YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
(tt)
V. THIỀN TÔNG VỚI CÁC
KINH ĐẠI THỪA. (tt)
D. KINH PHÁP HOA
1. Liên hệ Thiền sử:
Vị tăng Pháp Đạt ở Hồng Châu thường tụng
kinh Pháp Hoa, đến lễ Lục tổ Huệ Năng mà đầu không sát đất. Tổ quở: "Lễ mà
đầu không sát đất, chi bằng đừng lễ. Trong tâm ông ắt có một vật, chất
chứa việc gì?" Pháp Đạt thưa: "Đã tụng được ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa." Tổ
bảo: Ông nếu tụng đến muôn bộ, đạt được ý kinh mà chẳng lấy làm hơn thì
cùng ta sánh vai. Nay ông mang sự nghiệp này trọn chẳng biết lỗi, nghe ta
nói kệ đây:
Lễ bổn chiết mạn tràng
Đầu hề bất chí địa
Hữu ngã tội tức sanh
Vong công phước vô tỷ.
Lễ vốn chặt cờ mạn
Sao đầu không sát đất
Có ngã tội liền sanh
Quên công phước khôn sánh.
… Tổ bảo tiếp: "Nếu ông chỉ nhọc nhằn chấp
tụng làm công khóa, nào khác con trâu Lê nó yêu cái đuôi!" Pháp Đạt thưa:
"Nếu vậy chỉ cần hiểu nghĩa, không nhọc gì phải tụng kinh chăng?" Tổ bảo:
"Kinh có lỗi gì, đâu có ngăn ông tụng." Chỉ vì mê ngộ tại người, tổn giảm
hay lợi ích do mình, miệng tụng tâm hành tức là chuyển kinh, miệng tụng
tâm chẳng hành tức là bị kinh chuyển. Nghe ta nói kệ:
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng kinh cửu bất minh
Dữ nghĩa tác thù gia
Vô niệm, niệm tức chánh
Hữu niệm, niệm thành tà
Hữu vô câu bất kế
Trường ngự bạch ngưu xa.
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa
Tụng kinh lâu chẳng rõ
Cùng nghĩa thành thù nhà
Không niệm,niệm tức chánh
Có niệm, niệm thành tà
Có không đều chẳng chấp
Hằng ngồi bạch ngưu xa.
Pháp Đạt nghe kệ bỗng dưng rơi nước mắt,
ngay câu nói đại ngộ, bạch Tổ: "Con từ trước đến nay thật chưa từng chuyển
Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển…" Pháp Đạt nhờ chỉ dạy, vui mừng hớn hở,
dùng kệ tán thán:
Kinh tụng tam thiên bộ
Tào Khê nhất cú vong
Vị minh xuất thế chỉ
Ninh yết lụy sanh cuồng
Dương lộc ngưu quyền thiết
Sơ trung hậu thiện dương
Thùy tri hỏa trạch nội
Nguyên thị pháp trung vương.
Tụng kinh ba ngàn bộ
Tào Khê mộ? câu quên
Chưa rõ chỉ xuất thế
Đâu hết nhiều đời cuồng
Dê, nai, trâu quyền lập
Bày đầu, giữa, sau lành
Ai biết trong nhà lửa
Nguyên là vua chánh pháp.
Thiền sư Tỉnh Niệm thường tụng kinh Pháp
Hoa nên thời nhân gọi là Niệm Pháp Hoa. Sư đến tham vấn Thiền sư Phong
Huyệt, một hôm đứng hầu, Phong Huyệt rơi nước mắt, nói với Sư: "Bất hạnh!
Đạo Lâm Tế đến ta sắp chìm lặng vậy." Sư thưa: "Xem cả chúng này đâu không
có người kế thừa Hòa thượng?" Phong Huyệt bảo: "Người thông minh thì
nhiều, kẻ thấy tánh rất ít." Sư thưa: "Như con, Hòa thượng xem thế nào?"
Phong Huyệt bảo: "Ta tuy hy vọng ở ngươi đã lâu, vẫn ngại đắm mến kinh này
không thể buông xả." Sư thưa: "Việc này có thể làm được, mong nghe yếu
chỉ."
Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại trong
hội Linh Sơn, Thế Tôn dùng con mắt như hoa sen xanh nhìn xem đại chúng.
Phong Huyệt hỏi: "Chính khi ấy hãy bảo nói cái gì? Nếu bảo chẳng nói mà
nói, là chôn vùi Thánh trước. Hãy bảo nói cái gì?" Sư đứng dậy phủi áo ra
đi. Phong Huyệt ném cây gậy trở về phương trượng. Thị giả chạy theo sau
thưa: "Niệm Pháp Hoa vì sao chẳng đáp lời Hòa thượng?" Phong Huyệt nói:
"Niệm Pháp Hoa đã hội."
2. Chủ đích:
Phật nói kinh Pháp Hoa cốt chỉ bày cho tất
cả chúng sanh cái tri kiến Phật sẵn có của mình để họ ngộ nhập. Chính đó
là một đại sự của tất cả chư Phật ra đời, không riêng gì một đức Phật
Thích-ca. Tri kiến Phật tức là cái thấy biết Phật. Thấy biết theo vọng
tưởng là thấy biết phàm phu. Thấy biết thuần tịnh bất động là thấy biết
Phật. Cho nên trong phẩm Phương tiện có đoạn Phật nói: "Pháp đó không phải
suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được. Vì
cớ sao? Vì chư Phật Thế Tôn chỉ do một đại sự nhân duyên mà hiện ra đời".
Tri kiến Phật là thấy biết không thuộc về cái ngã của thân, không thuộc về
cái ngã của tâm (vọng tưởng), lại là thể của cả thân tâm. Người tu thiền
nhận ra được thể ấy gọi là mở con mắt thứ ba. Con mắt này chẳng những làm
thể của thân tâm mà còn bao trùm cả mười phương thế giới. Vì thế trong
phẩm Tự, văn kinh có đoạn: "Bấy giờ đức Phật từ tướng lông trắng giữa
chặng mày phóng luồng hào quang chiếu khắp một muôn tám nghìn cõi phương
đông, dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên thấu trời Sắc Cứu Cánh…" Lông
trắng giữa chặng mày là biểu trưng con mắt thứ ba hay là tánh giác. Tánh
giác này phát xuất khi nào thân an tâm định. Như trong phẩm Tự, văn đoạn
trên: "Nói kinh này (Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm)
xong, Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm Phật
đều không lay động". Đây là hình ảnh chỉ Tri kiến Phật và vào Tri kiến
Phật. Tri kiến là lối nói tắt, nói đủ là kiến văn giác tri Phật. Bởi sáu
căn đều là nơi biểu lộ của tánh giác, kiến là mắt, văn là tai, giác gồm
mũi, lưỡi và thân, tri là tâm hay thể của ý. Sáu cái đó hằng phát ánh sáng
của tánh giác. Người muố? trở về tánh giác, nếu không nương sáu căn làm
sao biết lối trở về. Vì thế nói tri kiến Phật là gồm cả sáu căn hiển lộ
tánh giác của mình. Tánh giác này cũng gọi là Phật Huệ hay Phật Thừa. Đó
là chỗ cứu kính của Phật giác ngộ, cũng là chỗ cứu kính của Ngài dạy lại
chúng sanh. Nếu Phật không dạy được chỗ này là Ngài còn xan lẫn. Đây quả
thật là chủ yếu của kinh này vậy.
3. Đối chứng chi tiết:
Kinh này tên là Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu
Pháp là tri kiến Phật, Liên Hoa là hoa sen. Tri kiến Phật đầy đủ muôn dụng
nên gọi là Diệu, tri kiến Phật vượt ngoài tầm suy tư hiểu biết của chúng
sanh, gọi là Diệu. Tri kiến Phật gá nơi thân ô uế bất tịnh mà không nhiễm
nhơ, dụ Hoa Sen. Tri kiến Phật ở trong thân vô thường mà không bị vô
thường, dụ hoa sen ở trong lò lửa. Thiền sư Lương Giới, thủy tổ tông Tào
Động, giải thích ngũ vị, đến vị thứ tư Thiên Trung Chí có bài kệ:
Lưỡng nhẫn giao phong bất tu
tị
Hảo thủ du như hỏa lí liên
Uyển nhiên tự hữu xung thiên
chí.
Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như sen lò hồng
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên
chí.
Thiền sư Ngộ Ấn ở Việt Nam, khi sắp tịch
cũng nói kệ:
Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc
thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị
càn.
Diệu tánh rỗng không chẳng thể
vin
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi
cháy
Lò lửa hoa sen nở thật xinh.
Hoa sen mọc trong lò lửa vẫn xinh tươi là
một hình ảnh bất tư nghì của kinh Pháp Hoa. Ngay nơi thân đang bị ngọn lửa
vô thường thiêu đốt, vẫn có tri kiến Phật an nhiên tự tại, bất sanh bất
diệt, chẳng phải hoa sen tươi thắm trong lò lửa là gì? Trên ngọn núi năm
uẩn bị lửa vô thường thiêu đốt, hòn ngọc tri kiến Phật sắc vẫn óng ánh
tươi nhuần. Quả thật là điều quá sức tưởng tượng của phàm phu. Vì thế, đợi
tôn giả Xá-lợi-phất ba phen thỉnh cầu Phật mới nói.
Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, chư Bồ-tát tha
phương đảnh lễ Phật, bạch: "Thế Tôn! Nếu bằng lòng cho chúng con sau khi
Phật diệt độ ở cõi Ta-bà siêng tu tinh tấn, thọ trì đọc tụng, biên chép
cúng dường kinh này, chúng con sẽ ở trong cõi đây rộng nói". Phật bảo:
"Thiện nam tử! Thôi đi! Chẳng cần các ông hộ trì kinh này…" Sau đó cõi
Ta-bà đất nứt, Bồ-tát vọt lên… là những vị hộ trì kinh.
Đoạn kinh trên rất phù hợp câu chuyện sau
đây trong nhà thiền. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn cùng Nham Đầu Toàn
Khoát đi đến Ngao Sơn gặp trở tuyết, dừng lại nghỉ. Một hôm, hai huynh đệ
thảo luận. Tuyết Phong nói: "Tôi thật còn chưa ổn." Nham Đầu bảo: "Nếu ông
thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng
minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp." Tuyết Phong nói:
"Khi tôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được
chỗ vào." Nham Đầu bảo: "Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến."
Tuyết Phong nói: Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông: ‘Thiết kỵ tùng tha
mích, điều điều dữ ngã sơ, cừ kim chánh thị ngã, ngã kim bất thị cừ.’ (Rất
kỵ tìm nơi khác, xa xôi bỏ lảng ta, va nay chính là ta, ta nay chẳng phải
va.) Nham Đầu bảo: "Nếu thế ấy, tự cứu cũng chưa tột." Tuyết Phong nói:
"Sau tôi hỏi Đức Sơn: ‘Việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng?’
Đức Sơn đánh một gậy hỏi: ‘Nói cái gì?’ Tôi khi đó giống như thùng lủng
đáy." Nham Đầu nạt: "Ông chẳng nghe nói: từ cửa vào chẳng phải của báu
trong nhà?" Tuyết Phong hỏi: "Về sau làm thế nào mới phải?" Nham Đầu bảo:
"Về sau muốn xiển dương Đại giáo, mỗi mỗi tự trong hông ngực mình lưu
xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi!" Tuyết Phong nhân câu này đại
ngộ, liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn: "Sư huynh! Sư huynh! Ngày nay mới
thành đạo ở Ngao Sơn."
Nhà Phật nói người tu cần phải có hai thứ
trí, trí hữu sư và trí vô sư. Trí hữu sư nhờ tham vấn học hỏi nơi kinh
điển và thiện tri thức, trí ấy dẫn đường chúng ta vào cửa đạo. Song muốn
chống với sanh tử phải nhờ trí vô sư. Trí này tự nơi mình phát ra, mới
thật là của báu trong nhà. Bởi vì trí do học được còn suy nghĩ phán xét,
chưa phải là trí chân thật từ tánh giác lưu xuất. Chư Bồ-tát ở tha phương
để biểu trưng trí hữu sư, trí này chưa đủ để duy trì kinh Pháp Hoa. Bởi lẽ
tri kiến Phật là tánh giác bất sanh bất diệt, dùng trí sanh diệt làm sao
phù hợp. Cho nên phải những vị Bồ-tát từ lòng đất vọt lên mới kham duy trì
kinh Pháp Hoa. Lòng đất là chỉ thân tứ đại, Bồ-tát là tánh giác, tánh giác
ngay nơi thân này phát ra mới tương ưng với tri kiến Phật.
Thiền sư Trí Thường Qui Tông, có vị tăng
hỏi: "Thế nào là sức Diệu Trí Quan Âm?" Sư gõ cái đỉnh ba tiếng, hỏi:
"Ngươi nghe chăng?" Tăng thưa: "Nghe." Sư bảo: "Sao ta chẳng nghe?" Tăng
không đáp được. Sư cầm gậy đuổi ra. Khi khác Sư thượng đường bảo: "Nay tôi
muốn nói thiền, tất cả các ngươi lại gần đây." Đại chúng tiến đến gần. Sư
bảo: "Các ngươi nghe hạnh Quan Âm khéo hiện các nơi chốn." Tăng hỏi: "Thế
nào là hạnh Quan Âm?" Sư khảy móng tay, hỏi: "Các ngươi có nghe chăng?"
Tăng thưa: "Nghe." Sư bảo: "Một bọn hướng trong ấy tìm cái gì?" Sư cầm gậy
đuổi ra rồi cười lớn vào phương trượng. Trong phẩm Phổ Môn có những câu:
"Quan Âm diệu trí lực" và "Nhữ thính Quan Âm hạnh, thiện ứng chư phương
sở…" Quan Âm là "phản văn văn tự tánh", cho nên hỏi đến diệu trí của Quan
Âm Sư gõ cái đỉnh ba tiếng, hỏi đến hạnh Quan Âm, Sư khảy móng tay ba
tiếng. Thế là Thiền sư thấy đức Quan Âm là tánh nghe, trở về tánh nghe thì
mọi sự an lành, diệu lực không thể lường được. Chỉ có trở về tánh nghe thì
thế gian mới hết khổ.
Tướng công Vu Địch đến Thiền sư Đạo Thông
hỏi: "Thế nào là hắc phong xuy kỳ thuyền phưởng phiêu đọa la-sát quỉ
quốc?" Đạo Thông đáp: "Kẻ khách Vu Địch hỏi việc ấy làm gì?" Vu Địch đỏ
mặt. Sư chỉ nói: "Cái đó chính là phiêu đọa La-sát quỉ quốc." Vu Địch lại
hỏi: "Thế nào là Phật?" Sư gọi: "Tướng công!" Tướng công: "Dạ." Sư bảo:
"Lại chớ tìm cái gì khác."
Chúng sanh do tham mà không toại nguyện
nên nổi sân. Nổi sân là động cơ chuốc họa. Trong kinh nói: chúng sanh vì
cầu kim ngân lưu ly… giả sử gặp gió đen thổi, ghe thuyền trôi giạt vào cõi
nước La-sát…, trong ấy có người niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì mọi
người đều khỏi nạn La-sát… Tìm kim ngân lưu ly là tham, gió đen thổi ghe
thuyền trôi giạt là sân, cõi nước La-sát là nguy hiểm họa hại, niệm danh
hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phản văn tự tánh thì họa hại tiêu vong. Vì thế
Vu Địch vừa đỏ mặt, Sư chỉ đó là "phiêu đọa La-sát quỉ quốc". Khi lửa sân
nổi lên, liền nhớ lại tánh nghe hay tánh giác của mình, tức thì tỉnh giác
nên không tạo nghiệp, không tạo nghiệp thì làm gì có họa hại.
4. Toát yếu toàn bộ:
Toàn bộ kinh Pháp Hoa có bảy quyển, hai
mươi tám phẩm. Để thấy ý toàn bộ, chúng ta nên lược qua từng phẩm:
4.1- Phẩm Tự: Phẩm này chỉ chủ yếu của
toàn bộ. Hình ảnh Phật phóng quang từ lông trắng giữa chặng mày, ánh sáng
soi khắp phương đông, thông trên suốt dưới, theo ánh sáng hội chúng thấy
chúng sanh trong lục đạo, tạo nghiệp thọ báo và thấy chư Phật tu nhân
chứng quả giáo hóa chúng sanh… Đây là biểu trưng tánh giác (tri kiến Phật)
rỗng suốt, không kẹt hai bên, biết rõ nguyên nhân luân hồi sanh tử và
nguyên nhân giải thoát sanh tử. Tánh giác rời ngôn ngữ và tâm thức suy tư,
cho nên Phật chỉ hiện tướng mà không nói một lời. Chỉ căn bản trí mới thấu
suốt được tánh giác, vọng thức thì không sao hiểu nổi. Vì thế, đức Di-lặc
(thức) khởi nghi hỏi Bồ-tát Văn Thù (trí).
4.2- Phẩm Phương Tiện: Từ chỗ vô ngôn đến
đây phải dùng ngôn thuyết, ấy là phương tiện. Lại nữa, Phật dùng mọi
phuơng tiện dẫn dắt chúng sanh, cứu kính đều đưa đến ngộ nhập tri kiến
Phật (tánh giác). Đây là mục đích chung của chư Phật. Dù trước có nói các
pháp khác song cũng là phương tiện đưa đến cứu kính này. Tuy nhiên tri
kiến Phật rất khó tin hiểu, nên phải thiết tha cầu thỉnh hai ba phen Phật
mới nói.
4.3- Phẩm Thí Dụ: Sau khi Phật phương tiện
dùng ngôn ngữ trình bày, người căn cơ lanh lợi bậc thượng liền nhận ra tri
kiến Phật của chính mình. Đây là chỗ đốn ngộ của Xá-lợi-phất, Tôn giả vui
mừng hớn hở được điều chưa từng có trình lên Phật. Phật liền ấn chứng (thọ
ký) cho Ngài sau này sẽ thành Phật. Tuy vậy những căn cơ kém bén nhậy còn
chưa nhận ra, Phật phải dùng thí dụ nhà lửa và ba xe, cuối cùng chỉ cho
một xe "bạch ngưu".
4.4- Phẩm Tín Giải: Đây là trình bày kiến
giải của mình để Phật ấn chứng. Những vị Thanh văn kỳ cựu đến đây mới nhận
rõ tri kiến Phật của mình, vui mừng vô hạn, như chàng cùng tử được cha
trao cả sự nghiệp, điều mà trước kia chưa bao giờ dám nghĩ đến. Các Ngài
dùng thí dụ này trình kiến giải lên Phật.
4.5- Phẩm Dược Thảo Dụ: Lẽ ra, sau khi
trình kiến giải của mình liền được Phật thọ ký ngay, song cần phải khích
lệ những căn cơ bậc trung, cố gắng nhận ra tri kiến Phật, nên Phật ví dụ
đám mưa mọi cây cỏ đều được thấm nhuần. Các căn cơ có khác, nhưng đều được
lợi ích trong một trận pháp vũ này.
4.6- Phẩm Thọ Ký: Thọ ký là tên khác của
ấn chứng trong nhà thiền. Khi các vị Ma-ha Ca-diếp v.v… trình bày chỗ sở
ngộ rồi, Phật liền thọ ký (ấn chứng) cho mỗi vị tương lai sẽ thành Phật.
Đây mới đốn ngộ Phật thừa, còn phải tiệm tu Bồ-tát hạnh, sau mới chứng
thành Phật quả.
4.7- Phẩm Hóa Thành Dụ: Giải thích một lần
nữa về phương tiện của đức Phật, để những vị căn cơ bậc trung thấy rõ tri
kiến Phật của mình. Dùng thí dụ Hóa thành và Bảo sở để sách tiến các Ngài
vượt lên, đừng đắm luyến trong quả vị Thanh văn.
4.8- Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký: Giờ đây
hàng căn cơ bậc trung đã thấy rõ tri kiến Phật của mình. Đại diện năm trăm
vị, ngài Mãn Từ Tử trình bày sở ngộ, theo đó Phật thọ ký năm trăm vị tương
lai đều thành Phật.
4.9- Phẩm Thọ Học Vô Học Nhân Ký: Đến đây
hàng hữu học và vô học mới nhận ra tri kiến Phật của mình, tự nhận mình có
phần trong Phật thừa, mong được Phật thọ ký. Phật thọ ký các Ngài trong
tương lai đều sẽ thành Phật.
4.10- Phẩm Pháp Sư: Còn một số căn cơ hạ
liệt, chưa dám nhận tri kiến Phật của mình. Phật muốn thúc đẩy họ tiến
lên, cần khuyến khích họ thọ trì cúng dường tùy hỷ giáo hóa thì tương lai
đều thành Phật.
4.11- Phẩm Hiện Bảo Tháp: Tháp bảy báu
hiện giữa hư không trang nghiêm đẹp đẽ, trong có toàn thân Phật Đa Bảo.
Phật Đa Bảo tượng trưng cho Pháp thân, tháp bảy báu tượng trưng cho thất
đại. Đến đây, Phật chỉ rõ ngay trong thân thất đại này đã hàm chứa Pháp
thân hay Tri Kiến Phật. Song làm sao thấy được Pháp thân, cần phải thu
nhiếp vọng tưởng lại mới thấy. Cho nên trong kinh nói: "Phật Đa Bảo có
nguyện sâu: Nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra trước
các đức Phật, vị Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, Phật đó
phải nhóm họp tất cả Phật của mình phân thân ra thuyết pháp ở mười phương
về một chỗ, sau thân ta mới hiện". Phật phân thân chỉ cho ý thức phân tán
chạy theo sáu trần, chúng tụ họp về một chỗ là an định, Pháp thân sẽ hiện
tiền. Đây là chỉ rõ cho đại chúng biết Tri Kiến Phật đã nằm sẵn trong lầu
ngũ uẩn hay trong tháp thất đại.
4.12- Phẩm Đề-bà-đạt-đa: Đã chỉ rõ tri
kiến Phật ở trong lầu năm uẩn hay thất đại, mà người căn cơ hạ liệt vẫn
chưa tin chưa hiểu. Một lần nữa Phật lại chỉ cặn kẽ, dù tạo tội ngũ nghịch
như Đề-bà-đạt-đa, ty tiện như thân Long Nữ vẫn có Tri kiến Phật, gặp duyên
hóa độ liền ngộ đạo, đều sẽ thành Phật không nghi.
4.13- Phẩm Trì: Đến đây tất cả vị Tỳ-kheo
ni đều buông xả tâm hạ liệt, đinh ninh rằng người nữ tu hành không thể
thành Phật, quí vị tự nhận mình có phần thành Phật, vì mình đồng có Tri
kiến Phật như tất cả những vị đã ngộ, được Phật thọ ký. Do đó, Phật tuần
tự thọ ký riêng và chung cho ni chúng.
4.14- Phẩm An Lạc Hạnh: Trên đã xong phần
mọi căn cơ đều đốn ngộ, đến đây là phần tiệm tu Bồ-tát hạnh. Hay nói cách
khác, ở trên đã ngộ Tri kiến Phật, từ đây về sau là nhập Tri kiến Phật.
Nói theo Thiền thì ở trên đã kiến tánh, từ đây về sau khởi tu. Kinh nói:
"Ở trong đời ác sau, hộ trì đọc tụng giảng nói kinh Pháp Hoa", có nghĩa là
sống và bảo vệ Tri kiến Phật của mình. Muốn bảo vệ Tri kiến Phật trước
phải gìn giữ giới luật, tức là an trụ bốn pháp vậy.
4.15- Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất: Do công phu
tu trì, bảo vệ Tri kiến Phật, tự trong thân phát trí vô sư. Trí này từ
thân tứ đại xuất phát, nên nói Bồ-tát từ dưới đất vọt lên. Trí vô sư do
công phu tu hành mà được, nên có khả năng chống lại sanh tử; nó từ chân
tánh lưu xuất không sanh không diệt, nên tương ưng với Tri kiến Phật. Vì
thế Phật không chấp nhận Bồ-tát ở tha phương duy trì truyền bá kinh Pháp
Hoa ở cõi này, chỉ dành cho chư Bồ-tát từ đất vọt lên duy trì. Bồ-tát tha
phương biểu trưng trí hữu sư. Trí này do học tập được, còn phân biệt giản
trạch, thuộc về trí sanh diệt, không đủ khả năng bảo vệ Tri kiến Phật.
4.16- Phẩm Như Lai Thọ Lượng: Đã có trí vô
sư phát sanh mới nhận rõ Pháp thân (Tri kiến Phật) bất sanh bất diệt,
thường hằng chẳng đổi. Tuổi thọ của Pháp thân đồng tuổi thọ của hư không,
vì Pháp thân không tướng làm gì bị vô thường và tan hoại. Như Lai ở đây là
Tri kiến Phật hay Pháp thân, thường nằm sẵn trong thân năm uẩn của chúng
ta, song không mấy ai nhận ra, chỉ khi nào trí vô sư phát sanh mới thể
hiện được Pháp thân. Vì thế nên nói rất khó tin khó hiểu, người tin hiểu
được thì công đức vô lượng.
4.17- Phẩm Phân Biệt Công Đức: Pháp thân
chân thật bất biến; người tin nhận được Pháp thân là đã biết lối trở về
chân tánh. Mọi công đức của thế gian đều là công đức tương đối sanh diệt,
nên hữu hạn hữu lượng. Người nhận ra Pháp thân chân thật là vô sanh, nên
công đức vô hạn vô lượng. Vì thế nếu đem so sánh thì không công đức nào
của thế gian có thể sánh kịp.
4.18- Phẩm Tùy Hỷ Công Đức: Công đức của
người nhận ra Pháp thân đã cao tột như vậy, người phát tâm tùy hỷ công đức
này ắt cũng vô ngần. Phát tâm tùy hỷ tức đã có phần nhận hiểu, khuyến
khích kẻ khác tức đã tự hâm mộ, cho nên người tùy hỷ kinh này, khuyến
khích kẻ khác nghe kinh… đều là công đức vô biên.
4.19- Phẩm Pháp Sư Công Đức: Công đức Pháp
Sư hay công đức của người sống với Tri kiến Phật, y cứ nơi sáu căn phát
hiện. Sáu căn là chỗ phát sáng của hòn ngọc tánh giác, không nương sáu căn
làm sao thấy được hòn ngọc. Hằng sống trở lại tánh thấy tánh nghe của mình
là cửa vào tánh giác, con đường vào cửa Niết-bàn. Khi sáu căn thuần tịnh
thì tự nó trở thành lục thông, khỏi cần tập luyện mới có thần thông.
4.20- Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát: Người
sống với Tri kiến Phật và truyền bá cho mọi người phải kiên trì nhẫn nhục,
vì làm một điều khó làm, dạy một điều khó dạy. Biết mọi người đều có Tri
kiến Phật, người ngộ trước nào dám khinh người ngộ sau, người đã ngộ cố
chỉ cho người sẽ ngộ. Đây là việc làm của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Ngài
trì kinh Pháp Hoa và truyền bá kinh Pháp Hoa bằng cách gặp ai cũng bái xá
nói rằng: "Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật". Tu
nhân như thế, Ngài kết quả thành Phật, gieo nhân như thế, kết quả mọi
người được dự hội Pháp Hoa. Thế là trì kinh bằng cách chính mình sống với
Tri kiến Phật của mình, truyền bá là gieo cho mọi người đủ niềm tin mình
có Tri kiến Phật.
4.21- Phẩm Như Lai Thần Lực: Đã biết sống
trở về Pháp thân, khi được thuần thục thì diệu dụng bất khả tư nghì. Tất
cả diệu dụng ấy đều từ chỗ Vô Tác Diệu Trí phát sanh, không phải sự dụng
công cố gắng nào cả. Diệu dụng do công phu tu hành trở về tánh giác là một
lẽ thật không còn nghi ngờ gì nữa. Cho nên ở đây Phật bày tướng lưỡi rộng
dài, tất cả lỗ chân lông đều phóng quang…
4.22- Phẩm Chúc Lụy: Tri kiến Phật là tuệ
mạng của chúng sanh, là trí tuệ của chư Phật, con đường cầu giác ngộ không
còn lối nào khác hơn. Thế nên truyền bá cho mọi người nhận ra Tri kiến
Phật là trách nhiệm tối thượng của người ngộ trước. Ngọn đèn trí tuệ duy
nhất để phá đêm tối vô minh của thế gian là Tri kiến Phật. Vì vậy đức Phật
chúc lụy truyền bá kinh Pháp Hoa.
4.23- Phẩm Dược Vương Bồ-tát Bổn Sự: Trên
con đường tu hành muốn đến Phật quả phải dẹp sạch chấp năm ấm, gọi là ngũ
ấm ma. Vì năm ấm che đậy khiến Phật tánh không hiển lộ. Phẩm này là phá
sắc ấm. Thân tứ đại là sắc ấm, Bồ-tát khi được "chánh định hiện tất cả sắc
thân" rồi, liền thiêu thân cúng dường Phật, tức là phá sắc ấm. Pháp thân
là thể của Báo thân và Hóa thân, được "chánh định hiện tất cả sắc thân",
tức là nhập Pháp thân. Khi Bồ-tát thâm nhập Pháp thân thì xem sắc thân như
bóng như bọt, không còn cố chấp làm ngã. Xả chấp sắc thân hướng về Pháp
thân nên nói thiêu thân cúng dường Phật. Xả sắc thân rồi cần phải xả sáu
trần mới viên mãn phá sắc ấm, cho nên Bồ-tát sau lại đốt luôn hai cánh tay
cúng dường Phật. Chấp ngã chấp pháp đã dẹp sạch đó là chân thật cúng dường
Như Lai.
4.24- Phẩm Diệu Âm Bồ-tát: Phá sắc ấm rồi
đến đây phá luôn thọ ấm. Thọ ấm không hình tướng nên Bồ-tát Diệu Âm đến,
mà chúng không thấy, phải đợi Phật Đa Bảo dạy Ngài hiện, chúng mới thấy.
Bởi có nhận được Pháp thân mới thấy thọ ấm là hư giả, thấy rồi mới phá dẹp
được chúng. Bồ-tát Diệu Âm từ xa lại để nói lên sáu trần từ ngoài đến mới
có lãnh thọ. Xả mọi lãnh thọ, không cố chấp, là phá được thọ ấm. Nhân tu
của Bồ-tát Diệu Âm do dùng âm nhạc và bát vàng cúng Phật, nên được quả báo
tốt đẹp và nhiều diệu dụng. Cúng dường là tên khác của bố thí, tức là
buông xả, cúng dường âm nhạc là buông xả âm thanh, cúng dường bát vàng là
buông xả sắc tướng. Âm thanh và sắc tướng là hai thứ nổi bật trong sáu
trần, nói hai thứ đủ đại biểu cho sáu trần.
4.25- Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn:
Phẩm này phá trừ tưởng ấm. Tưởng là nhân đau khổ của tất cả chúng sanh.
Bởi vì có tưởng là có đau khổ. Một viên đạn, một nhát dao bén phạm vào
người một cách quá nhanh, không kịp tưởng tượng, chúng ta không nghe sợ,
cũng không nghe đau. Sau đó, tưởng tượng lại, chúng ta mới kinh sợ. Thế
nên mọi khổ ải trên thế gian này bởi tưởng mà có. Muốn hết khổ không gì
hơn hết tưởng, tưởng hết mọi đau khổ đều sạch. Niệm danh hiệu Bồ-tát Quán
Thế Âm liền hết khổ. Quán Thế Âm là phản văn văn tự tánh. Trở lại tánh
giác thì mọi tưởng đều lặng, còn đau khổ nào mà chẳng khỏi. Sống được với
tánh giác, mọi công hạnh, mọi diệu dụng đều đầy đủ. Trong sáu căn, nhĩ căn
là viên thông hơn cả, người tu muốn trở về tánh giác nên từ nhĩ căn mà tu
thì chóng được kết quả. Nên kinh nói niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm,
công đức thù thắng hơn tất cả. Niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại
tánh giác chân thật của mình. Quán được thanh tịnh thì trí tuệ phát sanh,
lòng từ bi đầy đủ, hằng tu như vậy đến khi nào hoàn toàn thanh tịnh, mặt
trời trí tuệ liền phát sanh, soi sáng cả thế gian. Như đoạn văn trong bài
tụng:
Chân quán, thanh tịnh quán
Quảng đại trí tuệ quán
Bi quán cập từ quán
Thường nguyện thường chiêm
ngưỡng
Vô cấu thanh tịnh quang
Tuệ nhật phá chư ám
Năng phục tai phong hỏa
Phổ minh chiếu thế gian.
Quán chân, quán thanh tịnh
Quán trí tuệ rộng lớn
Quán từ và quán bi
Thường nguyện thường chiêm
ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay diệt nạn gió lửa
Soi sáng khắp thế gian.
Đây là lối tu trở về Tri kiến Phật, diệt
hết mọi vọng tưởng đau khổ.
4.26- Phẩm Đà-la-ni: Phẩm này phá hành ấm.
Hành ấm là lối suy tư thầm lặng bên trong, nó vừa tế nhị, vừa sâu kín cho
nên rất khó phá. Người phá được nó liền thấy quá tịch tịnh lầm tưởng là
Niết-bàn, bị lạc vào ngoại đạo, hoặc rơi vào trầm không trệ tịch của Thanh
văn. Tu nhân diệt hành ấm, hành giả phải buông sạch mọi xao xuyến thầm
lặng vi tế, nên tượng trưng bằng thần chú. Bởi vì khi đọc thần chú, chúng
ta nào có xét nghĩ hiểu biết gì. Kết quả diệt được hành ấm, cần phải được
chư Phật, chư Bồ-tát hoặc Thiện tri thức khuyến phát khích lệ mới vượt qua
được. Đó là hình ảnh chư Bồ-tát nói thần chú bảo hộ người trì kinh Pháp
Hoa.
4.27- Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự:
Phẩm này phá thức ấm. Đây là chặng cuối cùng trên đường tu, nếu người khéo
vượt qua thì viên mãn Phật quả. Vua Diệu Trang Nghiêm tượng trưng thức
A-lại-da (Tàng thức), phu nhân Tịnh Đức tượng trưng cho thức Mạt-na (Y Ù
căn), thái tử Tịnh Tạng tượng trưng cho ý thức, Tịnh Nhãn tượng trưng cho
năm thức trước. Chuyển thức A-lại-da thành Đại viên cảnh trí là nhờ ý thức
và năm thức trước đã được thuần thục thanh tịnh. Thức A-lại-da thứ tám này
là chủ mà không có khả năng quyết định, phải do thức thứ sáu và năm thức
trước hướng dẫn. Thức thứ bảy ở bên cạnh thức thứ tám mà không có công
dụng bao nhiêu. Phá thức ấm tức là chuyển A-lại-da trở thành Đại viên cảnh
trí, nó là chủ thể của các thức kia. Cho nên kinh nói: "Phật vì muốn dẫn
dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh
Pháp Hoa". Do ý thức và năm thức trước đã thuần thục thanh tịnh, mới
chuyển được thức thứ tám thành Đại viên cảnh trí. Đây là hình ảnh hai
người con Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn đã có thần thông, có trí tuệ tu tập tất cả
công đức… mới chuyển hóa nhà vua đến với Phật. Nhà vua chịu đến là có phu
nhân đến. Nguyên nhân tạo nghiệp luân hồi do thức thứ sáu và năm thức
trước, chuyển sanh tử thành Niết-bàn cũng nhân thức thứ sáu và năm thức
trước. Khi chuyển thức A-lại-da rồi thì tám thức trở thành tứ trí. Đến đây
công phu tu hành đã đầy đủ, chỉ còn phải lợi ích chúng sanh.
4.28- Phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát:
Phổ Hiền tượng trưng trí sai biệt. Người tu khi viên mãn công phu rồi, cần
phải phát nguyện độ sanh, giáo hóa hộ trì cho mọi người được phát tâm
bồ-đề (trì kinh Pháp Hoa), khởi nguyện lực lớn, dùng Lục độ làm phương
tiện giáo hóa chúng sanh. Đó chính là hình ảnh Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi
trắng sáu ngà đến trước người trì kinh Pháp Hoa an ủi họ. Khi công hạnh tự
lợi lợi tha của họ hoàn toàn viên mãn, liền thành Phật.
Tóm lại, toàn bộ kinh Pháp Hoa cốt khai
thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri Kiến Phật. Phẩm đầu do Bồ-tát Văn Thù giải
nghi cho Bồ-tát Di Lặc về việc phóng quang của đức Phật. Đó là tượng trưng
trí căn bản đánh thức phát tâm bồ-đề. Phẩm cuối Bồ-tát Phổ Hiền phát
nguyện bảo hộ người trì kinh sau này. Đây là tượng trưng trí sai biệt làm
lợi ích chúng sanh. Câu then chốt trong kinh này: "Khai thị chúng sanh ngộ
nhập Phật Tri Kiến" có khác gì câu "Trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành
Phật" của Thiền tông. Phẩm Tín Giải và phẩm Thọ Ký của kinh này nào xa lạ
gì với việc "trình kiến giải" được "ấn chứng" của Thiền tông. Cho đến sự
tu hành thủy chung đều không khác. Chỉ vì chúng ta không nhận được lý
kinh, cứ chạy theo ngôn cú nên thấy dường như khác biệt.
* |