TRÚC LÂM TỔ SƯ
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC
Dịch:
(Trên hội Trúc Lâm núi Yên Tử, chùa Long Động, đồng tử Tỳ-kheo Huệ Nguyên
khắc bản lại và thắp hương kính cẩn đề tựa.)
Chư
Phật ba thuở, các vị Tổ sư nhiều đời, vì một đại sự nhân duyên xuất hiện
ra đời: Cốt chỉ cho chúng sanh ngộ được Phật của chính mình, tròn đồng
thái hư không thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên thành. Bởi
vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị các Kinh Lục lừa gạt
mất một đời, săn đuổi theo cái thấy nghe, có lợi ích gì? Do chẳng rõ muôn
pháp như hoa đốm trong không, chỉ một tâm dựng lập. Kinh Kinh Lục Lục
trùng trùng điệp điệp, nhiều như lá trong rừng, số như cát biển, giấy mực
văn từ không thể kể hết. Dù nói tám muôn bốn ngàn (84.000) pháp môn, mỗi
môn trọn như người gỗ múa may, tên tuy khác mà thể vẫn đồng.
Tên khác là, phương tiện khai (mở) giá (đóng) có muôn ức Kinh Lục.
Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư. Người học thấu rõ một
thì muôn việc đều xong, đâu có nhiều thứ văn tự bìm sắn, ngôn ngữ chương
cú, đối đãi cơ quan kỳ đặc ấy vậy. Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu Dao, duy
chỉ một sự thật, chẳng dùng phương tiện quyền xảo. Vừa đến nước ta, Ngài
cởi trần không áo (thoát thể vô y) cầm cần câu không lưỡi, đi vào kinh
thành, dùng thần cơ ăn xong đập bát. Ý này cốt tìm được người pháp khí, để
chỉ dạy Thiền tông, chữ bát ( ) đã mở, hai tay trao cho.
Thế nào là trao cho? Nghĩa là “Bính Đinh đồng tử”. Lửa đã khắp người,
chẳng cần tìm bên ngoài, phải quan sát lại tánh mình (phản quan tự tánh).
Phật Phật chỉ truyền tâm ấn, Tổ Tổ thầm trao tâm ấn, đều khiến chúng sanh
ngộ Phật của mình. Ví như trong cây có lửa, lý này cũng vậy. Con người
được nói có tánh, tánh tức là Bồ-đề, vốn tự tròn đủ, chẳng từ nơi khác mà
được. Tin được chính mình là chữ bát ( ) đã mở, hai tay trao cho rồi
vậy. Lục này là Đại đức Tiêu Dao nói cho Thượng Sĩ Tuệ Trung. Thượng Sĩ
Tuệ Trung nói cho Điều Ngự Giác Hoàng đệ nhất Tổ Trúc Lâm. Điều Ngự Giác
Hoàng nói cho Đại sư Pháp Loa đệ nhị Tổ Trúc Lâm. Đại sư Pháp Loa nói cho
tôn giả Huyền Quang đệ tam Tổ Trúc Lâm. Tôn giả Huyền Quang nói cho tông
phái Trúc Lâm và Thiền tông khắp thiên hạ. Xưa qua, nay lại truyền trao
cho nhau.
Quyển Lục này là phương thuốc hay, khéo đối trị các bệnh, nhanh chóng đốn
ngộ thành Phật, thẳng suốt nguồn tâm, nhảy vọt vào biển giác, giết chết
vọng thức, phá sạch danh tướng, là tông không không; siêu Tam thừa, vượt
Phật thừa, là yếu chỉ thượng thượng.
Song Tỳ-kheo Huệ Nguyên tôi một phen xem quyển Lục này, chữ bát ( ) liền
mở toang, nói nín đều quên, tam không thông suốt. Tôi tịnh tọa tại sơn am,
cầm sách lên tán tụng rằng:
Thiền là tâm của Phật,
Giáo là mắt của Phật,
Pháp là thuốc của Phật.
Mắt xem tâm ngộ,
Bệnh lành thuốc bỏ,
Cởi trần không áo,
Thân an tự tại.
Đã được tự lợi,
Rộng khắp lợi tha,
Chí bám nhất tâm,
Làm hưng thịnh Tam Bảo.
Lý không một vật,
Sự có muôn thứ,
Tiếp ánh sáng,
Nối mùi hương,
Soi sáng kẻ trước,
Phấn phát người sau,
Gánh vác Phật pháp,
Làm rường cột nhà Phật.
Nguyện nắm vững ngọn đèn Tổ,
Mặt trời Phật sáng ngời.
Tôi khắc bản để lại, truyền lâu ức kiếp, gương xưa mãi sáng, tiếp nối ánh
sáng không cùng, khiến chúng sanh khắp thế giới đại thiên, cùng rõ thấu
pháp môn bất nhị, truyền bá trong nước được muôn đời, đồng chứng Phật quả
Nhất thừa. Canh khuya giờ tốt, xin chúc tán rằng:
Nghiệp vua vĩnh cửu,
Cùng đỉnh Linh Thứu vòi vọi hằng còn.
Đạo Tổ miên trường,
Đồng nguồn Yên Tử chảy mãi không dứt.
Cung kính đề tựa:
Đầu nẻo Trúc Lâm đưa đuốc tuệ
Trong nhà biển Thích thả thuyền từ.
Có duyên biết ngọc người Biện Hòa
Tâm nở giác hoa sanh Phật quả.
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai mươi bốn (1763), năm Quí Mùi, tiết đông, ngày
tốt khắc bản in lại.
Giảng:
Quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục nằm trong bộ “Trần Triều Dật Tồn Phật
Điển Lục”, đó là bộ Phật điển còn sót của đời nhà Trần. Trong bộ này gồm
có Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Tam Tổ Thực Lục...
“Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục” do Điều Ngự Giác Hoàng biên soạn, Thiền sư
Pháp Loa khắc bản in. Tập sách này rất quan yếu trong nhà Thiền, nhất là
Thiền tông Việt Nam.
Chư Phật ba thuở, các vị Tổ sư nhiều đời, vì một đại sự nhân duyên xuất
hiện ra đời: Cốt chỉ cho chúng sanh ngộ được Phật của chính mình, tròn
đồng thái hư không thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên thành.
Bởi vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị các Kinh Lục lừa
gạt mất một đời, săn đuổi theo cái thấy nghe, có lợi ích gì? Do chẳng rõ
muôn pháp như hoa đốm trong không, chỉ một tâm dựng lập. Kinh Kinh Lục Lục
trùng trùng điệp điệp, nhiều như lá trong rừng, số như cát biển, giấy mực
văn từ không thể kể hết. Dù nói tám muôn bốn ngàn (84.000) pháp môn, mỗi
môn trọn như người gỗ múa may, tên tuy khác mà thể vẫn đồng.
Tên khác là, phương tiện khai (mở) giá (đóng) có muôn ức Kinh Lục.
Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư. Người học thấu rõ một
thì muôn việc đều xong, đâu có nhiều thứ văn tự bìm sắn, ngôn ngữ chương
cú, đối đãi cơ quan kỳ đặc ấy vậy. Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu Dao, duy
chỉ một sự thật, chẳng dùng phương tiện quyền xảo. Vừa đến nước ta, Ngài
cởi trần không áo (thoát thể vô y) cầm cần câu không lưỡi, đi vào kinh
thành, dùng thần cơ ăn xong đập bát. Ý này cốt tìm được người pháp khí, để
chỉ dạy Thiền tông, chữ bát ( ) đã mở, hai tay trao cho.
Tỳ-kheo Huệ Nguyên là vị Thiền sư ở thời Hậu Lê, Ngài đọc được bản ngữ lục
này rồi phát nguyện in lại nên viết lời tựa. Lời tựa chúng ta đang đọc đây
không phải của Tuệ Trung Thượng Sĩ, hay những vị đồng thời với Ngài, mà là
một vị Thiền sư sau này cách Ngài khoảng năm trăm năm từ thế kỷ mười ba
đến thế kỷ mười tám. Như vậy lời tựa này có sau quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục đã in ở đời Trần tới năm trăm năm. Nhưng tại sao người đời sau lại
thích quí bản Ngữ Lục này mà in tái bản?
Đây, tôi trích từng đoạn để chỉ cho quí vị thấy rõ ý của người sau khi
lãnh hội được yếu chỉ:
-
Đầu tiên Ngài dẫn: “Chư Phật ba thuở, các vị Tổ sư nhiều đời, vì một đại
sự nhân duyên xuất hiện ra đời.” Ngài nói từ Phật cho tới Tổ, ra đời chỉ
có một duyên lớn là: “Cốt chỉ cho chúng sanh ngộ được Phật của chính
mình.” Nhân duyên lớn mà Phật Tổ ra đời là chỉ cho chúng sanh nhận được
Tánh Phật có sẵn nơi mình. Phật tánh đó như thế nào?
-
“Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư, người người vốn đủ, mỗi mỗi viên
thành.” Tánh Phật có sẵn nơi mỗi người không thừa không thiếu, trùm khắp
tất cả, ai ai cũng đều có đủ, không phải riêng một cá nhân nào; đó là
trọng tâm như tôi đã nói. Phật và Bồ-tát thương chúng sanh phải khô cổ
đắng miệng chỉ dạy nhiều năm tháng, để cho mọi người biết và nhận ra Tánh
Phật nơi mình. Bởi mỗi người chúng ta đã có sẵn Tánh Phật, nên tu thì
thành Phật. Nếu không có Tánh Phật thì dù có dụng công tu bao lâu cũng
không thể thành Phật. Cũng như trong đá trong gỗ, nếu không có sẵn tánh
lửa thì dù có cọ hay chọi cũng không ra lửa. Song, vì nó có tánh lửa sẵn,
nên cọ hay chọi liền sanh lửa. Trong đá trong gỗ có sẵn tánh lửa, nếu
không cọ không chọi, để nguyên thì kiếp kiếp đời đời vẫn là đá là gỗ,
không có lửa, nhưng nếu khéo cọ khéo chọi thì đá gỗ liền phát ra lửa. Cũng
vậy ở tất cả mỗi người chúng ta có sẵn Tánh Phật, nếu chúng ta khéo tu
khéo thanh lọc gạn bỏ vô minh vọng tưởng thì Tánh Phật sẽ hiển lộ.
Đức Phật, trước đó Ngài cũng là con người như chúng ta. Song, Ngài khéo tu
nên đã thành Phật. Chúng ta cũng là con người, nếu chúng ta khéo tu thì sẽ
thành Phật như Ngài. Đó là một lẽ thật mà đức Phật đã kinh nghiệm qua, đã
chứng được, nên Ngài chỉ dạy cho đồ đệ sau này. Đồ đệ sau này là chư Tổ,
các ngài cũng đã kinh nghiệm qua, cũng đã chứng được, tuy không bằng Phật,
nhưng các ngài cũng tiếp tục con đường đó để chỉ dạy cho người sau nữa.
Vậy, người tu Phật mục đích cuối cùng là thành Phật, không ai nói tôi tu
Phật để tôi thành Tiên, cũng không ai nói tôi tu Phật để tôi được sanh lên
cõi Trời. Trọng tâm tu Phật là để thành Phật, vì đã có sẵn Tánh Phật, bây
giờ tu để Tánh Phật nơi mình hiển lộ sáng tỏ; khi Tánh Phật sáng tỏ hiển
lộ tròn đầy tạm gọi là thành Phật. Chúng sanh thì mê, Phật thì giác. Chúng
ta vì mê (vô minh) chạy theo vọng tưởng điên đảo, nên làm chúng sanh, bây
giờ chúng ta dừng không chạy theo vọng tưởng điên đảo, hết mê, đó là chúng
ta trở về với Tánh Phật. Hai hướng rõ như ban ngày, không có gì bí ẩn. Mục
đích của Phật của Tổ ra đời giống nhau không khác. Bây giờ chúng ta ngồi
đây học để tu, mục đích cũng không khác. Nhưng nghe nói tu thành Phật thì
ngán, vì thấy quá xa vời, không gần gũi với mình. Sự thật, bây giờ chúng
ta tu là để thành Phật, rồi sau chỉ dạy cho mọi người tiến lên con đường
đó. Thế nên trên đường tu không có mục đích nào khác hơn là nhận ra Tánh
Phật nơi mình. Tánh Phật trùm khắp ai cũng có đầy đủ, không người nào
không có. Đó là hướng duy nhất của tất cả người tu. Thế mà có những vị
Tăng Ni được hỏi: “tu có hy vọng thành Phật không”, họ trả lời: “Tu thì tu
chớ biết khi nào thành Phật!” Như vậy họ đủ lòng tin chưa? Họ có tin rằng
mình có sẵn Tánh Phật không? Chính câu trả lời đó bộc lộ tâm tư của họ, tu
mà không hy vọng thành Phật. Không hy vọng thành Phật thì tu làm gì? Họ tu
cầm chừng, tu lấy có, tu gieo nhân, tới đâu hay tới đó. Đây là khuyết điểm
lớn của người tu. Chúng ta tu là phải khẳng định tu để thành Phật. Nỗ lực
tu, thành công viên mãn tùy điều kiện đủ thì thành, chưa đủ thì chưa
thành, chớ không có lối nào khác hơn nữa.
“Bởi vì chúng sanh không ngộ chân Phật của mình, nên bị các Kinh Lục lừa
gạt mất một đời, săn đuổi theo cái thấy nghe, có lợi ích gì?” Vì không
nhận ra Tánh Phật (Chân Phật) có sẵn nơi mình nên bị Kinh điển của Phật và
Ngữ lục của Tổ lừa gạt mất một đời. Quí vị có thấy Phật Tổ lừa gạt quí vị
không? Chúng ta thường nghe nói chư Phật ba đời chưa từng nói dối, chẳng
những ba đời mà vô số đời cũng chưa từng nói dối, sao đây dám nói Phật, Tổ
(đệ tử Phật) lừa gạt mình? Tôi dẫn chứng cho quí vị thấy:
Kinh Phật lừa gạt như thế nào? Đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy những phẩm
đầu Phật đề cao Tri kiến Phật, tới phẩm Tùng Địa Dũng Xuất nói vô số
Bồ-tát ở phương khác đến lễ Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu bằng lòng cho
chúng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi Ta-bà này siêng tu tinh tấn,
giữ gìn, đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, thời chúng con sẽ
ở trong cõi đây mà rộng nói đó.” Phật bảo: “Thiện nam tử! Thôi đi, chẳng
cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta-bà của ta tự có chúng đại
Bồ-tát đông như cát sông Hằng và quyến thuộc cũng vô số, những vị đó có
thể sau khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này.” Lúc Phật nói
lời đó, cõi Ta-bà trong tam thiên đại thiên cõi nước, đất đều rúng nứt,
trong đó có vô lượng nghìn muôn ức vị đại Bồ-tát đồng thời vọt ra... Chúng
ta hiểu sao về câu chuyện này? - Quá huyền bí khó hiểu! Bồ-tát đâu ở dưới
đất vọt lên đông quá vậy? Có phải Phật kỳ thị Bồ-tát ở phương khác, nên
nói: “thôi đi, chẳng cần các ông hộ trì kinh này”, mà cho các Bồ-tát cõi
Ta-bà từ đất vọt lên trì tụng kinh Pháp Hoa? Nếu chúng ta không thông hiểu
lý kinh, đọc chuyện này thấy quá huyền bí không tin là chuyện thật. Như
vậy là bị kinh gạt. Theo lý mà hiểu thì Bồ-tát là giác, mà giác là trí
tuệ; Bồ-tát từ phương khác đến là trí tuệ ngoài mình, trí tuệ ngoài mình
tức là sự hiểu biết học ở thầy bạn hay sách vở, nhà Phật gọi là trí hữu
sư, trí này nhận từ bên ngoài vào, nó không thể bảo hộ được Tri kiến Phật,
nên chư Bồ-tát phương khác tới xin bảo hộ kinh Pháp Hoa Phật không chấp
nhận. Vô sư trí là cái biết do tu, tâm thanh tịnh, sáng ra mới bảo hộ được
kinh Pháp Hoa, vì nó chính là tâm thể của mỗi người nên Phật hứa khả. Hiểu
như thế thì không bị kinh gạt, còn nếu hiểu theo hình tướng thì bị kinh
gạt. Như vậy, nếu người nào tu mà cứ mong nhờ bên ngoài thì không bao giờ
ngộ được ông Phật nơi mình, mà phải thắp sáng tự tâm thì mới ngộ được ông
Phật nơi mình. Cho nên nói: Tại không ngộ được chân Phật mới bị kinh lừa.
Ngữ lục của Tổ lừa gạt như thế nào? Đọc Thiền Sư Trung Hoa chúng ta thấy
Chu Kim Cang (Đức Sơn Tuyên Giám) khi chưa là Thiền sư, Ngài là Giảng sư
chuyên giảng kinh Kim Cang. Ngài họ Chu nên gọi là Chu Kim Cang. Khi Ngài
đầu phục Thiền sư Long Đàm hết lòng hầu hạ. Một đêm tối trời, Ngài đứng
hầu thầy trong thất cho tới khuya. Thiền sư Long Đàm bảo:
-
Đêm đã khuya sao chẳng xuống?
Ngài kính chào bước ra, lại trở vào, thưa:
-
Bên ngoài tối đen.
Thiền sư Long Đàm thắp đèn cầy đưa Ngài. Ngài toan tiếp lấy, Thiền sư Long
Đàm liền thổi tắt. Ngay đó Ngài đại ngộ liền lễ bái. Thiền sư Long Đàm
hỏi:
-
Ngươi thấy cái gì?
Ngài thưa:
-
Từ nay về sau chẳng còn nghi lời nói chư lão Hòa thượng trong thiên hạ.
Đầu lưỡi của các vị Hòa thượng lừa là Hòa thượng nào? - Là các vị Thiền
sư. Chu Kim Cang đã thấy được lẽ thật, không còn bị các Thiền sư lừa nữa,
nên được truyền tâm ấn và đổi hiệu là Đức Sơn. Thường thường trong nhà
Thiền, Thiền tăng hỏi đông, thì Thiền sư đáp tây, Thiền tăng hỏi nam thì
Thiền sư đáp bắc, hỏi bên này đáp bên kia, đó là cái thuật khai ngộ của
các Thiền sư, các ngài rất thường dùng nên Thiền tăng Thiền khách bị lừa
rất nhiều. Ngài Đức Sơn ngay đây không còn bị lừa nữa. Đó là ý nghĩa Kinh
Lục lừa gạt mất một đời.
“Săn đuổi theo cái thấy nghe có lợi ích gì?” Chạy theo sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp không có lợi ích. Tại sao? Vì sáu trần là tướng vô thường
sanh diệt, đuổi bắt cái vô thường sanh diệt thử hỏi cuối cùng có lợi ích
gì? Ai đó tuy được thỏa mãn những ngoại trần mà họ khao khát, nhưng tới
bảy tám mươi tuổi thì tất cả những cái họ được đó cũng đều bại hoại, cho
nên nói là vô ích. Còn cái chân thật của chính mình hiện có đây thì không
biết. Như vậy cuộc đời là vô thường, chính bản thân mình vô thường, vạn
vật cũng vô thường; những cái ưa thích mà mình được thọ hưởng hợp lại cũng
thành một khối vô thường. Ngay nơi cái thân vô thường này có chân Phật là
cái không vô thường mà chúng ta không thức tỉnh nhận ra thì uổng đi một
kiếp người. Thế nên, tu cốt nhận cho ra cái thật ở ngay nơi cái giả. Ngay
trong cái giả có cái thật, thế mà chúng ta chỉ đuổi theo cái giả quên đi
cái thật, cho nên bao nhiêu năm tháng chìm trong mê muội. Nay chúng ta
thức tỉnh mới thấy cái thật quí giá vô cùng. Nhận được cái thật thì sống
không vô ích, nếu không thì cuộc đời trở thành vô nghĩa.
“Do chẳng rõ muôn pháp như hoa đốm trong không, chỉ một tâm dựng lập.” Chữ
“Pháp” là chỉ cho vạn vật ở cõi đời này, nó giống như hoa đốm trong hư
không; khi trời nắng gắt nhìn ra ngoài trời, mắt chấp chóa chúng ta dụi
mắt, mở ra nhìn thấy hoa đốm nhảy nhót lăng xăng. Hoa đốm lăng xăng từ đâu
có? Có thật không? - Vì nắng gắt khiến mắt lòa nên thấy có hoa đốm nhảy
nhót lăng xăng. Cũng như muôn pháp muôn vật hiện có trước mắt chúng ta là
do tâm mê mà thấy có.
“Kinh Kinh Lục Lục trùng trùng điệp điệp, nhiều như lá trong rừng, số như
cát biển, giấy mực văn từ không thể kể hết.” Tổng số kinh trong Đại Tạng
có trên năm ngàn quyển, còn Ngữ lục cũng mấy trăm quyển, rất nhiều, bây
giờ nếu ngồi học cho hết thì chừng nào mới hết? Già khụ cũng chưa xong.
Chúng ta học chỉ nắm được phần căn bản để tu hành, trở về cái chân thật
thì không mắc kẹt ở Kinh Lục, ở văn tự nhiều như cát biển đó.
“Dù nói tám muôn bốn ngàn pháp môn, mỗi môn trọn như người gỗ múa may, tên
tuy khác mà thể vẫn đồng.” Hồi xưa thì nói người gỗ múa, bây giờ nói
“rôbô” (người máy) múa, nó lăng xăng chạy nhảy. Tuy lăng xăng làm những
công tác khác nhau, nhưng chung qui đều do bộ máy bên trong phát ra điều
khiển. Cũng vậy mỗi pháp môn tuy thực hành khác nhau nhưng mục đích chỉ có
một.
“Tên khác là, phương tiện khai giá có muôn ức Kinh Lục.” Phương tiện khai
là mở, giá là ngăn đóng. Đồng là kinh của Phật nói, song, có kinh Phật nói
trắng ra gọi là khai, có kinh nói ẩn gọi là giá. Thí dụ kinh Kim Cang
không chỉ thẳng thể chân thật, mà chỉ phá chấp gọi là giá. Còn kinh Pháp
Hoa, kinh Lăng Nghiêm chỉ thẳng thể chân thật gọi là khai. Vì vậy nói kinh
Phật có khai giá khác nhau. Ngữ lục cũng vậy, có Tổ chỉ thẳng cho người
ngay đó trực nhận, có Tổ thì nói ẩn để cho người tìm.
“Thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.” Dù cho muôn ngàn cách
nói khác nhau, nhưng cũng trở về một gốc là chỉ cho mọi người nhận ra tánh
giác thênh thang như thái hư nơi mình. Như bây giờ ở Việt Nam Phật giáo
phát triển rõ nhất là Tịnh độ và Thiền. Đứng về mặt truyền bá thì khác
nhau. Tịnh độ chuyên về niệm Phật, niệm cho đến nhất tâm bất loạn từ một
đến bảy ngày thì Phật A-di-đà hiện tiền. Còn Thiền Nguyên thủy thì tu quán
Tứ niệm xứ, tu từ một đến bảy ngày mà tâm không rời pháp quán, người đó sẽ
chứng từ Tu-đà-hoàn cho tới A-la-hán. Còn Thiền tông thì chư Tổ thường có
lời khẳng định rằng căn không đuổi theo ngoại cảnh từ một đến bảy ngày thì
kiến tánh. Như vậy, lời nói, phương tiện tuy có sai khác, nhưng kết quả
không khác, đó là tâm thanh tịnh trí tuệ sáng, nhận ra Tánh Phật nơi mình,
nên nói “thể đồng là, chỉ trở về chỗ gốc, một tánh thái hư.”
“Người học thấu rõ một thì muôn việc đều xong, đâu có nhiều thứ văn tự bìm
sắn, ngôn ngữ chương cú đối đãi cơ quan kỳ đặc ấy vậy.” Người tu nếu ngộ
được Một Tâm là thấu đáo tất cả, tức là thông suốt hết những phương tiện
tu của những tông phái khác, không phải mất thì giờ nghiên cứu. Không còn
quan trọng những sự lạ lùng kỳ đặc, cho nên thấu một thì tất cả đều thấu.
Ở đây không hướng dẫn quí vị học cho nhiều mà chỉ hướng dẫn quí vị đi sâu
vào việc chuyên tu, một mình chuyên tu tới nơi tới chốn về sau sẽ biết
được tất cả phái khác.
“Nhưng Thượng tổ Đại đức Tiêu Dao, duy chỉ một sự thật, chẳng dùng phương
tiện quyền xảo.” Đây nói về thầy của Thượng Sĩ là Thiền sư Tiêu Dao(1).
Trong luật dùng chữ Đại đức để chỉ cho vị Tăng đức cao lớn hơn hết. Chẳng
hạn như Đại đức Nàrada là một vị Cao tăng của Phật giáo Tích Lan. Đức cao
lớn hơn hết được gọi là Đại đức, chớ không phải Hòa thượng. Đại đức là
danh từ chỉ cho những vị đức lớn. Ngày nay chúng ta lại dùng chỉ cho những
vị Tỳ-kheo mới thọ đại giới vài ba năm, còn những vị thọ đại giới trên hai
mươi năm gọi là Thượng tọa, trên bốn mươi năm gọi là Hòa thượng. Như vậy
Thượng tọa lớn hơn Đại đức, nhỏ hơn Hòa thượng. Đó là lối sắp xếp theo từ
ngữ tạm chớ không có lẽ thật. Thế mà, nếu mình được gọi là Thượng tọa, Hòa
thượng, có ai kêu là Đại đức thì
(1) Thiền sư
Tiêu Dao, Thiền sư Nhất Tông, Thiền sư Giới Minh, Thiền sư Giới Viên ngang
với cư sĩ Ứng Thuận đệ tử Thiền sư Tức Lự (Theo Thiền Uyển Tập Anh). Song
theo bản đồ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử thì Thiền sư Tiêu Dao là đệ tử cư
sĩ Ứng Thuận, trong Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang cũng nhận như
thế. Như vậy khẳng định Thiền sư Tiêu Dao là người Việt Nam. Thiền sư Huệ
Nguyên lầm Thiền sư Tiêu Dao là người Trung Hoa. Dưới đây tôi giảng theo
lời tựa của Thiền sư Huệ Nguyên.
không chịu,
buồn lắm! Điều đó cho chúng ta thấy chúng ta hiểu Phật pháp rất là nông
cạn. Ngài Huệ Nguyên nhấn mạnh Thiền sư Tiêu Dao làm có một việc là chỉ
thẳng sự thật không dùng phương tiện.
“Vừa đến nước ta Ngài cởi trần không áo, cầm cần câu không lưỡi, đi vào
kinh thành, dùng thần cơ ăn xong đập bát.” Mấy từ này nghe trái với lối
dùng chữ của Việt Nam. Thường thường ở Việt Nam ai là kẻ phản bội thì bị
gọi “con người ăn xong đá bát”. Tại sao Thiền sư Tiêu Dao là bậc đạo cao
đức trọng mà ngài Huệ Nguyên dám nói “dùng thần cơ ăn xong đập bát”? Nói
như vậy có vô lễ có phản bội tiền bối không? Đây tôi giải thích cho quí vị
hiểu, vì Ngài mới đến nước ta Ngài cởi trần không áo (thoát thể vô y).
Thiền tông nói đến Thể chân thật là chỗ không còn che đậy, nếu còn che đậy
thì chưa bày Thể chân thật. Cởi trần không áo là hiện bày Thể chân thật,
nếu còn mặc áo là còn che đậy, Thể chân thật chưa hiện bày. “Cầm cần câu
không lưỡi.” Cầm cần câu là để câu cá, nhưng cần câu không lưỡi mắc mồi
vào đâu và câu cái gì? Thiền sư nói pháp cốt chỉ cho người nhận ra Thể
chân thật, không để cho người dính mắc một cái gì hết. Giống như câu mồi
nhử cá, cá đớp mồi ăn mà không bị mắc lưỡi câu. Ngài hướng dẫn người tu
theo Ngài, mà không cho người dính kẹt một pháp nào, nên nói cầm cần câu
không lưỡi. “Đi vào kinh thành” là vào xứ Việt Nam. “Dùng thần cơ ăn xong
đập bát.” Con người chúng ta có cái bệnh là làm việc gì cũng muốn lưu lại
dấu vết, giống như người ăn cơm xong rửa bát cất kín trong tủ. Ngài là
người làm xong việc không để lại dấu vết. Nghĩa là hướng dẫn cho người tu
xong rồi thôi, không để lại một cái gì làm cho người ta dính mắc với pháp
đã dạy.
“Ý
này cốt tìm được người pháp khí, để chỉ dạy Thiền tông.” Cái ý chỉ ra Thể
chân thật mà không dính không kẹt, cốt là tìm người có khả năng thừa nhận
chánh pháp. Nhà Thiền gọi người đó là Pháp khí; pháp là chánh pháp, khí là
món đồ; món đồ đựng chánh pháp. Tìm được người này mới chỉ dạy Thiền tông.
“Chữ bát ( ) đã mở hai tay trao cho.” Nhà Thiền dụ hai chân mày là chữ
bát. Con người ai cũng thấy cái mũi của kẻ khác, mà không thấy cái mũi của
mình; nó ở sờ sờ trước mặt mà không thấy. Cái mũi biểu trưng cho chân Phật
của mỗi người, lúc nào cũng sờ sờ đó mà người không nhận ra. Giống như cái
mũi là cái thiết yếu cho sự sống, nằm ngay trên mặt người mà người không
thấy nó. Hai chân mày ở hai bên trên mũi; hai chân mày nằm dang ra, sờ
xuống là đụng mũi. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa người tu nương lời nói ý
chỉ của Tổ, nhận ra Thể chân thật nơi mình, đó là chữ bát đã mở. “Hai tay
trao cho” tức là trao truyền tâm ấn. Nhưng trao tâm ấn là trao cái gì?
Chẳng có gì để trao, chẳng qua là trò nhận ra Thể chân thật như thầy đã
nhận, nên thầy ấn chứng cho trò, gọi đó là trao truyền.
Thế nào là trao cho? Nghĩa là “Bính Đinh đồng tử”. Lửa đã khắp người,
chẳng cầu tìm bên ngoài, phải quan sát lại tánh mình (phản quan tự tánh).
Hỏi thế nào là trao cho? Đáp: “Bính Đinh đồng tử.” Ý này phát xuất từ câu
chuyện:
Một hôm Thiền sư Pháp Nhãn hỏi:
-
Giám viện Tắc sao chẳng vào thất?
Tắc thưa:
-
Hòa thượng đâu không biết con ở chỗ Thanh Lâm đã có chỗ thâm nhập.
-
Ông thử vì ta cử xem?
-
Con hỏi thế nào là Phật, Thanh Lâm đáp:
-
Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
-
Lời khéo ngại ông hiểu lầm, nên nói lại xem?
-
Bính Đinh thuộc về lửa, đem lửa đi xin lửa, như con là Phật lại đi tìm
Phật.
-
Giám viện quả nhiên hiểu lầm rồi.
Tắc nổi xung, bỏ ra đi, giữa đường tự xét: Pháp Nhãn là thiện tri thức của
năm trăm người, há lại gạt ta sao? Bèn trở lại tái tham vấn. Pháp Nhãn
bảo:
-
Ông hỏi ta, ta sẽ vì ông đáp.
-
Thế nào là Phật?
-
Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.
Tắc liền đại ngộ.
Giám viện Tắc ngộ như thế nào? - Ở câu nói của Thiền sư Thanh Lâm ông chỉ
hiểu mà chưa đủ lòng tin. Khi ông đến với Thiền sư Pháp Nhãn, Ngài biết
ông hiểu mà chưa dám khẳng định, nên bảo hỏi lại để Ngài nói một lần nữa
cho ông ấy dứt nghi ngờ. Đó gọi là hai tay trao cho. Trao cái gì? - Có cái
gì để trao đâu? Đây giải thích: lửa đã khắp người chẳng cầu tìm bên ngoài,
phải quan sát lại tánh mình.
Phật Phật chỉ truyền tâm ấn, Tổ Tổ thầm trao tâm ấn, đều khiến chúng sanh
ngộ Phật của mình. Ví như trong cây có lửa, lý này cũng vậy. Con người
được nói có tánh, tánh tức là Bồ-đề, vốn tự tròn đủ, chẳng từ nơi khác mà
được. Tin được chính mình là chữ bát ( ) đã mở, hai tay trao rồi vậy.
Ở
trước tôi đả giảng ý nghĩa của câu “chữ bát đã mở hai tay trao cho”. Tới
đây Ngài nói chư Phật chư Tổ đều nhằm vào chỗ chủ yếu là truyền tâm ấn
khiến cho mọi chúng sanh ngộ được Phật của mình. Giống như lý nghĩa trong
cây có lửa. Thiền sư Việt Nam là Khuông Việt có làm bài kệ:
Mộc trung nguyên hữu hỏa,
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hỏa,
Toản toại hà do manh.
Tạm dịch:
Trong cây vốn có lửa,
Có lửa, lửa lại sanh.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát làm gì sanh.
Ngài nói trong thân cây vốn có lửa sẵn, bởi có lửa sẵn nên dùi cọ lửa mới
phát ra. Nếu trong cây không có lửa, dùi cọ làm sao lửa phát ra? Nơi cây,
chúng ta dùi cọ thấy lửa phát ra thì biết trong cây sẵn có lửa. Cũng vậy,
mỗi người chúng ta có sẵn Tánh Phật. Bởi có Tánh Phật, nên khéo tu khéo
dẹp phiền não thì Tánh Phật sáng ra. Nếu không có Tánh Phật sẵn thì lấy gì
mà sáng? Không sáng, nói tu thành Phật làm sao thành? Vì vậy, biết rõ nơi
mình có Tánh Phật, bởi có Tánh Phật nên khéo tu thì sẽ thành Phật. Quí vị
đã tin mình có Tánh Phật chưa? Chắc chưa tin! Nếu tin chắc chắn rồi thì tu
chắc chắn sẽ thành Phật, mặc dù thời gian không định trước là bao lâu.
Chúng ta tu không có làm chuyện hoang đường, cốt chỉ tìm cho ra cái chân
thật. Cái chân thật đó thiết yếu, quí hơn tất cả danh lợi vàng bạc ngọc
ngà... ở thế gian. Tại sao quí? Vì vàng bạc ngọc ngà thuộc tướng vô
thường, còn Thể chân thật ở nơi mình không bị vô thường chi phối, nó thanh
tịnh sáng suốt không sanh không diệt. Khi tìm ra Thể chân thật thì mới
biết mình là “cái gì”? Bây giờ nói mình thế này, nói mình thế kia là lối
nói ảo tưởng, không đúng lẽ thật. Cái thân xác này tồn tại mấy chục năm,
rã tan rồi đi đâu? Ngày nay còn tồn tại thì nó chứa đựng máu huyết da thịt
gân xương... thì nói là ta. Mai kia nó tan hoại, chừng đó cái ta ở đâu? Ta
là cái gì? Chẳng lẽ ta là những miếng thịt thúi? Ta là những khúc xương
hôi? Bây giờ nó tồn tại được che đậy bên ngoài dễ coi thì gọi là ta, nói
ta một cách thật khôi hài! Vậy mà tự lấy làm hài lòng thỏa mãn! Ngay trong
cái tạm bợ đó có Thể chân thật không hề sanh diệt mà chúng ta không biết,
chỉ biết cái ta giả dối tạm bợ, đó là mê. Nhận ra cái ta chân thật mới là
người giác. Mê, giác là ở chỗ đó. Tôi hỏi quí vị, quí vị thích cái ta nào?
Thích cái ta bằng da thịt hôi hám, lăng xăng lộn xộn này phải không? Chỉ
biết có nó, còn cái ta chân thật thì lơ là không biết tới. Như vậy là mình
tự phản bội mình; tôn trọng cái giả tạm không đáng giá, bỏ quên cái chân
thật đáng quí.
Mỗi lần nhìn cảnh chết chóc, sao tôi thấy con người mê lầm đáng thương. Ai
kia mới vừa tới lui, qua lại, ăn nói xử sự khéo léo mọi người ưa mến, giờ
đây tắt thở, nằm đó, những cái xử sự khéo léo, khôn ngoan lịch duyệt đâu
rồi? Nếu không mai táng kỹ lưỡng, mà để chán chường chừng năm ba ngày trên
mặt đất thì mọi người đi ngang qua đó phải bịt mũi. Vô lý làm sao! Bây giờ
chúng ta ăn nói khôn ngoan, xử sự khéo léo, làm việc giỏi giang, khi tắt
thở nằm sáu bảy ngày ai thấy cũng ghê sợ. Vậy cái khối xương thịt nằm sáu
bảy ngày ai thấy cũng ghê sợ đó có phải là ta không? Thế mà muôn người như
một chỉ biết cái đó thôi! Chúng ta là những người tu, do không chấp nhận
sự mê lầm đó, nên mới vô chùa cạo đầu tu. Vậy tu để làm gì? - Để tìm cho
ra cái ta chân thật, thế nên mới miệt mài ngày này qua tháng nọ, ngồi yên
lặng để tìm cho ra cái chân thật. Đó là mục đích của sự tu hành. Không
phải chúng ta vào chùa, cơm ngày hai bữa lơ lơ lửng lửng, chờ tới ngày
chết thành cái thây thúi, mà phải đem hết tâm lực phăng tìm cho ra cái ta
thật. Rồi sau đó nhắc nhở chỉ dạy cho những người chưa biết tìm ra như
chúng ta, đó là truyền pháp lợi sanh. Nếu đi tu mà chúng ta không biết ta
là cái gì, truyền pháp lợi sanh là truyền cái gì, chỉ biết học lóm nói cho
vui tai thì chẳng có lợi ích. Cái giá trị của người tu là ở chỗ đó. Hiểu
cho thật sâu thấy cho thật rõ, chúng ta mới thấy trách nhiệm của người tu
không phải thường. Ai mà lơ lửng, tu cầm chừng, tu cho có tu, để cho qua
ngày tháng, thật là uổng một đời hy sinh cho cái không đáng hy sinh. Chúng
ta phải xả thân mạng không chút luyến tiếc, để tìm cho ra cái ta chân thật
của chính mình và sau đó chỉ dạy cho mọi người.
Ngài Huệ Nguyên nói: “Tin được chính mình là chữ bát ( ) đã mở hai tay
trao cho rồi vậy.” Tin được chính mình có Thể chân thật không còn nghi
ngờ, đó là chữ bát đã mở hai tay trao cho.
Truyền tâm ấn chưa? - Hai tay trao cho là được truyền tâm ấn. Tâm ấn chỉ
truyền được khi nào chúng ta tự tin chắc ở nơi chúng ta có ông Phật thật
đang ngự trong chúng ta. Không còn nghi ngờ không còn tìm kiếm ở đâu nữa,
một bề sống với ông Phật của mình, đó là được “chữ bát đã mở hai tay trao
cho”.
Lục này là Đại đức Tiêu Dao nói cho Thượng Sĩ Tuệ Trung. Thượng Sĩ Tuệ
Trung nói cho Điều Ngự Giác Hoàng Đệ nhất Tổ Trúc Lâm. Điều Ngự Giác Hoàng
nói cho Đại sư Pháp Loa Đệ nhị Tổ Trúc Lâm. Đại sư Pháp Loa nói cho Tôn
giả Huyền Quang Đệ tam Tổ Trúc Lâm. Tôn giả Huyền Quang nói cho tông phái
Trúc Lâm và Thiền tông khắp thiên hạ. Xưa qua nay lại, truyền trao cho
nhau.
Ngữ lục này do Đại đức Tiêu Dao nói cho Thượng Sĩ, Thượng Sĩ nói cho Sơ Tổ
Trúc Lâm. Từ đó thầy dạy cho trò khắp cả tùng lâm.
Quyển Lục này là phương thuốc hay khéo đối trị các bệnh, nhanh chóng đốn
ngộ thành Phật, thẳng suốt nguồn tâm, nhảy vọt vào biển giác, giết chết
vọng thức, phá sạch danh tướng, là tông không không, siêu Tam thừa, vượt
Phật thừa là yếu chỉ thượng thượng.
Theo lời tán thán của Thiền sư Huệ Nguyên thì quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục này là phương thuốc hay khéo đối trị được các bệnh. Ai có bệnh gì
đọc hay nghe giảng Ngữ lục thì các bệnh đều hết. Ngay đó “nhanh chóng đốn
ngộ thành Phật”, tức là nhận ra Tánh Phật nơi mình. Do nhận nơi mình có
Tánh Phật, nên tin sâu sớm muộn gì mình cũng thành Phật không còn nghi
nữa. “Thẳng suốt nguồn tâm” là đi thẳng vào nguồn tâm tức là nhận ra cái
chân thật. “Nhảy vọt vào biển giác”, là thấy được nguồn tâm, nhận ra được
Tánh Giác. “Giết chết vọng thức, phá sạch danh tướng.” Tất cả vọng thức
đều chết sạch, danh tướng cũng không còn, ấy là “tông không không”. Tại
sao vọng thức chết, danh tướng không còn gọi là “tông không không”? Không
không là trong không còn chấp tâm, ngoài không còn chấp cảnh. Người thế
gian thì nặng chấp về thân và cảnh. Còn người biết tu thì nặng chấp tâm,
chấp thức, vì họ nghe Phật dạy thân này do tứ đại giả hợp mà thành, không
thật, họ tin như thế, song họ cứ cho cái hiểu biết, nghĩ suy tính toán là
tâm mình, họ chấp chặt vào đó. Ngữ lục này đập chết những vọng thức và phá
sạch những danh tướng bên ngoài. Vì sạch danh tướng chết vọng thức, hoặc
không vọng thức không danh tướng nên nói là không không. “Siêu Tam thừa,
vượt Phật thừa là yếu chỉ thượng thượng.” Ba thừa là Thanh văn thừa, Duyên
giác thừa và Bồ-tát thừa. Theo kinh Pháp Hoa thì ba thừa này là những hóa
thành không phải là chỗ cứu kính. Chỗ cứu kính là Phật thừa, nên Ngài nói
siêu Tam thừa vượt Phật thừa là yếu chỉ Thượng thượng thừa, hoặc gọi là
Tối thượng thừa hay Thượng thượng thừa mà Thiền tông chủ trương. Vì chỉ
thẳng nơi mỗi người có sẵn Tánh Phật để cho chúng ta nhận ra, chớ không
theo thứ tự quanh co, nên mới nói đốn ngộ, nói siêu việt. Đó là trọng tâm
tu để thành Phật theo tinh thần của Thiền tông.
Song, Tỳ-kheo Huệ Nguyên tôi một phen xem quyển lục này, chữ bát ( ) liền
mở toang, nói nín đều quên, tam không thông suốt. Tôi tịnh tọa tại sơn am,
cầm sách lên tán tụng rằng:
Ngài Huệ Nguyên thuật lại khi Ngài đọc quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục,
liền nhận ra nơi mình có chân Phật nên nói “chữ bát ( ) liền mở toang,
nói nín đều quên”, tức là Ngài không còn mắc kẹt hai bên nữa và thông suốt
cả tam không. Tam không nói theo tinh thần Bát-nhã thì tu pháp bố thí
không thấy có người thí, không thấy có kẻ thọ thí, không thấy có vật để bố
thí; tức là ngã, nhân, pháp đều không. Ta, người, vật ba cái đều không.
Bởi thông suốt được lẽ đó nên ngồi tịnh tại sơn am, cầm sách lên tán tụng
rằng:
Thiền là tâm của Phật,
Giáo là mắt của Phật,
Pháp là thuốc của Phật.
Mắt xem tâm ngộ,
Bệnh lành thuốc bỏ,
Cởi trần không áo,
Thân an tự tại.
Đã được tự lợi,
Rộng khắp lợi tha,
Chí bám nhất tâm,
Làm hưng thịnh Tam Bảo.
Lý không một vật,
Sự có muôn thứ,
Tiếp ánh sáng,
Nối mùi hương,
Soi sáng kẻ trước,
Phấn phát người sau,
Gánh vác Phật pháp,
Làm rường cột nhà Phật.
Nguyện nắm vững ngọn đèn Tổ,
Mặt trời Phật sáng ngời.
Ngài Huệ Nguyên nói “Thiền là tâm của Phật”. Vì Thiền tông chỉ thẳng cho
Thiền sinh trực ngộ tâm chân thật của mình, tâm chân thật đó là Phật, nên
nói Thiền là tâm của Phật. “Giáo là mắt của Phật.” Giáo lý Phật nói ra ở
bên ngoài người, chúng ta đọc hiểu nên thuộc về mắt của Phật. “Pháp là
thuốc của Phật.” Nhằm bệnh cho thuốc, chúng sanh bị bệnh tham, sân, si...
ứng dụng pháp Phật để tu thì hết bệnh nên nói Pháp là thuốc của Phật. Đó
là ý nghĩa Thiền là tâm, giáo là mắt, pháp là thuốc.
“Mắt xem tâm ngộ.” Mắt xem giáo lý, tâm ngộ Thiền; tức là người tu nhờ xem
giáo lý mà thấu suốt được Thiền. “Bệnh lành thuốc bỏ.” Thầy thuốc chế ra
thuốc là để trị bệnh, bây giờ bệnh đã lành không cần thuốc nữa nên bỏ
không dùng. Chừng đó “cởi trần không áo, thân an tự tại”. Khi hết vô minh
pháp Phật không cần nữa. Thể chân thật hiện bày sờ sờ, thân tâm an ổn tự
tại không còn bận rộn vướng mắc vật gì.
“Đã được tự lợi, rộng khắp lợi tha, chí bám nhất tâm, làm hưng thịnh Tam
Bảo.” Khi tự mình đã được lợi ích rồi, liền nghĩ tới việc làm lợi ích cho
người, vì vậy mà chí luôn luôn an trú nhất tâm để làm cho Tam Bảo hưng
thịnh.
“Lý không một vật, sự có muôn thứ.” Đứng về mặt thể (lý) thì không có một
vật, vì thể không hình không tướng, nên nói không một vật. Về mặt sự thì
có muôn hình vạn trạng. “Tiếp ánh sáng” là “truyền đăng tục diệm”, biển
chữ này được treo trên Thiền đường Tăng. “Nối mùi hương” là “đức lưu
phương”, biển chữ này được treo trên Thiền đường Ni. Đây là tông chỉ của
Thiền viện Trúc Lâm, quí vị phải hiểu cho rõ để đừng quên bổn phận và
trách nhiệm của mình. “Soi sáng kẻ trước, phấn phát người sau.” Đối với
người trước thì cầm đuốc soi cho họ thấy đường đi, đối với người sau thì
thúc giục họ cùng đi cùng tiến. “Gánh vác Phật pháp, làm rường cột nhà
Phật.” Đó là bổn phận của người đã được tự lợi thì phải nghĩ tới lợi tha.
“Nguyện nắm vững ngọn đèn Tổ, mặt trời Phật sáng ngời.” Ngài Huệ Nguyên
nguyện nắm vững ngọn đèn Tổ và mặt trời Phật luôn luôn sáng ngời ở thế
gian, cho chúng sanh hết lầm mê, vì là trọng trách của người tu Phật.
Tôi khắc bản để lại, truyền lâu ức kiếp gương xưa mãi sáng, tiếp nối sáng
không cùng, khiến chúng sanh khắp thế giới đại thiên, cùng rõ thấu pháp
môn bất nhị, truyền bá trong nước được muôn đời, đồng chứng Phật quả Nhất
thừa. Canh khuya giờ tốt xin chúc tán rằng:
Ngài Huệ Nguyên nói sở dĩ Ngài khắc bản Ngữ lục của Tuệ Trung Thượng Sĩ là
mong quyển Ngữ lục này truyền bá lâu đến ức kiếp, vì đây là gương sáng của
người xưa để lại. Chúng ta phải tiếp nối để ánh sáng đó không dứt, khiến
cho chúng sanh khắp thế giới đại thiên cùng thấu rõ Thiền. Ngày nay chúng
ta cũng đang tiếp nối công việc của ngài Huệ Nguyên là làm sáng tỏ Thiền
tông. Có như thế mới không cô phụ, không tủi hổ với người xưa. Vì Tuệ
Trung Thượng Sĩ, Điều Ngự Giác Hoàng... cũng như ngài Huệ Nguyên đều muốn
truyền bá ánh sáng của Thiền tông còn mãi trong đời nhất là ở nước nhà.
Nhược bằng không thì bao nhiêu cái hay cái quí của người xưa, người sau
không thấy, không nghiên cứu, không truyền bá, đó là cái lỗi lớn.
Nghiệp vua vĩnh cửu,
Cùng đỉnh Linh Thứu vòi vọi hằng còn.
Đạo Tổ miên trường,
Đồng nguồn Yên Tử chảy mãi không dứt.
Người sống trong thời quân chủ, làm việc gì cũng cầu nguyện cho ngôi vua
bền vững. Sau đó Ngài cầu nguyện cho dòng Thiền được Phật truyền từ núi
Linh Thứu, đạo của chư Tổ, nguồn Thiền Yên Tử dài lâu chảy mãi không dứt.
Cung kính đề tựa:
Đầu nẻo Trúc Lâm đưa đuốc tuệ,
Trong nhà biển Thích thả thuyền từ.
Có duyên biết ngọc người Biện Hòa,
Tâm nở giác hoa sanh Phật quả.
Theo ngài Huệ Nguyên thì người tu chúng ta có trách nhiệm là phải nêu cao
ngọn đuốc Thiền Trúc Lâm cho mọi người được sáng. Luôn luôn đem lòng từ bi
để đánh thức mọi người, cũng như chèo thuyền đưa người qua sông. Khéo tạo
mọi phương tiện mọi thắng duyên để cho mọi người biết hòn ngọc Biện Hòa.
Ngọc Biện Hòa xuất xứ từ chuyện cổ Trung Hoa. Ông họ Hòa được hòn ngọc quí
đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói: “Đá, không phải
ngọc.” Vua cho ông Hòa nói dối sai chặt chân trái. Khi vua Vũ Vương nối
ngôi, ông lại đem hòn ngọc ấy dâng. Vua cũng sai thợ ngọc xem, thợ ngọc
cũng nói: “Đá, không phải ngọc.” Vua Vũ Vương cũng cho ông nói dối, sai
chặt luôn chân phải. Đến khi vua Văn Vương lên ngôi ông Hòa ôm hòn ngọc,
khóc ở chân núi suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt. Vua biết được việc
này, sai người đến hỏi. Ông Hòa thưa: “Lão khóc đây không phải khóc vì bị
chặt chân, mà khóc vì ngọc quí mà người ta cho là đá, đó là cái đau khổ
của lão nên lão khóc.” Vua nghe nói, ngạc nhiên bèn cho người lấy viên
ngọc vô thử, quả là viên bích ngọc. Khi vua nhận ra viên ngọc quí thì Biện
Hòa đã cụt hết hai chân! Để thấy, viên ngọc ẩn trong đá có người biết, lấy
đem tới dâng, mà vua không thèm nhận lại còn hành phạt chặt chân! Cũng
vậy, tất cả chúng ta, ai cũng có hòn ngọc quí mà không biết, có người chỉ
cho cũng không thèm nhận, như trường hợp Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu
cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài sẽ thành Phật.” Vậy
mà có người chống cự hoặc đánh đập lại Ngài mà Ngài vẫn cứ làm. Hiểu vậy
mới thấy người xưa biết được của quí, dù khổ mấy cũng đem chỉ dạy cho mọi
người, dù mình có chuốc lấy tai họa cũng cam chịu không trách không hại
lại. Bây giờ Tăng Ni chúng ta có đi giáo hóa chỉ dạy đạo lý cho người, mà
bị đánh hay chửi thì buồn chán, chớ không được như ông Biện Hòa không buồn
giận vì bị chặt chân, chỉ buồn vì có hòn ngọc quí mà người ta không biết.
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ hai mươi bốn (1763) năm Quí Mùi, tiết đông, ngày
tốt khắc bản in lại.
Ngài Huệ Nguyên là người đã ngộ đạo thấy quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục
có giá trị, muốn làm lợi ích cho người sau nên cho khắc bản in lại vào mùa
đông, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ hai mươi bốn (1763).
] |