngồi trong mùng chớ để đèn sáng lắm, 
      cũng đừng tối mò, sáng vừa vừa là tốt.  
      
      
      
      b. Trong khi tọa thiền:  
      
      
      Đến giờ tọa thiền, trải nệm lót bồ đoàn xong, ngồi lên bồ đoàn, xương cùng 
      đúng giữa bồ đoàn, nghiêng qua nghiêng lại cho an ổn mới kéo chân ngồi. 
      Nếu ngồi bán già, kéo chân trái để lên đùi mặt, hoặc chân mặt để lên đùi 
      trái cũng được, tùy sự thuận tiện của hành giả. Hai thế ngồi ấy, một là 
      kiết tường hai là hàng ma. Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo để lên đùi 
      mặt, chân mặt kéo để lên đùi trái, kéo sát vào thân. Kế nới rộng dây lưng, 
      cổ áo, sửa thân ngay thẳng. Lấy bàn tay trái để lên bàn tay mặt, hoặc 
      ngược lại cũng được. Hai bàn tay để trên hai lòng bàn chân, những ngón tay 
      chồng lên nhau, hai đầu ngón tay cái vừa đụng nhau, nằm ngay chiều cái 
      rún. Nếu lòng bàn chân bên nào trũng quá, nên lấy khăn xếp lại chêm cho 
      hai tay ngang bằng nhau. Chuyển động thân ba lần, ban đầu rất mạnh, sau 
      yếu dần. Ngồi lưng thẳng vừa phải, đừng cố gắng, đầu hơi cúi, chiều chót 
      mũi ngay đầu ngón tay cái, hai trái tai ngang bả vai, mắt mở một phần ba, 
      gương mặt bình thản, ngồi yên. Dùng miệng thở hơi ô trược ra, khi thở há 
      miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, thở thật dài và sạch, hơi ra 
      tưởng như tất cả phiền não bệnh hoạn theo hơi thở ra ngoài hết. Ngậm miệng 
      lại dùng mũi hít hơi vào, dài nhẹ và thật đầy, hơi vô tưởng không khí 
      trong sạch vào khắp châu thân. Như thế ba lần. Thở xong, ngậm miệng lại, 
      môi và răng vừa kề nhau, lưỡi để lên trên. Từ đây về sau chỉ hít thở bằng 
      mũi đều đều nhẹ nhẹ mà dài. Thân ngồi ngay thẳng như cột trụ, dù có ngứa 
      ngáy cũng không cựa động, nhức mỏi cũng gan dạ chịu đựng đúng giờ mới xả. 
      Vọng tưởng dừng là định, đừng đòi hỏi cái định nào khác. Ứng dụng đúng câu 
      Thiền sư Huyền Giác nói: "Tỉnh tỉnh lặng lặng là phải, tỉnh tỉnh vọng 
      tưởng là sai; lặng lặng tỉnh tỉnh là phải, lặng lặng hôn trầm là sai". Đây 
      là phương pháp nhập thiền.  
      
      
      Đến trụ thiền, tùy trình độ ứng dụng một trong bốn pháp trên để trị tâm. 
      Nếu người sơ cơ nên dùng lối biết vọng để tu. Khi ấy, thở ra vào an ổn đôi 
      ba phút, buông hơi thở để tâm an tịnh, vừa có vọng khởi liền biết vọng 
      không theo, vọng lặng thì tâm lặng, vọng dấy liền biết vọng. Cứ thế mãi 
      cho đến vọng thưa dần và im bặt. Nếu mơ màng ngủ gục, cần mở mắt sáng ra, 
      chấn chỉnh thân nghiêm trang lại, ma ngủ vẫn hoành hành nên trụ tâm tại mé 
      tóc nhọn trên trán, ma ngủ vẫn trầm trọng, nên xả thiền đi kinh hành. Nếu 
      vọng tưởng quá mạnh, nên trụ tâm tại chót mũi hay giữa rún. Song chỉ tạm 
      thời cho qua cơn mãnh liệt của chúng thôi. Vọng tưởng bình thường nên giữ 
      biết vọng không theo, chẳng cần làm gì khác. Như thế ngồi được bao lâu tùy 
      sức tu tập của hành giả. Trong lúc ngồi nghe ngực nặng, tim hơi nhói là 
      ngồi thẳng quá, phải rùn xuống một chút, nghe nhức xương sống gần lưng 
      quần, biết ngồi cong rồi, phải thẳng lên. Khéo léo đừng để thành bệnh.
       
      
      
      Khi xuất thiền, trước đọc bài nguyện hồi hướng, kế dùng miệng thở ra, mũi 
      hít vào ba lần như khi mới vào, động hai bả vai lên xuống năm lần, động 
      cái đầu cúi ngước năm lần, và nghiêng sang phải sang trái năm lần. Động 
      hai bàn tay nắm lại duỗi ra năm lần, dời hai bàn tay ra đầu gối, chuyển 
      động toàn thân ba lần, từ nhẹ ra mạnh. Xoa bóp toàn thân từ đầu đến chân, 
      chỗ nào bất an càng bóp nhiều, xoa hai tay ấm áp vào mắt ba lần. Cần nhớ 
      mỗi mỗi hành động đều nhẹ nhàng êm ái, đừng thô ồn. Dời thân khỏi bồ đoàn, 
      ngồi thường yên tịnh khoảng năm phút, sẽ đứng dậy đi.  
      
      
      
      c. Sau khi tọa thiền:  
      
      
      Nếu hoàn cảnh thuận tiện, hành giả sau khi xả thiền, ra sân hoặc hành lang 
      nhà đi kinh hành thẳng chân độ muời phút. Bước thẳng chân mà chẳng động, 
      tâm vẫn biết vọng không theo. Bắt tay vào việc làm nào đều chỉ biết trong 
      việc làm ấy, có vọng tưởng kéo đi, buông chúng không theo. Đó là biết tu 
      sau khi xả thiền.  
      
      
      
      d. Trong khi tọa thiền thấy cảnh lạ:  
      
      
      Hành giả trong khi tọa thiền thường có tướng lạ phát hiện, nghe thân nặng 
      nề như có vật gì đè lên, thân nhẹ nhàng muốn bay bổng, có những con li ti 
      bò ngứa trên mặt, luồng điện từ xương sống chạy lên, có vật gì xúc chạm 
      rợn người, thân muốn lay động, đầu lắc lơ, thấy phía trước có ánh sáng, 
      nghe như có người nói bên lỗ tai., tất cả những tướng ấy đều không nên 
      chấp nhận hay sợ hãi. Phải quán nó là hư giả, vẫn giữ thân làm chủ không 
      cho nó xâm phạm. Cho đến dù thấy ma hay thấy Phật cũng không mừng không 
      sợ, vì biết đều là tướng hư giả nên không chấp nhận. Nhà thiền nói "gặp ma 
      giết ma, gặp Phật giết Phật" là thế. Vui mừng và sợ hãi là nhân của điên 
      cuồng. Kinh Lăng Nghiêm nói về ngũ ấm ma, mỗi đoạn kết thúc Phật dạy: "Nếu 
      cho mình chứng thánh tức rơi vào bọn tà, không nghĩ chứng thánh là cảnh 
      giới tốt" (Nhược tác thánh giải tức thọ quần tà, bất khởi thánh tâm tức 
      thiện cảnh giới). Cảnh tà hay tốt đều tại tâm mình chấp mà ra. Đừng quan 
      tâm đến ngoại cảnh, chủ yếu an tâm là đúng. Dù có cảnh dữ hiện ra vẫn là 
      tướng biến hóa không thật, cái không thật làm gì hại được mình mà sợ. 
      Trong khi ngồi thiền thấy cảnh lạ, phần lớn là mơ, cần phải mở mắt tỉnh 
      táo nhìn chúng, nếu nhìn mà chúng không mất thì nhắm mắt lại tưởng năm uẩn 
      này là không, tướng kia cũng không thì khỏi sợ sệt.  
      
      
      
      e. Lợi ích tọa thiền:  
      
      
      Tọa thiền là một lối tu căn bản của đạo giác ngộ, đức Thích-ca ngày xưa 
      cũng do tọa thiền được ngộ đạo, Giới Định Tuệ là ba cửa giải thoát của đạo 
      Phật. Tọa thiền đúng pháp sẽ đem lại cho thân chúng ta sự điều hòa khỏe 
      mạnh, da dẻ tươi tốt, ít sanh bệnh hoạn. Khi nghe uể oải trong người sắp 
      bị cảm, chúng ta ngồi thiền độ một tiếng đồng hồ là tan ngay. Nếu cảm gió 
      hơi nặng, cần ngồi đôi ba lần mới hết. Vì ngồi thiền hơi nóng xông ra, mọi 
      thứ khí lạnh đều bị tan nên hết cảm. Về phần tâm tán loạn, tọa thiền đuổi 
      chúng nhanh hơn bình thường. Song có nhiều vị thấy lúc ngồi thiền loạn 
      nhiều hơn ở ngoài, chẳng qua lúc ở ngoài cảnh động nên ít thấy tâm mình 
      động, khi tọa thiền cảnh đã vắng nên dễ thấy tâm động. Tâm động mà xả hết 
      không theo, dần dần tịnh lại, đây là hiệu quả của tọa thiền. Bởi tọa thiền 
      thiết yếu nên tăng sĩ ít ai không tập tọa thiền. Chúng ta nghe Thiền sư 
      Thiện Chiêu ở Phần Dương nói kệ:  
      
      
                  Bế hộ sơ dung tẩu  
      
      
                  Vi tăng nhạo tọa thiền  
      
      
                  Nhất tâm vô tạp niệm  
      
      
                  Vạn hạnh tự thông huyền  
      
      
                  Nguyệt ấn thu giang tĩnh  
      
      
                  Đăng minh thảo xá tiên  
      
      
                  Kỷ nhân năng đáo thử  
      
      
                  Đáo thử kỷ năng chân.  
      
      
                  Đóng cửa dáng gầy nhác  
      
      
                  Làm tăng thích tọa thiền  
      
      
                  Nhất tâm không niệm tạp  
      
      
                  Muôn hạnh tự thông huyền  
      
      
                  Trăng in dòng thu lặng  
      
      
                  Đèn sáng nhà cỏ tươi  
      
      
                  Mấy người hay đến đó  
      
      
                  Đến đó mấy kẻ chân.  
      
      
      Tóm lại, phương pháp tọa thiền tuy đã chỉ qua mấy trang giấy này, song quí 
      nhất là hành giả trực tiếp với những vị có thật tu thiền để được chỉ rõ 
      cách tọa thiền và sửa cho những chỗ sai, kết quả sẽ tốt hơn. 
      
      
      
      C. HIỆU DỤNG  
      
      
      Ứng dụng lối tu thiền của Thiền tông một cách đúng đắn, đạt hiệu quả không 
      thể kể hết. Vì đây là lối tu siêu thoát tộ? đỉnh, thẳng tắt vô cùng. Nếu 
      ứng dụng được viên mãn thì một đời giải thoát sanh tử, từ phàm phu tiến 
      thẳng lên Phật quả, như nói: "Mê là chúng sanh, ngộ là Phật". Bằng ứng 
      dụng được phần nào thì đã vào hàng Bồ-tát, tuy chưa thoát khỏi sanh tử, 
      song đi trong sanh tử coi như dạo hoa viên. Thiền sư Từ Minh nói: "Sanh 
      như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ". Dưới con mắt các Thiền sư, thật cuộc 
      đời là mộng huyễn không hoa, không có gì là chướng ngại. Công dụng hữu 
      hiệu tạm chia làm hai phần:  
      
      
      
      1. Tánh giác là hòn ngọc như ý:  
      
      
      Tất cả nhân loại không quí gì bằng sanh mạng, sanh mạng được coi trọng 
      nhất trên nhân gian này. Bởi vì tất cả của cải sự nghiệp, danh vọng tài 
      sắc. đều để tô điểm cho sanh mạng. Mất sanh mạng tất cả cái ấy trở thành 
      vô nghĩa. Song sanh mạng con người thời nay, nếu kéo dài lắm chỉ trong 
      vòng bảy tám mươi năm. Cái đau khổ nhất của con người là khi nghe mình sắp 
      mất sanh mạng. Vì thế bất cứ sự cầu khẩn, van xin, quỵ lụy, lạy lục nào 
      miễn là được kéo dài thêm sanh mạng thì họ sẵn sàng làm. Nhưng cuối cùng 
      con người đành phải trói tay cúi đầu dưới nhát kiếm của con quỷ vô thường. 
      Thật là mối đau khổ truyền kiếp không ai thoát được. Nếu có một phương 
      pháp nào khiến con người thoát được cái chết thì trên nhân gian này còn gì 
      quí bằng! Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu quí vị phương thuốc hy hữu duy 
      nhất trên đời, nếu quí vị uống nó vào thì "bất tử", chính là tánh giác của 
      quí vị đấy. Người giác ngộ tánh giác là nhận ra được cái "bất tử". Vì thế 
      tánh giác này được Phật dụ là hòn ngọc như ý. Được hòn ngọc này rồi, con 
      người dứt sạch mọi đau khổ, mọi mong cầu đều toại nguyện. Nhưng rất tiếc, 
      hòn ngọc quí để bên gói bánh kẹo, với đứa bé lên năm bao giờ cũng quí gói 
      bánh kẹo, xem thường hòn ngọc. Cũng thế, tánh giác thường hằng, đơn giản, 
      hiện hữu nơi chúng ta, mà bị chúng ta lãng quên. Chúng ta cứ say mê theo 
      cái tưởng tượng, cái nhớ nhung, cái suy tư, cái tính toán, cái so sánh. 
      quên bẵng tánh giác. Nếu có người chỉ thẳng tánh giác ấy cho thấy, cũng 
      vẫn xem thường. Vì thương đứa bé, muốn nó nhận hòn ngọc để sau này no ấm 
      đời đời, người trí phải nói với nó: "Hòn ngọc này sẽ làm ra nhiều bánh 
      kẹo, có nó thì muốn bánh kẹo lúc nào cũng có, chẳng những bánh kẹo mà mọi 
      đồ chơi cũng đầy đủ nữa". Do thích bánh kẹo, ham đồ chơi, đứa bé nhận hòn 
      ngọc. Cũng vậy, đức Phật diễn tả trong kinh nào là tam thân, tứ trí, ngũ 
      nhãn, lục thông, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng v.v. và v.v., đều đầy đủ 
      nếu người nào ngộ được tánh giác. Vì thích thần thông tự tại biến hóa vô 
      cùng, chúng ta phát tâm bồ-đề hướng về tánh giác. Hoặc vì tánh hiếu kỳ, ưa 
      tưởng tượng quái dị, những người này không thích cái gì đơn giản bình dị, 
      muốn chỉ tánh giác thực hữu mà giản đơn cho họ, không sao tránh khỏi họ sẽ 
      xem thường. Buộc lòng đức Phật phải nói một cách khó khăn, quá sức tưởng 
      tượng của họ, có thế họ mới quí trọng kính nể và tìm tòi tu tập. 
       
      
      
      Thật sự tánh giác lồng sẵn nơi con người xác thịt của chúng ta, nó hiển 
      bày từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của chúng ta, song nó không phải mắt, 
      tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Vì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là phần vật chất do 
      tứ đại hòa hợp mà thành; tứ đại thể nó vô tri nên không phải tánh giác. Y 
      Ù là cái tâm vọng tưởng quấy động bám vào bóng dáng của trần cảnh, biến 
      động sanh diệt, chợt có chợt không, chẳng phải tánh giác. Bởi vì tánh giác 
      là liễu tri thường hằng, không tướng mạo, không sanh diệt. Cho nên năm căn 
      tiếp xúc với năm trần, liễu tri mà không so sánh phân biệt, đó là hiện 
      tướng của tánh giác. Nhẫn đến khi không có năm trần, tánh giác cũng hằng 
      hiển bày như vậy. Bên trong ý thức dấy động hay dừng nghỉ, biết rõ mọi 
      động tác của ý là tánh giác. Nếu không tánh giác, cái gì biết ý thức có 
      động hay không động? Vì tánh giác không động, không tướng mạo nên không 
      sanh diệt. Sống được với tánh giác là đi vào bất tử (vô sanh), sống với 
      vọng tưởng là đi vào sanh tử. Bất tử là Niết-bàn giải thoát, sanh tử là 
      luân hồi đau khổ. Vọng tưởng là cái động của tánh giác, vọng tưởng lặng 
      xuống là tánh giác tròn đầy. Chúng tôi mượn bài kệ của Thiền sư Thanh Hồng 
      để kết thúc đoạn này:  
      
      
                  Chân không trạm tịch duy thường tại  
      
      
                  Bất giác lương điền vọng sở mông  
      
      
                  Chân tánh hà tằng ly vọng hữu  
      
      
                  Hoa khai hoa lạc tự xuân phong.  
      
      
                  Chân không lặng lẽ thường còn mãi  
      
      
                  Chẳng biết lương điền vọng che lồng  
      
      
                  Chân tánh đâu từng lìa vọng có  
      
      
                  Hoa khai hoa rụng tự gió xuân.  
      
      
      
      2. Tự tại khi chết:  
      
      
      Người tu thiền cốt yếu được sanh tử tự tại, khi sống cũng như khi chết 
      mình hoàn toàn làm chủ. Muốn làm chủ khi chết, chính lúc còn sống này mình 
      phải làm chủ cả thể xác lẫn tâm hồn. Như Thiền sư Đạo Giai nói: "Muốn biết 
      khi chết được tự tại (hay) không tự tại, chỉ xem hiện tiền tự do (hay) 
      chẳng tự do". Tự do đây có nghĩa là mình làm chủ mình hoàn toàn, không 
      phải tự do đối với xã hội. Đối với danh vọng tài sắc. không quấy nhiễu 
      được ta, đối với khổ vui sống chết. không phiền lụy đến ta, ta sống trong 
      cuộc đời phồn tạp mà vẫn không vướng bận, như cây bá hiên ngang đứng sừng 
      sững giữa trời. Trong khi sống tự tại như vậy, đến lúc chết làm gì chẳng 
      tự do. Tại sao được như vậy? Bởi vì chúng ta đã thấy rõ cái không sanh tử 
      ở trong cái sanh tử, có cái chân thật nằm trong cái giả dối. Các Thiền sư 
      vì sống với cái chân thật nên không màng đến cái giả dối, sống với cái 
      không sanh tử nên làm chủ được cái sanh tử. Chúng ta hãy xem cái chết của 
      Thiền sư:  
      
      
      Trước khi sắp tịch, Thiền sư Đặng Ẩn Phong hỏi chúng: "Tôi thường thấy các 
      vị tiền bối khi tịch hoặc ngồi, hoặc nằm, có vị nào đứng tịch chăng?" 
      Chúng thưa: "Có." Sư hỏi: "Có vị nào lộn ngược tịch chăng?" Chúng thưa: 
      "Chưa từng thấy." Sư bèn lộn ngược mà tịch, nhưng y phục vẫn nguyên vẹn 
      như đứng. (Đặng Ẩn Phong là đệ tử Mã Tổ).  
      
      
      Vua Đường Mục Tông sai Lưỡng Nhai Tăng Lục là Linh Phụ đến thỉnh Thiền sư 
      Vô Nghiệp về triều. Linh Phụ đến làm lễ thưa: "Hoàng Thượng ân chỉ phen 
      này chẳng giống lúc thường, xin Hòa thượng hãy thuận thiên tâm, không nên 
      nói bệnh." Sư cười chúm chím nói: "Bần đạo có đức gì làm phiền thế chủ. 
      Mời các Ngài đi trước, tôi sẽ đi đường riêng." Sư bèn tắm gội, đến giữa 
      đêm bảo đệ tử Huệ Âm v.v. : "Các ngươi! Tánh thấy nghe hiểu biết cùng hư 
      không đồng tuổi, chẳng sanh, chẳng diệt, tất cả cảnh giới vốn tự không 
      lặng, không một pháp có thật, người mê không hiểu bị cảnh làm lầm, trôi 
      lăn không cùng." Nói xong Sư ngồi yên thị tịch. (Cũng là đệ tử Mã Tổ).
       
      
      
      Ông Bàng Long Uẩn sắp tịch, bảo con gái là Linh Chiếu ra xem mặt trời đúng 
      ngọ vô cho ông hay. Linh Chiếu ra xem, vào thưa: "Mặt trời đã đúng ngọ mà 
      có nguyệt thực." Ông ra cửa xem. Linh chiếu lên tòa của ông, ngồi kiết già 
      chấp tay thị tịch. Ông vào xem thấy cười, nói: "Con gái ta lanh lợi quá!" 
      Ông bèn chậm lại bảy ngày sau. Đến ngày thứ bảy Châu Mục Vu Công đến thăm, 
      ông bảo: "Chỉ mong các cái có đều không, dè dặt các cái không đều thật, 
      khéo ở thế gian đều như bóng vang." Nói xong ông nằm gác đầu trên đầu gối 
      Vu Công mà tịch.  
      
      
      Thiền sư Lương Giới Động Sơn cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh 
      chuông, giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãi không dứt. 
      Sư mở mắt bảo: "Người xuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật là tu hành chân 
      chánh. Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?" Sư bảo chủ sự sắm 
      trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn quyến luyến quá, kéo dài đến ngày thứ 
      bảy. Khi thọ trai Sư cũng theo chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: 
      "Tăng già vô sự, sắp đến giờ ta ra đi, chớ làm ồn náo". Sư vào trượng thất 
      ngồi yên mà tịch. (Sư là đệ tử Vân Nham).  
      
      
      Chỉ Y Đạo Giả đến tham vấn Tào Sơn Bổn Tịch. Tào Sơn hỏi: "Đâu chẳng phải 
      Chỉ Y Đạo Giả ư?" Đạo Giả thưa: "Chả dám." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là việc 
      của Chỉ Y?" Đạo Giả thưa: "Chiếc áo cừu vừa khoác ngoài thân, muôn pháp 
      thảy đều như." Tào Sơn hỏi: "Thế nào là dụng của Chỉ Y?" Đạo Giả lại gần: 
      "Dạ!" Liền đứng tịch. Tào Sơn bảo: "Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng 
      giỏi đến thế ấy?" Đạo Giả mở mắt hỏi: "Một chân tánh linh khi chẳng nương 
      bào thai thì thế nào?" Tào Sơn bảo: "Chưa phải diệu." Đạo Giả hỏi: "Thế 
      nào là diệu?" Tào Sơn bảo: "Chẳng mượn! Mượn!" Đạo Giả trân trọng liền 
      tịch. (Đệ tử Động Sơn).  
      
      Một hôm Phổ 
      Hóa ở trong chợ đến mọi người xin chiếc áo dài, mọi người đều cho, Phổ Hóa 
      đều chẳng nhận. Lâm Tế dạy Viện Chủ mua chiếc quan tài, Phổ Hóa về đến, 
      Lâm Tế bảo: "Tôi đã vì ông sắm chiếc áo dài rồi!" Phổ Hóa liền tự vác đi. 
      Phổ Hóa đi quanh phố chợ rao: "Lâm Tế cho tôi chiếc áo dài rồi, tôi sang 
      cửa Đông tịch." Người trong chợ đua nhau đến xem. Phổ Hóa bảo: "Tôi ngày 
      nay chưa tịch, ngày mai sang cửa Nam mới tịch." Như thế đến ba ngày, mọi 
      người đều chẳng tin. Đến ngày thứ tư không ai theo xem, một mình Phổ Hóa 
      tự chun vào quan tài, nhờ người đi đường đậy nắp lại. Tin truyền đi, mọi 
      người trong chợ đua nhau đến giở quan tài xem, không thấy thi hài Phổ Hóa 
      đâu, chỉ nghe trong hư không tiếng mõ xa dần, xa dần rồi mất. (Đệ tử Bàn 
      Sơn)  
      
      
      * Thiền sư Thiện Chiêu bị Y Lý Hầu ba phen thỉnh trụ trì chùa Thừa Thiên 
      mà Sư không đi. Sứ giả bị phạt. Y Lý Hầu lại sai sứ đi phen nữa. Sứ giả 
      đến thưa: "Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi tôi liều chết mà 
      thôi." Sư cười bảo: "Bởi nghiệp già bệnh không thể xuống núi, giả sử đi có 
      trước có sau, tại sao quyết đồng?" Sứ giả thưa: "Thầy chịu đi thì trước 
      sau tùy lựa chọn." Bảo chúng sửa soạn hành lý xong, Sư gọi chúng lại nói: 
      "Lão tăng đi, có người nào theo được?" Có vị Tăng ra thưa: "Con theo 
      được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng thưa: "Năm 
      mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta chẳng được." Lại có vị Tăng ra thưa: 
      "Con theo được." Sư hỏi: "Một ngày ngươi đi được bao nhiêu dặm?" Tăng 
      thưa: "Bảy mươi dặm." Sư bảo: "Ngươi theo ta cũng chẳng được." Thị giả ra 
      thưa: "Con theo được, Hòa thượng đến đâu thì con đến đó." Sư bảo: "Ngươi 
      theo lão tăng được." Nói xong, Sư bảo thị giả: "Ta đi trước nghe!" Sư dừng 
      lại rồi tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. (Sư là đệ tử Thiền sư 
      Tỉnh Niệm dòng Lâm Tế).  
      
      
      Tạm dẫn bấy nhiêu cũng khá rườm lắm rồi, chúng tôi làm sao kể hết sự ra đi 
      tự tại của các Ngài. Tuy nhiên đối với các Thiền sư có những cái kỳ đặc, 
      song đấy chẳng phải quan trọng, vì đều là diệu dụng. Cái quan trọng nhất 
      trong nhà Thiền là sống được tánh giác của mình, nó mới là bản thể. Bản 
      thể là cái gốc, diệu dụng là cái ngọn. Chỉ lo không bám được gốc, đừng sợ 
      mất ngọn. Khi sống được với thể giác rồi thì mỗi hành động nào cũng là 
      thần thông diệu dụng cả. Ông Bàng Long Uẩn nói kệ:  
      
      
                  Nhật dụng vô biệt sự  
      
      
                  Duy ngô tự ngẫu hài  
      
      
                  Đầu đầu phi thủ xả  
      
      
                  Xứ xứ vật trương quai  
      
      
                  Châu tử thùy vi hiệu  
      
      
                  Khưu sơn tuyệt điểm ai  
      
      
                  Thần thông tịnh diệu dụng  
      
      
                  Vận thủy cập ban sài.  
      
      
                  Hằng ngày không việc khác  
      
      
                  Chỉ tôi tự biết hay  
      
      
                  Vật vật chẳng lấy bỏ  
      
      
                  Chỗ chỗ nào trái bày  
      
      
                  Đỏ tía gì làm hiệu  
      
      
                  Núi gò bặt trần ai  
      
      
                  Thần thông cùng diệu dụng  
      
      
                  Gánh nước bửa củi tài.  
      
      
      Thần thông ở đây là gánh nước bửa củi, vì mọi hành động ấy đều từ thể giác 
      phát xuất. Chúng ta lại nghe một bà già trình thần thông:  
      
      
      Thiền sư Nam Tuyền, Qui Tông, Ma Cốc đi hành cước đến một cái quán của bà 
      lão. Quí vị kêu bà đem trà, bà bảo: "Quí thầy trình thần thông rồi sẽ uống 
      trà." Quí vị đưa mắt nhìn nhau. Bà bảo: "Quí thầy xem già này trình thần 
      thông đây." Bà liền tay cầm bình trà, tay bưng chung trà, nghiêng rót vào 
      chung để xuống.  
      
      
      Quả là thần thông trong hành động, đừng nghĩ thăng thiên độn thổ mới là 
      thần thông. Bởi bất cứ một tác động nào lưu xuất từ bản thể đều là diệu 
      dụng. Khổ nỗi, người tu hiện giờ chỉ trọng thần thông diệu dụng mà quên 
      bản thể. Vì thế nên dễ lạc vào đường tà, chính quỷ thần vẫn được ngũ 
      thông, làm sao giản trạch được đâu tà đâu chánh. Chỉ một bề trở về tánh 
      giác là muôn đời không lầm.  
      
      
      Tóm lại, hiệu dụng của người tu Thiền tông là nhận ra tánh giác của chính 
      mình, tánh giác này không sanh diệt, không tướng mạo mà hằng giác. Bởi 
      hằng giác nên chẳng phải không, không tướng mạo nên chẳng phải có. Sống 
      được với tánh giác là thoát ly sanh tử, tuổi thọ của tánh giác đồng với hư 
      không. Cho nên trong kinh nói tuổi thọ của Phật không biết bao nhiêu tính 
      kể. Đạt được tuổi thọ vô lượng vô biên ấy, còn gì hạnh phúc bằng, còn gì 
      quí báu bằng. Sống với cái vĩnh cửu chẳng sanh chẳng diệt này mới thật là 
      đến chỗ chân thật tuyệt đối. Còn cái gì ở thế gian có thể so sánh với tánh 
      giác. Tánh giác này mới thật là ta (chân ngã), tánh giác không bao giờ mất 
      (chân thường), tánh giác là chân thật hạnh phúc (chân lạc), tánh giác 
      không có gì nhiễm ô được (chân tịnh). Sống đến chỗ chân ngã, chân thường, 
      chân lạc, chân tịnh này mới là điểm cứu kính Thiền tông.  
      
      
      Trong khi trở về cái chân thật thì mọi cái giả dối giảm thiểu khả năng lôi 
      cuốn chúng ta. Từ từ ta làm chủ lại chúng, ta điều khiển chúng theo chỗ 
      muốn của chúng ta. Mọi khổ đau buồn thảm tự suy thối, không còn là điều 
      quan trọng đối với chúng ta nữa. Với cái thân giả tạm, cái vọng tưởng hư 
      ảo, sắc trần không hoa này, còn sức mạnh gì trói buộc chúng ta được. Bởi 
      thấy được ông chủ thật của mình, mọi khách trần đều là trò đùa nên Thiền 
      sư tự tại khi ra đi. 
      
      *  |