CHỈ ÔNG CHỦ
Hôm nay chúng
tôi giảng tiếp đề tài thứ ba "Chỉ Ông Chủ". Đây là đề
tài khó giảng nhất mà cũng khó lãnh hội nhất. Chúng tôi mong quí vị đem
hết tinh thần của mình chú ý lắng nghe thật kỹ, và chúng tôi cũng cố gắng
dùng mọi phương tiện trình bày, để may ra quí vị có thể lãnh hội được.
Được như vậy mới không phí công quí vị đến nghe và không phí công chúng
tôi giảng giải.
Chúng tôi xin nhắc lại, chúng ta hiện sống
ở đây, ai cũng thường nói "mình làm việc này, mình nghĩ chuyện kia, mình
tính việc nọ, hoặc tôi làm cái này, tôi nghĩ cái kia, tôi tính cái nọ
v.v…" Nhưng thử hỏi cái tôi hay cái mình là cái gì? Là thân tứ đại này
chăng? Thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, nó là vô tri. Nếu nói
tứ đại là mình thì thật là vô nghĩa. Cái hiểu biết, cái suy nghĩ là mình
chăng? Cái hiểu biết, cái suy nghĩ luôn luôn thay đổi từ trạng thái này
qua trạng thái khác, không dừng ở một chỗ. Khi tìm lại nó liền mất, không
còn hình ảnh, không còn tăm dạng. Thí dụ khi chúng ta nghĩ điều lành, nói
tôi nghĩ điều lành, thì cái nghĩ lành đó là tôi, nhưng bất thần nghĩ điều
xấu điều ác, thì cái nghĩ xấu ác là ai? Nếu cái nghĩ lành là tôi, cái nghĩ
ác cũng là tôi, thì cái tôi rất là hỗn tạp.
Cái nghĩ lành, cái nghĩ ác, luôn luôn thay
đổi, nhất là khi tìm lại thì mất bóng mất hình. Như vậy, cái tôi là cái
gì? Hằng ngày chúng ta lo các việc, dồn các hành động sống cho cái tôi,
sống vì cái tôi, mà rốt cuộc không biết cái tôi là gì, thật là đáng buồn
vô cùng. Cho nên hôm nay chúng tôi cố tình chỉ cho quí vị cái tôi chân
thật, ẩn náu trong cái không phải là tôi, đó gọi là "Chỉ Ông Chủ".
Chúng tôi đặt tên đề tài "Chỉ Ông Chủ" có
lỗi lầm gì không? Phàm cái gì chỉ được phải có hình tướng, thí dụ như bình
hoa ở trước mắt. Bình hoa có hình tướng và ở ngoài nên chúng ta trông thấy
được, và mới chỉ được. Còn ông Chủ là cái không hình tướng, lại ở nơi mọi
người, không phải ở bên ngoài, chúng tôi dùng ngôn từ "chỉ" là hết sức
gượng gạo, đó là đã sai lầm rồi, không phải là chân lý nữa. Nhưng tại sao
chúng tôi dùng chữ sai lầm như vậy? Vì đến chỗ tột cùng là chỗ vô ngôn,
tức không lời để diễn tả. Nhưng chẳng lẽ vì chỗ vô ngôn đó mà chúng ta
lặng thinh, người nghe làm sao lãnh hội được? Cho nên buộc lòng chúng tôi
phải nói, mà đã có ngôn từ là đã có sai lầm, nhưng nhờ cái sai lầm đó
chúng ta khéo tìm khéo thấy. Chúng tôi nói bên đông quí vị nhìn bên tây mà
thấy, đừng nhìn bên đông mà lầm. Chúng tôi nói bên ngoài quí vị phải nhìn
bên trong mới thấy. Nếu theo lời nói bên ngoài mà thấy, chắc rằng không
bao giờ quí vị thấy được. Đó là điểm cần yếu trong khi quí vị nghe chúng
tôi "Chỉ Ông Chủ".
Tên Ông Chủ tại sao có và tên ấy xuất xứ
từ đâu? Trước nhất chúng tôi xin dẫn kinh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật
nói đến danh từ khách trần, Ngài giải thích như sau: "Như trong hư không,
mỗi sáng khi mặt trời lên, ánh nắng xuyên qua kẽ hở. Nhìn vào ánh nắng đó,
chúng ta thấy những hạt bụi lăng xăng trong hư không. Hư không là chẳng
động mà hạt bụi chuyển động, hư không là không sanh diệt mà hạt bụi là
tướng sanh diệt. Hạt bụi là trần đối với hư không". Chữ khách đức Phật nói
rằng "Ví như có người khách đi đường, tạm nghỉ đêm nơi nhà trọ, sáng lại
sửa soạn hành lý ra đi. Khách tạm dừng rồi khách ra đi, người không dừng
cũng không đi gọi là chủ". Như vậy khách là người tạm có mặt rồi mất, ông
chủ là người thường xuyên trong nhà. Y Ù nghĩa hai chữ "chủ" và "khách"
cho chúng ta thấy rõ cái gì tạm có rồi mất gọi là khách, cái gì có mãi
không mất gọi là chủ. Như vậy danh từ Ông Chủ xuất xứ trong kinh Lăng
Nghiêm.
Ngoài tên Ông Chủ ra, đức Phật hay các
Thiền sư còn dùng những tên khác như Phật tánh, Pháp thân, Như Lai tạng,
Chân tâm, Trí tuệ Phật, Tri kiến Phật, Bản lai diện mục v.v… tùy chỗ đặt
tên nên có rất nhiều tên không thể kể hết. Tại sao các tên chỉ Ông Chủ lại
quá nhiều như vậy? Bởi vì chính Ông Chủ này là cái không tên. Phàm cái gì
ta đặt tên được thì cái đó có vị trí cố định, còn cái gì không đặt tên
được thì cái đó lại rất nhiều tên. Ví dụ như trong giảng đường này, có một
người khách đến nghe giảng, bất thần người ấy đứng lên, tất cả thính giả
đều thấy người đó vừa cao, vừa mập, vừa đen v.v… Khi về nhà, thính giả
thuật lại: hôm nay có một ông khách đến nghe giảng bỗng đứng lên hỏi. Vì
không biết tên ông khách nên có vị nói ông đó cao cao, vị khác không nói
ông đó cao mà nói ông đó mập mập, vị khác nữa không nói ông đó mập mà nói
ông đó đen v.v… Tại sao người nói cao, người nói mập, người nói đen? Nếu
quí vị biết chắc tên ông đó là A thì không phải dùng nhiều tên như vậy. Vì
không biết tên nên tùy hình dáng có gì đặc biệt tùy theo chỗ mà đặt tên.
Cũng vậy, Ông Chủ này là thể hằng giác
chưa bao giờ sanh diệt cho nên gọi là Trí tuệ Phật. Ông Chủ này là cái
thấy biết thường hằng của mọi chúng sanh nên gọi là Tri kiến Phật. Ông Chủ
này là cái kho Như Lai nên gọi là Như Lai tàng. Ông Chủ này là cái tâm bất
sanh bất diệt nên gọi là Chân tâm. Ông Chủ này là cái thể không bao giờ
đổi thay cho nên gọi là Pháp thân. Ông Chủ này là bộ mặt thật sẵn có của
tất cả mọi người cho nên gọi là Bản lai diện mục v.v… Do tùy chỗ đặt tên
nên có rất nhiều tên để chỉ Ông Chủ.
Tuy nói chỉ Ông Chủ mà thật ra không thể
chỉ được. Trong nhà thiền thường dùng những ngôn từ nói rằng "Đập cỏ rắn
sợ, vỗ nước cá đau đầu". Tức là ở dưới hồ chúng ta không thấy cá đâu,
nhưng lấy một tấm ván đập trên nước, dội vào cá ở dưới nước nên nó đau
đầu. Trong bụi cỏ rắn ở chỗ nào, chúng ta không thấy, nhưng muốn rắn sợ,
chúng ta quơ gậy ào trên cỏ, rắn hoảng sợ nên chạy. Như thế tuy không chỉ
được mà vẫn có ảnh hưởng, đó là lối chỉ của nhà thiền và của chúng tôi hôm
nay.
Chúng tôi xin dẫn vài vị Thiền sư nói về
Ông Chủ. Đời Đường ở Trung Hoa có Thiền sư Tùng Thẩm (778-897), chúng ta
thường gọi là Triệu Châu. Khi ngài Triệu Châu còn là một ông Sa-di đi hành
khước, tức là đi tham vấn thiền, ông đến Thiền sư Phổ Nguyện (749-834) ở
Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?"
Ngài Triệu Châu đáp: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Ngài Nam Tuyền hỏi: "Chủ ở
chỗ nào?" Ngài Triệu Châu bèn bước tới gần, khoanh tay cúi đầu nói rằng:
"Giữa mùa đông giá rét, kính chúc Hòa thượng được trăm phước." Ngài Nam
Tuyền gật đầu và cho ngài Triệu Châu vào chúng.
Trường hợp thứ hai là Thiền sư Ngưỡng Sơn
Huệ Tịch (804-899) tông Qui Ngưỡng. Khi ngài còn là Sa-di, Ngài đến với Tổ
Qui Sơn Linh Hựu (771-853). Tổ Qui Sơn hỏi: "Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di
không chủ?" Ngài thưa: "Dạ, con là Sa-di có chủ." Tổ hỏi: "Chủ ở đâu?"
Đang đứng bên đông, Ngài khoanh tay đi qua bên tây đứng. Ngài Qui Sơn gật
đầu cho nhập chúng. Như vậy là Ngài đã chỉ Ông Chủ rồi.
Cuối đời Đường có Thiền sư Sư Nhan, huynh
đệ với Thiền sư Sư Bị (835-908), Ngài ngồi tu trên tảng đá, thỉnh thoảng
tự gọi: "Ông Chủ nhân", rồi Ngài: "Dạ!" Ngài dặn: "Tỉnh, tỉnh, mai mốt
đừng để người lừa." - "Dạ!" Ngài tự gọi tự đáp, rồi tự bảo tỉnh tỉnh đừng
để người lừa. Thử hỏi hiện giờ chúng ta có bị người lừa không? Khi chúng
ta ngồi thiền, niệm Phật hoặc tụng kinh là cốt để định tâm, tức là sống
trở về với Ông Chủ của mình. Nhưng khi đang tụng kinh hay ngồi thiền,
khách dẫn mình đi lúc nào không hay. Nhớ chuyện hôm qua, ôn chuyện hôm
kia, cứ như thế nó lừa gạt mình, dẫn mình đi xa mãi, quên mất Ông Chủ lúc
nào không hay. Nếu chúng ta luôn luôn tỉnh giác, khi một ý nghĩ vừa dấy
lên, biết nó là khách liền buông xả không theo, đó là chúng ta làm chủ,
sống với Ông Chủ. Chỉ cần tự gọi tự nhắc là một pháp tu suốt năm suốt đời.
Đến phần chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi
không phải dùng tay để chỉ, mà dùng những ngôn từ. Qua những ngôn từ lạt
lẽo ấy, nếu quí vị khéo nhìn quí vị sẽ thấy Ông Chủ của mình. Khi quí vị
thấy Ông Chủ của mình rồi thì đời tu của quí vị được nhẹ nhàng.
Để chỉ thẳng Ông Chủ, chúng tôi xin dẫn
kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói "Từ nhất tinh minh sinh lục hòa hợp", là từ
một cái trong sáng sanh ra sáu cái hòa hợp. Ví dụ như có cái nhà nhỏ,
trong nhà có một ngọn đèn néon đang cháy sáng. Nhà ấy có sáu cửa, mỗi cửa
đều mở toang ra. Ban đêm có người đứng ngoài tối muốn biết trong nhà có
đèn hay không thì phải nhìn vào các cửa, nếu thấy ánh sáng từ các cửa phát
ra là biết bên trong có ngọn đèn. Thật sự chúng ta chưa thấy được ngọn
đèn, chỉ thấy được ánh sáng của ngọn đèn phát ra từ sáu cửa. Như vậy chủ
yếu của kinh Lăng Nghiêm là đức Phật muốn chỉ chân tâm hay là Như Lai tạng
đã có sẵn nơi mọi người chúng ta. Theo danh từ chuyên môn gọi đó là "nhất
tinh minh sanh ra sáu hòa hợp", tức là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý. Nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều có mang ánh sáng của cái tinh minh đó,
mà chúng ta không thấy, hoặc chúng ta không thấy đúng lẽ thật. Đức Phật
muốn chỉ cho Tôn giả A-nan và toàn chúng biết nơi sáu căn đã có ánh sáng
của tinh minh đó, nên Ngài đưa tay lên xòe ra nắm lại, xòe ra nắm lại, hỏi
A-nan: "Ông có thấy không?" A-nan thưa: "Dạ thấy." Phật hỏi: "Ông thấy cái
gì?" A-nan thưa: "Con thấy tay Thế Tôn đưa lên xòe ra nắm lại." Phật hỏi:
"Như vậy tay ta động hay cái thấy của ông động?" A-nan trả lời: "Tay của
Phật động, cái thấy của con không có tịnh huống nữa là động". Thấy là
thấy, không có tịnh, không có động. Trong ví dụ khách và trần, trần là cái
lao xao trong ánh nắng, còn hư không là cái an tịnh lặng lẽ. Cái lao xao
khi có khi không, hư không không có đổi thay. Hạt bụi lao xao trong hư
không, hạt bụi là sanh diệt, hư không là không sanh diệt. Như thế tay Phật
đưa lên là tượng trưng cho ngoại cảnh, ngoại cảnh có động tịnh, động tịnh
là cái sanh diệt. Cái thấy của ngài A-nan không có tịnh huống nữa là động,
làm sao nói sanh diệt được. Hiện giờ quí vị có cái thấy ấy hay không? Như
thế lo gì chúng ta không có Ông Chủ. Ví dụ chúng tôi chỉ bình hoa, hỏi quí
vị thấy không? Quí vị trả lời: Thấy. Nếu chúng tôi dẹp bình hoa chỗ khác,
thì quí vị trả lời: Không. Chúng tôi xin nhắc lại cái lầm lẫn của chúng
ta. Có bình hoa quí vị thấy bình hoa, bình hoa là vật ở bên ngoài mình,
còn cái thấy là cái gì? Nó có ở bên ngoài mình không? Như vậy tại sao có
bình hoa quí vị gọi là có thấy, không bình hoa quí vị gọi là không thấy?
Như thế cái thấy của quí vị đã bị lệ thuộc vào bình hoa rồi, tức là quên
mình theo vật, không nhớ mình mà chỉ nhớ có vật thôi. Vì thế chúng ta mất
mình, mất mình một cách đáng thương. Tất cả chúng ta đều như vậy, nghĩa là
có bình hoa là có thấy, dẹp bình hoa mất đi gọi là không thấy. Cái thấy là
cái hay thấy của mình, còn bình hoa là cái hình tướng bị thấy ở bên ngoài,
khi có khi không. Cái thấy hằng nhiên, không bao giờ sanh diệt. Tại sao
chúng ta đồng hóa cái thấy thành bình hoa? Vì vậy chúng ta quên mình chạy
theo cái giả tướng bên ngoài. Có tướng bên ngoài gọi là thấy, là "mình",
không có tướng gọi là không thấy, "không mình", quả thật đã mất mình rồi.
Đó là khuyết điểm lớn lao của tất cả chúng ta.
Sau ví dụ xòe nắm tay, đức Phật lại dùng
hào quang phóng qua bên trái ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên trái,
Phật phóng hào quang bên mặt ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên mặt.
Phật hỏi A-nan: "Tại sao cái đầu của ông hôm nay lay động vậy?" Ngài A-nan
thưa: "Con nhìn hào quang của Phật phóng qua bên trái, bên phải con, nên
đầu con xoay qua xoay lại." Phật hỏi: "Như vậy cái đầu của ông lay động
hay cái thấy của ông lay động?" Ngài A-nan thưa: "Cái đầu của con lay
động, cái thấy của con không lay động." Cái đầu tượng trưng cho thân, thân
mình là cái động, vì động nên sanh diệt. Cái thấy là cái không động, không
động nên không sanh diệt. Quí vị nhận mình có cái thấy không sanh diệt hay
không? Thế thì mình lo gì không có Ông Chủ. Đó là giai đoạn thứ nhất chỉ
Ông Chủ qua cái thấy.
Đến giai đoạn thứ hai cũng để chỉ Ông Chủ.
Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói mình có cái chưa từng sanh chưa từng diệt, ông
nghi nên hỏi Phật: "Tôi nghe chúng ngoại đạo nói chết rồi là hết, tại sao
Phật lại nói ngay thân này có cái chưa từng sanh chưa từng diệt?" Phật hỏi
thân ông hiện nay là thân sanh diệt hay không sanh diệt?" Ông thưa: "Thân
tôi là thân hoại diệt." Phật hỏi: "Ông chưa hoại diệt sao ông nói thân ông
hoại diệt?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Thân tôi tuy chưa hoại diệt nhưng tôi tự
biết thân này hoại diệt từ từ. Khi tôi mười tuổi cho đến hai mươi tuổi thì
đổi khác rồi, đến ba mươi tuổi thì già hơn hồi hai mươi tuổi, đến bốn mươi
tuổi thì đã già hơn hồi ba mươi tuổi… cho đến hiện giờ tôi đã trên sáu
mươi tuổi, nó đã già hơn hồi bốn mươi, năm mươi tuổi rất nhiều. Vì vậy tôi
biết thân tôi là tướng hoại diệt." Phật hỏi: "Ngay nơi thân hoại diệt đó
ông có thấy cái gì chưa từng hoại diệt chăng?" Vua Ba-tư-nặc thưa: "Không
thấy." Phật hỏi: "Nhà vua hồi mấy tuổi thấy được sông Hằng?" Vua thưa:
"Khi tôi ba tuổi, được mẹ bồng đi yết kiến thần Kỳ-bà-thiên, đã đi qua
sông Hằng, và đã thấy được sông Hằng." Phật hỏi: "Khi ba tuổi thấy sông
Hằng, đến khi mười tuổi, hai mươi tuổi thấy sông Hằng, cái thấy có đổi
khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi khác." Phật hỏi: "Từ hai
mươi tuổi đến ba mươi, bốn mươi tuổi ông thấy sông Hằng, cái thấy có đổi
khác không?" Vua thưa: "Cái thấy không có đổi, cho đến hiện giờ tôi sáu
mươi mấy tuổi, cái thấy vẫn như xưa không đổi." Phật nói: "Ông lo thân ông
bị hoại diệt, ngay nơi thân ông có cái chưa bao giờ đổi thay. Cái gì có
đổi thay thì cái đó bị hoại diệt. Cái chưa từng đổi thay tại sao lo rằng
nó bị hoại diệt, mà ông còn tin rằng thân này chết rồi là hết?" Như thế
chúng ta thấy rõ cái tánh thấy sẵn có nơi mình, cái tánh thấy ấy không trẻ
không già. Nếu cái thấy không già tại sao khi lớn tuổi chúng ta lại mang
kiếng lão? Đó là vì bộ phận trong con mắt chúng ta nó cũ nó mờ đi, chớ
không phải cái thấy của ta có cũ có mờ, cũng như bóng đèn xài lâu thì hư,
chớ điện không có đổi khác.
Đến giai đoạn thứ ba đức Phật chỉ Ông Chủ
qua tánh nghe thường trụ. Phật bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông
"boong", rồi hỏi ông A-nan và đại chúng: "Các ông có nghe không?" Đại
chúng trả lời: "Có nghe." Khi tiếng chuông lặng dứt, Phật hỏi: "Có nghe
không?" Ông A-nan và đại chúng đều đáp: "Không nghe." Phật lại hỏi: "Tại
sao gọi là nghe, tại sao gọi là không?" Ngài A-nan và đại chúng thưa: "Khi
đánh chuông, âm ba vang ra gọi là nghe, khi âm ba bặt hết gọi là không
nghe." Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi
ông A-nan: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại chúng đáp: "Có tiếng." Giây
lâu tiếng chuông im bặt, Phật hỏi: "Có tiếng không?" Ông A-nan và đại
chúng đều đáp: "Không tiếng." Phật lại hỏi: "Tại sao gọi là có tiếng, tại
sao gọi là không tiếng?" Ông A-nan và đại chúng đều thưa: "Khi đánh chuông
âm ba vang ra gọi là có tiếng, khi âm ba lặng đi gọi là không tiếng." Đức
Phật quở: "Tại sao hôm nay các ông điên đảo lắm vậy?"
Nếu chúng ta trả lời các câu hỏi của Phật
như ngài A-nan và đại chúng, thì tất cả chúng ta đều điên đảo mà không hay
biết. Vì sao? Vì tiếng thuộc về thanh trần tức là âm ba bên ngoài, còn
nghe là cái hay nghe nơi mình, của chính mình. Tiếng và cái nghe, chúng ta
đồng hóa là một, không phải điên đảo là gì? Chúng ta hằng ngày sống trong
điên đảo, tiếng không biết thuộc về tiếng, nghe không biết thuộc về nghe.
Tiếng là cái sanh diệt, có đánh chuông thì có tiếng kêu, cái nghe thì khi
có tiếng có nghe, không tiếng vẫn có nghe, vì nếu không nghe làm sao biết
là không tiếng, mà nói không nghe.
Chúng tôi xin thuật một câu chuyện sau
đây: Tổ thứ mười tám ở Ấn Độ tên Già-da-xá-đa, đang đi hóa đạo, thấy một
thanh niên dòng Bà-la-môn là người khí khái, có khả năng đảm đang việc
lớn, có thể truyền được chánh pháp sau này. Người thanh niên ấy hỏi Tổ tu
theo phái nào, Ngài đáp: "Tôi tu theo Phật giáo." Vừa nghe như vậy người
thanh niên hoảng lên bỏ chạy về nhà đóng sầm cửa lại, núp trong nhà không
dám ra. Tổ đuổi theo tới trước cửa nhà, Ngài gọi: "Chủ nhà mở cửa ra!"
Người thanh niên ở trong nói vọng ra: "Không có chủ ở nhà." Tổ hỏi: "Không
có chủ ở nhà vậy ai nói đó?" Người thanh niên hoảng sợ mở cửa ra. Ông được
Tổ chinh phục, theo làm đồ đệ, sau được truyền Tổ vị. Câu chuyện mình mới
nghe thấy như trẻ con, nhưng chúng ta có giống trẻ con như vậy không? Luôn
luôn biết thấy, biết nghe, mà hỏi ông chủ đâu thì không biết. Nếu không có
chủ thì ai nói, không có chủ thì ai nghe, không có chủ thì ai thấy? Biết
nói, biết thấy, biết nghe mà hỏi ông chủ đâu thì đáp "Không biết, không có
ông chủ", chẳng khác nào người thanh niên kia vọng ra bảo "Chủ không có ở
nhà".
Để chỉ ông chủ các Thiền sư hay đưa ra câu
chuyện sau đây, có một thiền khách đến hỏi một Thiền sư: "Bạch Ngài, thế
nào là Phật?" Thiền sư trả lời: "Cỡi trâu mà tìm trâu." Chúng ta nghe câu
nói đó lạ quá. Hỏi thế nào là Phật, tại sao lại trả lời "cỡi trâu đi tìm
trâu". Nếu chúng ta biết Ông Chủ phát ra từ cái thấy, cái nghe, cái nói,
cái ngửi, thì đó là Ông Chủ cũng là Pháp thân, Phật tánh. Không có cái đó
làm sao biết hỏi, làm sao biết thấy, làm sao biết nghe? Nếu không chịu
nhận cái đó mà đi tìm Phật ở bên ngoài là cỡi trâu tìm trâu. Mới nghe qua
chúng ta tưởng như Thiền sư trả lời lạc đề, không giải nghĩa thế nào là
Phật, lại bảo "cỡi trâu tìm trâu". Bởi vì chính cái biết hỏi đó đã là Phật
rồi, nhưng cẩn thận, nhiều khi mình lầm tưởng là Phật, nhận luôn cả phiền
não nữa, đó là bệnh.
Khi nói tới Ông Chủ, kinh Lăng Nghiêm lúc
nào cũng chỉ thẳng tánh nghe, tánh thấy v.v… của chính mình đã biểu lộ nơi
sáu căn. Như ở trên tôi đã ví dụ, trong căn nhà, có một ngọn đèn néon thắp
sáng, ánh sáng xuyên qua các cửa. Nếu nhìn ánh sáng xuyên qua các cửa,
chúng ta thấy có ánh sáng hình vuông to, hình vuông nhỏ, có ánh sáng hình
dài, có ánh sáng hình tròn v.v… khác nhau. Sự khác nhau ấy do cái gì? Tại
ánh sáng hay tại các cửa? Rõ ràng chúng ta thấy ánh sáng không khác, mà có
khác là do từ các cửa. Nếu đứng ngay tại cửa mà xây mặt nhìn ra ngoài thì
chúng ta thấy tất cả sự vật bên ngoài, không bao giờ thấy được ngọn đèn.
Khi nhìn ra chúng ta chỉ thấy hoặc là cây cối vườn tược, hoặc là đường sá
xe cộ v.v… Chúng ta toàn thấy những gì qua lại, những gì sai biệt. Nếu
chịu khó xây mặt trở vào thì chúng ta không còn thấy cảnh vật ở ngoài nữa
mà chúng ta thấy ngọn đèn. Cho nên kinh Đại thừa luôn luôn nói rằng "Hồi
đầu thị ngạn", tức là xoay đầu lại là bờ Niết-bàn. Xoay mặt hướng ra là bờ
mê, xoay mặt hướng vô là bến giác. Vì vậy kinh Đại thừa nói xoay ra ngoài
gọi là bối giác hiệp trần, xoay trở lại là bối trần hiệp giác. Chúng ta
đứng ở cửa xây mặt ra thì lưng trở vô ngọn đèn, gọi là bối, xây lưng lại
ngọn đèn thì thấy toàn là cảnh vật bên ngoài. Nếu lúc chúng ta chịu xây
lưng trở ra thì không thấy sự vật bên ngoài mà thấy ngọn đèn sáng. Như vậy
bối giác hiệp trần hay bối trần hiệp giác chỉ là cái xây lưng mà thôi, mê
hay ngộ chỉ là cái xây lưng lại thôi. Nhưng từ thuở bé đến giờ chúng ta
đều xây mặt ra nhìn theo trần cảnh bên ngoài. Hiện nay chúng ta xoay nhìn
trở lại mình, nào có khó gì? Cho nên Điều Ngự Giác Hoàng tức là vua Trần
Nhân Tông, Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm, khi đồ đệ là Pháp Loa hỏi: " Yếu
chỉ của sự tu hành là thế nào?" Ngài đáp: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự."
Nghĩa là xoay nhìn lại chính mình, đó là phận sự gốc của người tu.
Rất tiếc tất cả chúng ta đều xây mặt ra,
nên muốn tu mà một bề chạy theo ngoài, lễ lạy những hiện tượng lạ bên
ngoài, quên mất ông Phật của chính mình. Điều chính yếu là trở lại tánh
giác của mình, tự mình sáng suốt soi rõ sự vật, không phải nhờ người ngoài
soi thế cho mình được. Ví dụ có người học rất giỏi rất cao, được cử làm
Viện trưởng Viện Đại Học, ông ký cấp bằng cho những sinh viên đỗ đạt đầy
đủ khả năng, ông không thể ký cấp bằng cho các con ông nếu chúng chưa học
đến mức, chưa đủ khả năng đỗ đạt. Nếu muốn được cấp bằng cha ký cho, các
con ông phải nỗ lực học hành cho đúng mức, và đỗ đạt thành tài. Cũng như
vậy, tu là giác ngộ, mà giác ngộ thì trước phải sạch hết bụi bặm phiền
não. Nếu bụi bặm phiền não không chịu phủi giũ cho sạch, trí tuệ không mở
mang, mà muốn được điểm đạo cho thành Phật ngay, giống như anh học trò
không chịu học tập cho đến nơi đến chốn, mà muốn người cha ký cấp bằng cho
mình thành cử nhân tiến sĩ vậy.
Đa số Phật tử thường yếu đuối biếng nhác,
muốn làm việc gì cũng chóng kết quả. Nghe nói tu phải cực khổ, phải bỏ
phiền não tam độc, xem như lâu quá. Chỉ tập khí sân thôi mà dứt hoài không
được, biết chừng nào thành Phật! Vì muốn được kết quả mau chóng nhờ điểm
đạo mà phải lạc vào con đường tà giáo, nguyên do tại yếu đuối và tham lam.
Cho nên người tu hành chân chánh phải biết đúng lẽ thật và phải thực hành
đúng lẽ thật đó. Học đạo là tìm chân lý, dùng chính trí tuệ của mình để
thấy lẽ thật, chớ không nhờ ai bên ngoài điểm đạo cho mình được. Cũng như
học là mở mang trí tuệ của mình, đến đúng trình độ thì được phát cấp bằng,
học chưa đủ sức mà muốn được cấp bằng sớm, cấp bằng đó chỉ là giả thôi,
không có nghĩa lý gì.
Chúng ta tu hành, không nên tham mau, mà
phải bền chí, ngày nào cũng gỡ bỏ phiền não, xây mặt ngó vào mình thì tự
nhiên con đường giác ngộ sẽ đến với mình. Nếu chúng ta xây mặt trở ra đếm
người đếm cảnh, nhìn mặt người đi qua, nhìn mặt kẻ đi lại, nhớ người nhớ
cảnh hoài, thì làm sao giác ngộ cho được. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy
tầm quan trọng của sự tu. Tu là biết xoay lại, biết trở về con đường giác,
tức là bối trần hiệp giác, nghĩa là xây lưng với trần cảnh, trở về với
tánh giác của mình. Ngược lại như chúng ta hiện giờ, là bối giác hiệp
trần, nghĩa là xây lưng với tánh giác, chạy theo trần cảnh, mà muốn thành
Phật, thì thành sao được! Chỉ cần một cái xây lưng thôi thật là dễ, nhưng
lắm người không chịu xây, chả trách gì chúng ta làm chúng sanh mãi.
Trong kinh Lăng Nghiêm, không riêng đức
Phật Thích-ca mà mười phương chư Phật đồng nói cho ngài A-nan và đại chúng
nghe rằng "Chính sáu căn của các ông là gốc của sanh tử luân hồi, cũng
chính sáu căn của các ông là gốc của Bồ-đề Niết-bàn". Tại sao vậy? Cũng
trong kinh Lăng Nghiêm có câu "Tri kiến lập tri tức vô minh bổn, tri kiến
vô kiến tư tức Niết-bàn", nghĩa là thấy biết mà lập thấy biết là gốc của
vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây là Niết-bàn. Tại sao? Như
chúng ta xây mặt ra ngoài, nhìn người nhìn cảnh, phân biệt hay dở, tốt xấu
v.v…, bởi chấp cái phân biệt cảnh vật ấy nên gọi là "tri kiến lập tri", đó
là nguồn gốc của vô minh, tức là quên mình chạy theo cảnh. Khi chúng ta
vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết mà không phân biệt tốt xấu hay dở, không thêm
một lớp vọng tưởng phân biệt, gọi là "tri kiến vô kiến", là gốc Bồ-đề
Niết-bàn. Như thế Phật chỉ quá rõ ràng, gốc của sanh tử hay gốc của
Niết-bàn là ngay nơi sáu căn của mình, không có ở đâu xa xôi.
Chúng tôi xin trích dẫn trong kinh Pháp
Hoa, phần chỉ về Ông Chủ. Kinh Pháp Hoa được gọi đầy đủ là kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, nghĩa là kinh Diệu Pháp dụ như hoa sen. Diệu Pháp là gì? Trong
kinh nói "Chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh
ngộ nhập Tri kiến Phật". Tất cả chư Phật chớ không riêng gì đức Thích-ca
ra đời, đều vì một việc lớn là khai mở và chỉ bày cho chúng ta nhận ra và
nhập Tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật đó chính là Diệu Pháp.
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm nổi nhất về chỉ
Ông Chủ là phẩm Hiện Bảo Tháp, là phẩm thị Phật tri kiến. Trong hội Pháp
Hoa, các Bồ-tát và thánh chúng đang nghe kinh, bất thần có tháp báu ở dưới
đất vọt lên và trụ giữa hư không. Trong tháp ấy vang ra tiếng nói của Phật
Đa Bảo khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Đức Đa Bảo khi xưa có bổn nguyện,
hội nào có giảng kinh Pháp Hoa thì Ngài đến trong hội đó v.v… Nếu chúng ta
không đạt được lý kinh, nghe đến đây sẽ thấy huyền bí thần thoại. Tại sao
dưới đất lại vọt lên một tháp bằng bảy báu, trong tháp ấy có Phật Đa Bảo
đã chết từ vô số kiếp rồi mà hiện nay còn nói và khen ngợi đức Thích-ca
Mâu-ni. Vậy phẩm này chỉ Tri kiến Phật ở chỗ nào?
Chúng tôi xin gỡ từng điểm một để quí vị
thấy tầm quan trọng của kinh Pháp Hoa. Quí vị còn nhớ đoạn nói về "Vào nhà
Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai" chăng? Nhà Như Lai là lòng từ
bi, áo Như Lai là hạnh nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là nhất thiết pháp
không, tức là thấy tất cả pháp, tánh nó là không. Như thế bảo tháp vọt lên
lơ lửng trong hư không, không dính với cái gì hết, đó là tượng trưng cho
tất cả pháp không. Do vì không dính với sáu trần cho nên mới thấy cái gốc
của chính mình, đó là Tri kiến Phật hay là Phật Đa Bảo ngay chính mình,
không phải Phật Đa Bảo ở trong tháp báu kia. Phật Đa Bảo là tượng trưng
cho Pháp thân, cho Tri kiến Phật. Tháp làm bằng bảy báu, có nghĩa là kim
ngân, lưu ly, xa cừ, mã não v.v… hay không? Đó chính là thân thất đại của
chúng ta. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói chúng ta mang thân thất đại,
thất đại là bảy thứ lớn: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Nơi
chúng sanh mê lầm gọi là thất đại, khi chúng ta ngộ được Pháp thân rồi,
gọi là thất bảo. Cho nên tháp của Phật Đa Bảo bằng thất bảo, tháp của
chúng ta bằng thất đại.
Vì sao gọi Phật là Đa Bảo, tức là nhiều
báu? Như trong các kinh, khi nói đến chỗ chân thật đều dùng các thứ báu để
tượng trưng. Như ví dụ Hệ Châu trong kinh Pháp Hoa: Có một anh chàng ăn
xin nghèo khổ, gặp được người bạn cho anh hạt châu và cột vào chéo áo cho
anh. Vì anh mê uống rượu quên mất hạt châu, nên phải đi xin ăn, lang thang
đói khổ. Gặp lại người bạn xưa, chỉ cho hạt châu trong chéo áo, anh lấy
hạt châu ra xài và trở nên giàu có.
Ví dụ thứ hai nói về nhà vua có hạt minh
châu trong búi tóc, nhà vua thưởng hạt châu đó cho vị tướng tài giỏi nhất
đi đánh giặc, thắng trận trở về. Hạt minh châu trong búi tóc là ví dụ cho
Tri kiến Phật, còn vị tướng tài giỏi là dụ cho người có khả năng dẹp được
các giặc phiền não. Như vậy hạt châu dường như ở ngoài tặng cho mà thật ra
là chỉ cái mình có sẵn, tức là Tri kiến Phật hay là Pháp thân của chính
mình.
Các Thiền sư cũng thường nói đến của báu
ấy. Có vị Thiền sư đến hỏi Hòa thượng Thạch Cựu, đệ tử của Mã Tổ: "Trong
tay Bồ-tát Địa Tạng có hạt minh châu, đó là ý nghĩa gì?" Ngài hỏi lại:
"Trong tay ông có hạt minh châu không?" Vị Thiền sư thưa: "Con không
biết." Hòa thượng liền nói kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Kẻ nhìn gương mất đầu.
Nghĩa là: Mình không biết được kho báu nhà
mình, cứ chạy theo những trần cảnh ở bên ngoài. Ví như đang ở giữa trưa
trời nắng mà chạy đi trốn bóng, trốn có khỏi không, càng chạy trốn thì
bóng càng đuổi theo. Như người xem gương mất đầu. Đó là ví dụ trong kinh
Lăng Nghiêm: Có chàng Diễn-nhã-đạt-đa, một buổi sáng xem gương, thấy đầu
mặt của mình trong gương, úp gương lại không thấy đầu mặt mình đâu nữa,
hoảng lên ôm đầu chạy la: "Tôi mất đầu!", liền phát điên. Người đi cầu đạo
cũng vậy, xin người chỉ dạy đạo cho mình mà không ngờ chính nó đã sẵn nơi
mình rồi.
Trong Chứng Đạo Ca, ngài Huyền Giác ở Vĩnh
Gia nói:
Ma-ni châu nhân bất thức
Như Lai tàng lý thân thâu đắc
Lục ban thần dụng không bất
không
Nhất khỏa viên quang sắc phi
sắc.
Ngọc ma-ni, người chẳng biết?
Như Lai kho ấy thâu trọn hết
Sáu ban thần dụng không chẳng
không
Một điểm viên quang sắc chẳng
sắc.
Nghĩa là: Mỗi người có một hạt châu Ma-ni
mà không tự biết. Hạt châu Ma-ni còn gọi là hạt châu Như Y Ù, khi có hạt
châu đó rồi thì ước muốn điều gì cũng được toại nguyện. Ngay nơi kho Như
Lai của mình, chính nơi đó mà nhận. Sáu thứ thần thông mầu nhiệm dường như
không mà chẳng phải không. Một viên tròn sáng sắc mà chẳng phải sắc. Đó là
để diễn tả hạt châu riêng của mỗi người chúng ta ai cũng sẵn có.
Một câu chuyện khác như sau: Một thiền
khách đến, ngài Pháp Đăng hỏi: "Đầu sào trăm trượng làm sao tiến được?"
Thiền khách trả lời: "Câm." Ngài cứ khán câu đó hoài trong ba năm. Một hôm
Ngài cưỡi ngựa đi qua cây cầu ván, ván mục, ngựa sụp chân té nhào, quăng
Ngài rơi xuống cầu. Vừa rơi xuống Ngài liền ngộ, nói bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao quang tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch phát sáng
Soi thấu núi sông muôn vật.
Dịch nghĩa là: Ta có một hòn ngọc minh
châu. Lâu rồi bị bụi bặm che lấp không thấy. Sáng nay bụi hết, ánh sáng
phát ra, soi rõ khắp cả núi sông muôn vật. Như vậy chính chỗ nhận ra được
Ông Chủ hay là Pháp thân của mình thì luôn luôn ví dụ như được hạt minh
châu.
Từ các kinh cho đến các Thiền sư đều dùng
hạt minh châu để tượng trưng cho Pháp thân. Phật Đa Bảo hay Pháp thân là
một kho báu quý vô lượng vô biên mà tất cả thế gian không gì sánh bằng.
Cứu sống một sanh mạng được đền đáp bằng một số châu báu, sanh mạng ấy chỉ
sống thêm được vài mươi năm. Nhận ra được mạng sống miên viễn bất tử, tức
là Pháp thân hay Niết-bàn, chẳng là một kho báu vô lượng vô biên hay sao?
Cho nên được tượng trưng là Phật Đa Bảo.
Nhưng làm sao thấy được Phật Đa Bảo, làm
sao mở cửa tháp để thấy Phật? Đức Phật Thích-ca nói: Phật Đa Bảo có bản
nguyện là "Sau này nếu nơi nào nói kinh Pháp Hoa, tháp ta sẽ hiện lên nơi
đó. Vị Phật đang thuyết pháp muốn thấy được thân ta thì các phân thân của
vị Phật ấy đang giáo hóa ở các nơi phải thu hồi trở về một chỗ, rồi mở cửa
tháp sẽ thấy được thân ta". Khi ấy cõi ta bà ô uế này biến thành thanh
tịnh và các loại ngạ quỷ súc sanh đều dời đi nơi khác. Nghĩa lý đoạn này
rất thâm sâu.
Phật Đa Bảo là Pháp thân hay Tri kiến Phật
của chính mình, muốn thấy Phật thì các tưởng nhớ đến nơi đây nơi kia,
chuyện này chuyện khác phải gom về một chỗ, tức là trụ. Cho nên nói các
hóa thân Phật trở về một chỗ không còn phân tán, tức là định vậy. Khi trụ
một chỗ rồi thì tâm ô uế trở thành thanh tịnh, tham sân si không còn nữa,
nên nói các cõi nước liền biến thành thanh tịnh, các loại ngạ quỷ súc sanh
(dụ cho tham sân si) đều dời đi nơi khác, chỉ còn Phật thôi. Đức Phật
Thích-ca dùng thần thông bước lên tháp, mở cửa tháp thấy Phật Đa Bảo, vào
tháp được ngồi chung với Phật một tòa. Cũng vậy, sau khi tâm chúng ta an
trụ rồi, không còn phóng tâm ra ngoài nữa thì lúc đó gọi là định. Khi định
xong thì thấy Phật Pháp thân hay là thấy Phật tri kiến của chính mình. Đó
là ý nghĩa Phật Tri Kiến trong kinh Pháp Hoa.
Đến đây chúng tôi xin nói về Ông Chủ, được
chỉ qua các câu chuyện thiền. Đọc lại lịch sử Thiền tông, chúng ta nhớ lại
lần đầu tiên đức Phật truyền chánh pháp cho vị Tổ thứ nhất là ngài Ma-ha
Ca-diếp. Trong hội Phật nói kinh ở núi Linh Thứu, tức núi Linh Sơn, khi
chúng hội đông đủ, đức Phật lên tòa, tay cầm hoa sen đưa lên, cả chúng hội
đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca-diếp chúm chím cười. Phật bảo "Ta có chánh
pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn,
nay phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp v.v…" Như thế ngài Ca-diếp được truyền pháp
là do đức Phật đưa cành hoa sen, Ngài nhìn thấy rồi ngộ đạo, được truyền
tâm ấn. Ngài Ca-diếp thấy hoa sen ngộ đạo hay thấy cái gì? Trong nhà thiền
gọi là "Kiến sắc minh tâm", là thấy sắc mà ngộ được tâm của mình. Đức Phật
đưa cành hoa sen, không phải để nói về hoa sen, chính là nhân nhìn thấy
hoa sen biết được mình có cái chưa bao giờ sanh diệt. Ngài Ca-diếp mỉm
cười, biết được ý Phật, nên nhận tâm pháp của Phật truyền trao.
Trong nhà thiền cũng vậy, các Thiền sư khi
có người đến hỏi đạo, liền đưa cây phất tử lên, không chịu trả lời. Trường
hợp ngài Mã Tổ Đạo Nhất là một Thiền sư nổi tiếng, sau Lục Tổ hai đời. Một
hôm Ngài đi dạo vườn với thị giả là ngài Bá Trượng Hoài Hải, thình lình có
bầy chim bay qua, Tổ hỏi ngài Bá Trượng: "Cái gì đó?" Ngài Bá Trượng nhìn
lên thấy bầy chim bay qua, nói: "Dạ, bầy chim le le bay." Giây lát Tổ hỏi:
"Đâu rồi?" Ngài trả lời: "Bay qua mất rồi!" Khi nghe trả lời như thế, Mã
Tổ nắm mũi của ngài Bá Trượng véo mạnh đau điếng. Ngài Bá Trượng la lên
thất thanh. Tổ bảo: "Sao không nói bay qua mất đi?" Ngài Bá Trượng nhân đó
liền ngộ.
Như thế là ngộ cái gì? Ngộ cái mũi đau hay
ngộ bầy chim? Bầy chim bay qua là bay mất đi, nhưng cái thấy bầy chim bay
và cái thấy bay mất, cái thấy ấy đâu có mất bao giờ! Chúng ta cứ cho thấy
bầy chim là có thấy và chim mất đi là mất cái thấy của mình. Cho nên ngài
Bá Trượng bị nắm mũi kéo mạnh, hoảng la lên. Tổ hỏi: "Sao không nói mất
đi?" Nhân đó biết rằng cái mũi không bao giờ mất. Trong nhà thiền, lỗ mũi
luôn luôn tượng trưng cho bản lai diện mục, nó ngay trước mắt mà mình
quên. Vì vậy khi bị kéo mạnh lỗ mũi, biết rằng lỗ mũi không bao giờ mất,
ngài Bá Trượng ngộ liền.
Đến khi ngài Bá Trượng làm thầy, có người
đệ tử là Qui Sơn Linh Hựu. Một hôm trời lạnh, Qui Sơn đứng hầu thầy, ngài
Bá Trượng bảo bới tro trong lò lấy lửa. Qui Sơn bới trong lò, không thấy
lửa, bạch: "Bạch Hòa thượng, lửa hết rồi." Ngài Bá Trượng lại bới sâu
trong lò, lấy được cục lửa, đưa lên hỏi: "Nói hết lửa, cái này là gì?" Qui
Sơn liền ngộ, và sụp xuống lễ thầy.
Chúng ta vì không hiểu nên giải thích, đệ
tử bới không thấy lửa là vì bới cạn, còn vị thầy nhờ bới sâu trong lò nên
được lửa, và nói rằng Phật tánh phải tìm sâu mới gặp. Không ngờ chỗ ngộ
của ngài Qui Sơn là do câu hỏi của thầy: "Nói hết lửa cái này là cái gì?",
ngài Qui Sơn liền thấy cục lửa và ngộ liền. Nhân thấy lửa mà biết mình có
cái thấy hằng sẵn nơi mình, chưa bao giờ mất. Có thấy là có biết, cái biết
đó là tâm, có nghe là có biết, cái biết đó là tâm. Cái biết đó không bao
giờ động, bất sanh bất diệt và thường hiện hữu. Nhận ra cái ấy là đã bước
vào con đường của chư Tổ đã đi.
Hai câu chuyện trên dùng cái thấy để chỉ
cho chúng ta cái chưa bao giờ mất ở nơi mắt, gọi là "Kiến sắc minh tâm".
Sau khi Tổ Ca-diếp ngộ đạo, đức Phật đem y
bát truyền để làm tin. Khi đức Phật diệt độ rồi, vị đệ tử đa văn nhất của
Phật là ngài A-nan hỏi ngài Ca-diếp: "Đức Thế Tôn, ngoài việc truyền y Kim
Lan cho sư huynh, còn truyền cái gì nữa không?" Ngài Ca-diếp liền gọi:
"A-nan!" Ngài A-nan: "Dạ!" Ngài Ca-diếp bảo: "Cây phướn trước chùa ngã."
Ngài A-nan liền ngộ, ngộ việc ngoài lá y còn truyền cái khác.
Vậy cái khác là cái gì? Có phải là cây
phướn trước chùa chăng? Phần nhiều chúng ta cứ giải thích cây phướn trước
chùa ngã. Không ngờ khi kêu: "A-nan" - "Dạ", vừa kêu liền dạ, cái đó đã
sẵn có, nhận ra cái đó là cái Phật đã truyền cho Tổ Ca-diếp. Như vậy ngài
A-nan nhận được cái đó, ngộ đạo, được truyền y bát làm Tổ thứ hai.
Trường hợp Thiền sư Hoàng Bá (? - 850), đệ
tử của Tổ Bá Trượng, đến ngụ tại một ngôi chùa, nhằm lúc tướng quốc Bùi
Hưu đến thăm chùa. Ông Bùi Hưu thấy trên vách chùa có vẽ hình các vị cao
tăng. Ông hỏi thầy trụ trì: "Hình cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Vị trụ
trì không trả lời được. Ông Bùi Hưu hỏi: "Ở đây có Thiền sư không? Thầy
mời hộ tôi." Vị trụ trì nói: "Hình như có một Thiền sư, để tôi mời ra." Và
ngài Hoàng Bá được mời ra. Ông Bùi Hưu nói: "Khi nãy tôi có hỏi một câu mà
quý Đại đức tiếc lời không đáp. Bây giờ xin hỏi Thiền sư, Thiền sư đáp dùm
tôi". Ngài Hoàng Bá nói: "Ông cứ hỏi." Ông Bùi Hưu lặp lại câu hỏi: "Hình
cao tăng ở đây, cao tăng đâu?" Ngài Hoàng Bá liền gọi: "Bùi Hưu!" - "Dạ!"
Ngài hỏi: "Ở đâu?" Ông Bùi Hưu liền ngộ. Như vậy cao tăng ở đâu? Đến đây
chúng ta thấy thuật truyền thừa có hệ thống rõ ràng, người ngoài đọc sẽ
ngạc nhiên vì nghe lạ tai.
Đến trường hợp khác, ngài Thanh Nguyên
Hành Tư (? - 740), đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, có vị môn đệ là ngài Thạch
Đầu Hy Thiên (695 - 785). Có Thiền sư Linh Mặc (747 - 818) đến hỏi đạo
ngài Thạch Đầu Hy Thiên và tự nói "Nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp
thì đi". Khi thưa hỏi, Thiền sư Linh Mặc không được hài lòng nên bỏ ra đi.
Ngài Thạch Đầu theo sau tiễn đến cửa liền gọi: "Xà lê!" Sư xoay đầu lại.
Ngài Thạch Đầu bảo: "Từ xưa đến giờ chỉ cái ấy, xoay đầu chuyển não làm
gì?" Sư nhân câu nói này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm. Như thế chúng
ta thấy sự truyền thừa theo hệ thống này đã bắt nguồn từ đức Phật đến ngài
Ca-diếp, đến ngài A-nan và đến các Thiền sư sau này: chỉ bày cái thấy, cái
nghe, cái biết luôn luôn có sẵn nơi chính mình. Tri kiến Phật là gồm cả
kiến văn giác tri và hằng biểu lộ nơi sáu căn.
Để chỉ Tri kiến Phật, chúng tôi xin dẫn
câu chuyện trong kinh Pháp Bảo Đàn, nhân bài thuyết pháp đầu tiên của Lục
Tổ Huệ Năng cho ngài Huệ Minh. Khi nhận được tâm ấn của Ngũ Tổ, Lục Tổ đi
trốn về phương Nam. Tu sĩ Huệ Minh, khi chưa xuất gia là một võ tướng,
cưỡi ngựa rượt theo định giành lại y bát. Chẳng ngờ đến khi thấy y bát,
Huệ Minh nhấc lên không nổi, biết có việc gì mầu nhiệm, vội kêu lên: "Hành
giả! Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không phải vì y bát." Lục Tổ lúc
đó mới ra mặt và bảo ngài Huệ Minh hãy lặng tâm ý nghe Tổ hỏi: "Không nghĩ
thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?" Vừa
hỏi đến đó ngài Huệ Minh liền ngộ. Thế là ngộ cái gì? Nghĩ thiện, nghĩ ác
là cái nghĩ hai bên, là tướng động, là tướng sanh diệt. Trong vũ trụ từ
con người đến vạn vật, cái hai bên là nguồn gốc của sự sanh diệt, ở người
thì có nam nữ, ở điện thì có âm dương v.v… Nếu buông được cái hai bên thì
sự sanh diệt không còn nữa. Cho nên khi Lục Tổ bảo "Không nghĩ thiện,
không nghĩ ác" ngay đó Thượng tọa Minh liền nhận được bản lai diện mục của
chính mình.
Câu chuyện sau đây thuật việc ngài Lâm Tế
Nghĩa Huyền (? - 867) đến hỏi đạo nơi Thiền sư Hoàng Bá: "Bạch Hòa thượng
thế nào là đại ý Phật pháp?" Ngài Hoàng Bá liền đập cho ba gậy mà không
trả lời. Ba lần hỏi đạo, ngài Lâm Tế đều bị ba lần ăn đòn đau đớn. Buồn
tủi Ngài ra đi, Tổ Hoàng Bá bảo ông nên đến Thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo.
Khi đến nơi, Thiền sư Đại Ngu hỏi: "Ông ở đâu đến?" Ngài Lâm Tế thưa: "Dạ
con ở Hoàng Bá đến." Hỏi: "Hoàng Bá dạy ông cái gì?" Thưa: "Con ba lần hỏi
đại ý Phật pháp, ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không
lỗi." Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu liền nói: "Hoàng Bá thật là tâm lão bà
(tâm như mẹ thương con), dạy người rất thống thiết, ngươi lại đến trong ấy
hỏi có lỗi không lỗi." Ngài Lâm Tế ngay câu ấy liền đại ngộ, thưa: "Vậy
thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít." Ngài Đại Ngu liền nắm đứng lại bảo:
"Con quỉ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật
pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau, nói mau." Ngài
Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra nói:
"Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì đến ta." Về sau, khi ngộ đạo
rồi, Ngài làm Tổ dòng Lâm Tế, còn truyền đến hiện nay.
Chúng ta không khỏi thắc mắc ngài Lâm Tế
ngộ tại chỗ nào, ngài Hoàng Bá từ bi như thế nào? Nếu ngài Lâm Tế không ba
phen bị đòn thì chắc Ngài không làm Tổ dòng Lâm Tế đến ngày nay. Ngài
Hoàng Bá thật có tâm lão bà, nhưng nếu không có người bạn đồng hành là
ngài Đại Ngu biết được chỗ đó, và gợi ý thì chắc ngài Lâm Tế không bao giờ
ngộ được. Nhờ ngài Đại Ngu nhấn mạnh câu "có lỗi không lỗi" ngài Lâm Tế
ngay đó liền bừng ngộ. Tại sao vậy? Vì vừa dấy niệm "có lỗi không lỗi" là
đã sai đại ý Phật pháp rồi, cho nên bị ăn đòn. Bị ăn đòn mà không được trả
lời, dồn người hỏi đến chỗ bế tắc, đau đớn cùng tột, đến khi được khai mở
thì nhớ đời đời không quên. Đó là tâm lão bà thống thiết của người xưa. Vị
thầy phải biết căn cơ của người học trò, có đủ khả năng chịu đựng sức dồn
ép đến chỗ tột cùng không, nhờ người bạn đồng hành khai thông để dẫn đến
chỗ ngộ đạo.
Đến câu chuyện của ông Tú tài Trương
Chuyết hỏi đạo ngài Thạch Sương Khánh Chư (806-888). Thiền sư Thạch Sương
hỏi: "Ông tên gì?" Ông Tú tài đáp: "Dạ con tên Trương Chuyết." Thiền sư
bảo: "Trong đây cái xảo (khéo) còn không có, huống là cái chuyết (vụng)."
Ông chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ như sau:
Quang minh tịch chiếu biến hà
sa
Phàm thánh hàm linh cộng ngã
gia
Nhất niệm bất sanh toàn thể
hiện
Lục căn tài động bị vân già.
Phá trừ phiền não trùng tăng
bệnh
Thú hướng chân như tổng thị tà
Tùy thuận chúng duyên vô quái
ngại
Niết-bàn sanh tử đẳng không
hoa.
Sáng soi lặng lẽ khắp hà sa
Phàm thánh hàm linh chung một
nhà
Một niệm chẳng sanh toàn thể
hiện
Sáu căn vừa động bị che lòa
Muốn trừ phiền não càng thêm
bệnh
Hướng đến chân như thảy đều tà
Tùy thuận các duyên không quái
ngại
Niết-bàn sanh tử thảy không
hoa.
Nghĩa là: Ánh sáng lặng lẽ chiếu soi khắp
hết. Phàm thánh và tất cả chúng hàm linh đều ở trong nhà của ta, tức là
nhà của Phật Đa Bảo. Một niệm không dấy lên thì cái quang minh tịch chiếu
hiện rõ ràng. Sáu căn vừa dấy động, thấy cảnh dấy niệm phân biệt, liền bị
che ngăn. Muốn trừ phiền não là thêm một lớp bệnh nữa, vì phiền não là
niệm dấy lên, nó là giả tướng hư ảo, tìm nó thì nó mất tăm mất dạng, biết
nó không thật thì trừ cái gì. Nếu cố tình trừ phiền não vì tưởng nó là
thật thì thêm một lớp bệnh. Nếu nhắm hướng về chân như thì đó là tà. Vừa
dấy niệm tìm chân như thì chân như ở ngoài mình rồi. Chân như là tâm thể
chân thật ngay nơi mình, chỉ cần đừng theo vọng tưởng thì chân như hiện.
Tìm chân như tức là quên cái thật nơi mình đi tìm cái giả, không phải tà
là gì? Chỉ có sống tùy thuận với mọi duyên thì không có gì ngăn trở. Sanh
tử và Niết-bàn cũng như hoa đốm giữa hư không, không có gì thật hết. Nếu
còn thấy hai bên là còn thấy tướng đối đãi, giả dối không thật.
Người tu hành phải biết rõ tất cả niệm
phân biệt hay dở, phải quấy v.v… đều là gốc của sanh tử. Cho nên khi sự
việc đến, tâm không dấy động, như gương soi ảnh, người tới thì hiện ảnh
người, vật tới hiện ảnh vật, người vật đi rồi gương vẫn trong sáng. Cũng
như tâm không dấy niệm thì không có gì chướng ngại. Đó là đạo vậy. Khi ấy
chúng ta mới nhận thấy rằng Niết-bàn sanh tử chỉ là một lối nói, còn nằm
trong đối đãi, chớ chưa phải đến chỗ cứu kính. Trong kinh Pháp Hoa đức
Phật nói "Những pháp Phật dạy hoặc Tam thừa hoặc Nhị thừa chẳng qua là hóa
thành, chớ không phải là bảo sở". Dù nói được Niết-bàn cũng là tạm thôi,
chưa phải là cứu kí?h. Cứu kí?h là không còn kẹt hai bên.
Sau đây là câu chuyện gia đình ông cư sĩ
Bàng Long Uẩn. Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói: "Nan, nan, nan! Thập
thạch du ma thọ thượng than." (Khó, khó, khó! Mười tạ dầu mè vuốt trên
cây). Nghĩa là: Đem mười tạ dầu mè vuốt trên cây làm một việc hết sức khó,
dầu mè thì trơn mà muốn trèo lên cây vuốt hết mười tạ dầu mè là chuyện khó
vô cùng. Long bà đáp lại: "Dị dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý." (Dễ dễ
dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư). Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: "Dã bất nan
dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy." (Cũng chẳng khó cũng chẳng
dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò).
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy, trên
phương tiện công phu tu hành, ông Long Uẩn thấy thật là khó, vọng tưởng là
cái gốc của sanh tử luân hồi, mà nó khởi liên tiếp không ngừng, buông bỏ
hết vọng tưởng là một việc hết sức khó khăn. Nhưng nếu mình thấy rõ cái gì
cũng là ý Tổ sư thì không còn khó nữa. Ông bảo là khó, Bà nói là dễ, đó là
còn hai bên, cho nên cô con gái kết thúc lại: Cũng không khó, cũng không
dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Để chỉ trong mọi hành động tâm thể đều
như, không đòi hỏi, không tính toán, tùy duyên hành động mà tâm không
loạn.
Thiền sư Huệ Hải cũng cùng một ý trên, khi
được hỏi: "Sự tu hành của Ngài như thế nào?" Sư bảo: "Đói thì ăn, mệt thì
ngủ." Người hỏi bảo: "Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người
thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?" Sư đáp: "Người
thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ, nghĩ
trăm việc, khác nhau ở chỗ đó." Có một số người không hiểu chỗ khác nhau
này, nên nói đói thì ăn nên tha hồ ăn, mệt thì ngủ nên tha hồ ngủ, bê tha
biếng nhác gọi đó là tu thiền, là lầm lẫn quá nặng.
Ông Bàng Long Uẩn lại có làm bài kệ:
Hữu nam bất thú
Hữu nữ bất giá
Đại gia đoàn biến đầu
Cộng thuyết vô sanh thoại.
Có con trai không cưới vợ
Có con gái không gả chồng
Cả nhà cùng đoàn tụ
Đồng nói lời vô sanh.
Như vậy trong nhà con trai con gái không
lập gia đình, không sanh con cái, cả nhà tụ họp lại nói lời vô sanh; vô
sanh trên hình thức và vô sanh trên tâm niệm. Cả gia đình ông Bàng Long
Uẩn đều được sanh tử tự tại, tự do, không có gì chướng ngại. Sở dĩ được
như vậy là do không kẹt ở hai bên, cho nên được chỗ vô sanh, nếu còn mắc
kẹt hai bên là còn ở chỗ sanh hóa.
Khi chúng ta ngồi thiền, vọng dấy lên thì
biết có vọng, vọng lắng thì biết không vọng. Như vậy vọng khởi vọng lặng
là khách, còn cái biết vọng thì thường hằng, là chủ. Chủ thì có mặt luôn
luôn. Hiện hữu rõ ràng, không sanh không diệt, không mắc kẹt ở hai bên có
không, còn mất v.v… Trong mọi phương pháp tu hành đức Phật đều nói có định
rồi mới có tuệ. Định là dừng vọng tưởng, vọng tưởng lặng rồi thì thể giác
sáng suốt của chính mình hiện bày, đó gọi là tuệ. Như vậy trăm ngàn pháp
môn Phật dạy đều gom về một mối, không có điều thứ hai, cứu kí?h không có
hai.
Hình ảnh chúng ta thường thấy trong các
chùa, ở phía sau nhà Tổ là hình Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài quảy trên vai một
chiếc giày, tại sao như vậy? Vì đó là hình ảnh cụ thể của giáo lý Thiền
tông hay giáo lý Đại thừa. Quảy trên vai là tượng trưng cho sự gánh vác
đảm đang, một chiếc giày là vượt ngoài đối đãi. Thông thường giày có một
đôi là còn hai bên, quảy một chiếc là vượt qua cái hai bên đó, bỏ cái
tương đối đi đến chỗ không hai. Cho nên khả năng gánh vác của Tổ là đem
con người đến chân lý tuyệt đối, không còn kẹt hai bên, thoát ra ngoài
vòng đối đãi. Từ thủy chí chung, Phật, Tổ đều nói như nhau. Phải vượt qua
cái đối đãi mới đến cái chân thật cứu kính, đó là thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện "Chỉ Ông Chủ"
hôm nay, chúng tôi xin kể một câu chuyện do chúng tôi vọng tưởng sau thời
gian nhập thất ba tháng để ví dụ: Có anh chàng trớ trêu nọ, để trước nhà
anh một bên là lọ mực đỏ một bên là lọ mực đen. Mỗi khi anh ra vào nhà,
anh phết lên mặt anh hoặc một vết mực đỏ hoặc một vết mực đen. Anh bôi mực
trên mặt hoài mà không chịu rửa mặt. Lâu ngày người ta nhìn vào mặt anh
thấy phân nửa đỏ phân nửa đen. Người ta gọi anh là chú mặt đỏ mặt đen và
quên tên thật của anh. Anh có một người bạn thân từ thuở nhỏ (lúc mười
hai, mười ba tuổi) đi xa về, người bạn gặp anh thì nhìn không ra, hỏi:
"Cái mặt chú mày sao lạ vậy?" Anh trả lời: "Cái mặt tôi như vầy, chớ có
chi lạ đâu." Người bạn nói: "Mặt của chú mày ngày xưa đâu có đỏ đen như
thế này." Anh nói: " Mặt của tôi đỏ đen như vậy chớ sao." Người bạn nói:
"Không phải vậy, tao chơi với chú mày lâu năm tao biết rõ, mặt thật của
chú mày hồi trước không phải đỏ và đen, đỏ và đen là tại chú mày bôi mực
vào đó. Bây giờ muốn có cái mặt thật như hồi xưa, chú mày đừng bôi mực vào
nữa, và chịu khó chùi rửa hết các vết mực đi, thì mới lộ được cái mặt thật
xưa nay của chú mày." Anh nghe có lý, từ đó không bôi mực vào mặt nữa, và
bắt đầu tẩy rửa các vết mực đi. Vì anh bôi mực vào mặt lâu ngày quá, nên
công phu tẩy rửa phải khó khăn nhọc nhằn. Nhưng ngày qua ngày, anh cố tình
tẩy rửa, màu đen đỏ nhạt dần, chỉ còn ửng ửng đỏ, thâm thâm đen. Anh rán
dùng mọi phương tiện rửa thật sạch hết các vết ửng thâm còn sót lại, cho
đến một hôm khi soi gương thì cái mặt thật của anh hiển bày.
Câu chuyện này kết thúc buổi nói chuyện
"Chỉ Ông Chủ" hôm nay của chúng tôi. Như thế là chúng tôi đã đưa quí vị từ
"Vào cổng nhà Thiền" bước "Vào cửa Không và "Chỉ Ông Chủ". Đây là trách
nhiệm và bổn phận của chúng tôi xong.
] |