YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
(tt)
VI. THIỀN
TÔNG VỚI CÁC MÔN THIỀN KHÁC:
A. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
TIỂU THỪA.
Thiền Tiểu thừa có nhiều lối tu, đại để
đều căn cứ trên hình thức hiện có của thân căn, trần cảnh và tâm thức. Như
pháp Thiền "tùy bệnh đối trị", người nặng bệnh tham dục dùng "quán bất
tịnh" đối trị, người nặng bệnh sân hận dùng "quán từ bi" đối trị, người
nhiều ngu si dùng "quán nhân duyên" đối trị, người nhiều loạn tưởng dùng
"quán sổ tức" đối trị, người tham sân si đồng nhau dùng pháp "quán Phật
tam-muội" đối trị. Đó là y cứ tâm bệnh dùng pháp tu quán để đối trị. Hoặc
lối quán tứ đại, quán đất, quán nước, quán gió, quán lửa, từ một đốm nhỏ
cho đến trùm cả hư không. Hoặc lối quán màu sắc, màu xanh, màu vàng, màu
trắng, màu đỏ, cũng từ một điểm nhỏ cho đến đầy dẫy hư không. Hoặc trụ tâm
vào một điểm trên đầu cây hương hay một vòng tròn nhỏ trên vách cho đến nó
phát quang. Hoặc dùng chánh quán "Tứ niệm xứ", quán "Tứ đế", quán "Mười
hai nhân duyên"v.v… Đến kết quả được Tứ thiền, Bát định và tiến lên Tứ gia
hạnh, thành tựu Tứ quả Thanh văn. Bởi pháp Thiền này hạn cuộc trên hình
thức và tu chứng từng thứ bậc, nên khác hẳn với Thiền tông. Thiền tông chỉ
thẳng tâm người thấy Tánh thành Phật, không thuộc hình thức, cũng không
thứ bậc.
B. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
ĐẠI THỪA.
Thiền Đại thừa cũng có nhiều lối tu, cần
yếu từ tướng thẳng vào bản tánh. Tuy có những đề mục đồng với Tiểu thừa,
như Bồ-tát tu Ngũ pháp: Bồ-tát quán Phật tam-muội, Bồ-tát quán Bất tịnh
tam-muội, Bồ-tát quán Từ tam-muội, Bồ-tát quán Nhân duyên tam-muội, Bồ-tát
quán Lục diệu pháp môn. Song đối mỗi pháp này Bồ-tát quán từ tướng đi
thẳng vào tánh, tức là từ giả tướng tiến đến thật tướng. Hoặc thiền theo
tông Thiên Thai của ngài Trí Giả Đại sư, ứng dụng pháp Tam quán, quán
Không, quán Giả, quán Trung, y cứ bài kệ trong quyển Trung Quán Luận của
Bồ-tát Long Thọ. Bài kệ:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh vi giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa.
Nhân duyên sanh các pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa Trung Đạo.
Thấy các pháp do nhân duyên sanh, thể tánh
đều không tức là quán không. Thể tánh các pháp là không, song khi duyên
hợp giả có, tức là quán giả. Không giả đều buông, chỉ còn nhất tâm chân
như, tức là quán Trung đạo đệ nhất nghĩa. Bồ-tát tu nhân như thế, đến kết
quả sẽ chứng từng bậc từ Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng,
Thập địa đến Đẳng giác, Diệu giác là Phật. Thiền Đại thừa đã gần với Thiền
tông, song Thiền Đại thừa còn thấy có pháp để tu, thấy có quả để chứng,
nên còn khác biệt. Bởi vì Thiền tông không thấy có một pháp dạy người,
không thấy có một quả để chứng.
C. THIỀN TÔNG VỚI THIỀN
NGOẠI ĐẠO.
Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay
khinh rẻ, chúng ta nên định nghĩa chữ "ngoại đạo" cho rõ ràng. Nhà Phật
định nghĩa rất rõ: Ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người
xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại
đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài
đều gọi là ngoại đạo. Vì chủ trương nhà Phật, người tu phải "minh tâm kiến
tánh" mới thành Phật. Tâm tánh đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài
là trái tông chỉ nhà Phật, nên gọi là ngoại đạo. Chúng tôi liệt kê những
lối tu Thiền theo ngoại đạo đang hiện hành ở Việt Nam như: Thiền xuất hồn,
Thiền chuyển luân xa, Thiền chuyển tinh hóa khí chuyển khí hóa thần, Thiền
thai tức, Thiền điện thiêng liêng, Thiền Du-già…
Những lối tu Thiền này không ngoài hai
tiêu chuẩn: Mầu nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những
người hiếu kỳ. Sống lâu thuộc thân thể khỏe mạnh hấp dẫn những người thích
sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tu
để mở mang trí tuệ thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ
liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công
bảo vệ duy trì mấy, rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải
si mê là gì? Thiền tông thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể nó là
không, nhận ra chân tánh bất sanh bất diệt, nên trái hẳn các pháp thiền
ngoại đạo.
Tóm lại, Thiền Tiểu thừa, Thiền Đại thừa
tuy sâu cạn có khác, song đều một chủ đích mượn cảnh, mượn đề mục để định
tâm; tâm an định, trí tuệ phát sanh, đó là nhân định phát tuệ của đạo
Phật. Thiền tông đi thẳng từ cửa trí tuệ thấy vọng tưởng tánh không, nhận
ra chân tánh phi không "Tri hữu". Cho nên Thiền tông gọi là đi "Đường
chim". Đường chim rất khó đi, song một khi cất cánh, thẳng đến mục tiêu hạ
xuống, không có gì khác lạ. Thiền Tiểu thừa, Thiền Đại thừa cần dùng
phương tiện để tu, như đi đường bộ, đường thủy không nguy hiểm, song nhiều
khúc quanh, nhiều lối tẽ, khiến người tu có lúc phải ngơ ngác. Thiền ngoại
đạo tu chóng kết quả, có mầu nhiệm, song chỉ là cái dụng tạm thời, không
phải con đường giải thoát sanh tử. Trong nhà Thiền dạy: "Thà là ngàn năm
không ngộ, không để một phút sai lầm". Tại sao? Bởi vì tu theo thiền ngoại
đạo không gieo nhân giác ngộ, quả giác ngộ làm gì có? Lại nữa đã đi đường
tà thì sức mạnh ấy sẽ dẫn đi mãi mãi, biết bao giờ được hồi tâm tỉnh giác.
Vì thế người Phật tử phải thận trọng khi tu học theo một pháp thiền nào.
Dù người dạy có nói cao siêu mầu nhiệm mấy đi nữa, đối chiếu với kinh Phật
không hợp, nhất định người Phật tử không nên theo. Chính vì đa số Phật tử
hiện nay ham tu mộ đạo nên đã tu theo thiền ngoại đạo khá nhiều. Với lòng
chân thật của mình, chúng tôi mong quí Phật tử xét thật kỹ trong việc tu
hành hiện nay, đừng để sai lầm về sau hối hận đã muộn. Dù người ấy xuất
gia tu theo đạo Phật, thờ đức Phật mà dạy không đúng kinh điển Phật, xin
chớ vội tin.
* |