YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
(tt)
VII. THIỀN
TÔNG KHÔNG NẶNG HÌNH THỨC TÔN GIÁO.
A. NẾU LÀ TÔN GIÁO.
Thiền tông quả thật là một lối tu trở về
bản tâm của mỗi người. Bản tâm là thể hằng giác linh tri bất sanh bất
diệt, chính là chỗ cứu kính tối thượng của người tu Thiền đạt đến. Song
muốn đạt đến bản tâm mọi người cần phải dẹp những kiến chấp sai lầm về
tâm, thân và cảnh. Bởi chúng sanh muôn đời lầm lẫn chấp vọng tưởng làm
tâm, chấp thân tạm bợ làm thân thật, chấp ngoại cảnh giả dối làm cảnh
thật, nên mất bản tâm. Người tu Thiền cần trở về bản tâm, trước phải phá
những cái chấp sai lầm ấy, nhiên hậu mới thấy được bản tâm. Phá chấp sai
lầm do công dụng của trí Bát-nhã, nó là đội binh tiên phong công phá thành
trì vô minh. Sau khi phá được cửa cổng vô minh, tiến vào trong sẽ thấy ông
chủ nhân đang ngự trên ngôi đền năm uẩn. Thế nên, nếu là tôn giáo, Thiền
tông lấy tâm làm tôn, lấy trí tuệ làm giáo. Bởi tâm là đấng tối thượng của
thiền, trí tuệ là cửa giáo hóa chúng sanh.
Một tôn giáo mà không phải tôn giáo. Theo
nghĩa thông thường của tôn giáo, tức có một đấng tối thượng để cho người
tôn sùng là tôn, tuân theo lời chỉ dạy của đấng ấy hay vị đại diện cho
đấng ấy gọi là giáo. Thiền tông không phải thế, chính đức Phật Thích-ca,
người tu Thiền vẫn xem là bậc thầy dẫn đường, là người giác ngộ trước
chúng ta. Chúng ta không biết đường nên quí kính người dẫn đường, biết ân
người dẫn đường. Chúng ta chưa giác ngộ nên quí kính người đã giác ngộ,
học đòi theo để được giác ngộ. Giác ngộ là phá được vô minh, thấy được bản
tâm của chính mình mới là điều tối thượng. Điều đó đức Phật có công chỉ
dạy, đạt được hay không do công phu của mỗi người. Nếu người tu một bề
trông mong đức Phật cứu độ cho mình được thế này, thế nọ, đã sai lầm. Vì
thế Tổ Lâm Tế nói: "Các ông nếu hay bặt được tâm luôn luôn chạy tìm, liền
cùng Phật, Tổ chẳng khác. Các ông muốn được biết Phật, Tổ chăng? Chính
trước mặt các ông hiện nghe pháp ấy vậy. Học nhân tin chẳng đến, liền chạy
tìm ra ngoài. Dù có tìm được cũng chỉ là tướng thù thắng của văn tự, trọn
chẳng được ý Phật, Tổ sống. Chớ lầm!". Quả là Phật, Tổ không cứu được
mình, chính mình tự cứu. Chẳng những thế, Thiền sư cũng không muốn linh
thiêng, thần thánh hóa đức Phật, cần thấy đức Phật vẫn là một con người,
thân của Ngài rồi cũng hoại diệt, chính tánh giác mới là tối thượng. Thiền
sư Đức Sơn đã bộc lộ ý này. Sư nói: "Nhân giả! Nói tu hành như thế, các
ông đâu chẳng nghe lão Hồ (ông già Ấn Độ, chỉ Phật) trải ba vô số kiếp tu
hành mà nay còn đâu? Sau tám mươi năm chết mất, cùng các ông có khác gì?".
Qua những câu nói trên chúng ta thấy rõ Thiền sư không đặt đức Phật là bậc
tôn sùng tối thượng, chính tánh giác (bản tâm) của mỗi người mới đáng sùng
thượng hơn hết.
Do những nhận thức trên, Thiền tông đối
với hình thức tôn giáo thật là giản đơn bình dị, không rườm rà phức tạp
như các tông phái khác. Bản tâm và trí tuệ không phải do tín ngưỡng mà
được, phải quán chiếu tỉnh giác mới phát sanh. Càng nặng về hình thức nghi
lễ càng dễ mất mình, càng xa với tánh giác. Yên lặng tỉnh táo, phản chiếu
lại mình là yếu tố quan thiết của người tu thiền.
B. THIỀN TÔNG BAO DUNG CÁC
TÔN GIÁO.
Ngay bản chất đạo Phật, Thiền tông cũng
bao dung được các tông phái khác mà các tông phái khác khó bao dung Thiền
tông. Tại sao? Bởi vì Thiền tông thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là giác ngộ,
muốn giác ngộ trước phải dừng vọng tưởng. Thế thì người niệm Phật để dừng
vọng tưởng, người trì chú cũng để dừng vọng tưởng, tụng kinh, quán tưởng…
đều cùng về một mục đích ấy. Đã cùng về một mục đích, còn gì phải chống
trái nhau. Chẳng qua trên phương tiện có khác, cứu kính Phật dạy không
hai. Bản chất Thiền tông không nặng hình tướng, hình tướng nào cũng không
ngại Thiền tông. Các tông phái khác chẳng thế, bởi có hình tướng và quan
trọng hình tướng nên thấy ai làm khác mình thì không chịu. Vì thế phái này
không thể dung hội phái kia.
Đến các tôn giáo bạn, Thiền tông cũng
không thấy có trở ngại. Lối tu trở về tâm tánh mở mang trí tuệ, cứ trông
về mình, ít ngó ra ngoài, không so sánh đối đãi, còn gì thấy có chướng
ngại nhau. Hơn nữa tâm tánh trí tuệ là cái sẵn có nơi mọi người, dù người
theo tôn giáo nào, hai điều ấy vẫn không thiếu, đã có như nhau thì ai khác
hơn ai mà đố kỵ. Người này niệm Phật, người kia niệm Chúa, chúng ta đều
thấy là phương tiện của họ dừng vọng tâm. Một khi vọng tưởng dừng lại,
hoặc thấy Phật, hoặc thấy Chúa, đều từ bản tâm hiện ra, nên nói: "Tự tánh
Di Đà, duy tâm Tịnh độ". Có quan niệm cởi mở như thế, làm gì thấy trở ngại
giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Vì thế, đời Tống ở Trung Quốc dùng
Thiền tông dung hội cả Lão và Nho, gọi là tam giáo đồng nguyên. Đời Trần ở
Việt Nam cũng thế, hòa hợp Phật, Lão, Khổng thành một nhà. Bởi vì, trên
chỗ tột đỉnh các lối đi đều gặp nhau. Song phải là người đến đỉnh rồi, mới
nhận ra điều ấy.
C. NẾU LÀ KHOA HỌC.
Thiền tông tu bằng cách khai thác tâm
linh, tìm ra chân lý hiện thực của con người. Con người là đối tượng duy
nhất của Thiền tông nói riêng, của đạo Phật nói chung. Vạch trần sự thật
nơi con người, khai thác cái u ẩn thâm sâu nhất của con người, đem lại
hạnh phúc an lạc vĩnh cửu cho con người, thử hỏi còn khoa học nào vượt hơn
thế nữa? Đối tượng của khoa học hiện nay là vũ trụ, là vật chất, cốt chinh
phục thiên nhiên để cung phụng cho con người. Song vũ trụ là cái phụ, con
người mới chính yếu, tìm tột cùng cái phụ cũng chưa mang lại hạnh phúc
chân thật cho con người. Vì lẽ nguyên lý của vũ trụ là tương đối, trong ấy
luôn luôn đối đãi nhau, làm gì đạt được cái chân thật cứu kính miên viễn.
Với tinh thần tìm chân lý, đem lại hạnh phúc chân thật cho con người,
Thiền tông là một khoa học. Cho nên Thiền sư khi tu phải trải qua đôi ba
phen giác ngộ, khác nào những nhà khoa học phải có những lần phát minh.
Song tâm linh không hình tướng, vượt quá tầm khảo sát của khoa học. Thế
nên có thể nói Thiền là một môn "Khoa học tâm linh", khoa học mà siêu khoa
học.
* |