TRẦN TRIỀU
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC
Dịch:
Lược dẫn bản đồ Thiền phái.
Từ
đức Phật Thích-ca Mâu-ni của chúng ta đem “Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn
diệu tâm” trao cho tôn giả Đại Ca-diếp, lần lượt truyền trao đến Đại sư
Đạt-ma là hai mươi tám (28) đời.
Tổ
Đạt-ma sang Đông độ (Trung Hoa) truyền cho Đại sư Thần Quang, dưới Thần
Quang truyền sáu đời, đến Đại sư Thần Hội.
Chính trong thời gian ấy, chánh pháp truyền vào đất nước ta. Không biết
người được truyền trước là ai, chỉ biết Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền sư
Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tông, kế trưởng lão Định Hương, Đại sư
Viên Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ, lần lượt truyền trao, nhưng tên tuổi lúc ẩn
lúc hiện, khó nhận ra manh mối.
CHIA LÀM BA TÔNG:
1)
Tông Trúc Lâm của tôi, đã khắc trong bản đồ, khỏi phiền ghi đủ.
2)
Tông Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hòa thượng Nhiệm Tàng, Hòa thượng
Nhiệm Tàng truyền cho cư sĩ Nhiệm Túc, đến nay tông này đã chìm ẩn, không
rõ sự thừa kế.
3)
Tông Hòa thượng Mật Thiển, không biết Ngài đắc pháp với ai? Ngài truyền
cho đại vương Chân Đạo, đến nay tông này cũng chìm ẩn.
Ngoài ra, còn có cư sĩ Thiên Phong từ Chương Tuyền đến, đồng thời với Ứng
Thuận, tự xưng thuộc tông Lâm Tế, truyền cho Quốc sư Đại Đăng, Hòa thượng
Nan Tư. Đại Đăng truyền cho Hoàng Đế Thánh Tông, Quốc sư Liễu Minh, Thường
Cung, Huyền Sách... Huyền Sách truyền cho Phả Trắc..., nay cũng lu mờ,
không còn sáng tỏ.
Ối! Thiền tông suy thạnh, có thể nói được sao! Nay lược nêu ra các tông
trong Thiền môn để lưu lại đời sau, hầu mong học giả biết Thiền có tông để
học, không phải tự ý bày đặt ra đó vậy.
Giảng:
Lược dẫn bản đồ Thiền phái.
Từ
đức Phật Thích-ca Mâu-ni của chúng ta đem “chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn
diệu tâm” trao cho tôn giả Đại Ca-diếp, lần lượt truyền trao đến Đại sư
Đạt-ma là hai mươi tám đời.
“Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm” là những từ mà nhiều người thắc
mắc thưa hỏi. Nay tôi giải thích theo chữ nghĩa cho quí vị hiểu. Chánh
pháp là pháp chân thật do bậc giác ngộ nói ra, nhãn là con mắt, tạng là
kho. Pháp chân thật là cái kho con mắt của mọi người. Tại sao? Vì trong
kinh A-hàm ghi những người được Phật dùng chánh pháp để giáo hóa, họ giác
ngộ, tán thán rằng: “Con như người mù được sáng, như kẻ cúi được
ngưỡng...” Như vậy, chánh pháp của Phật giống như con mắt sáng, dù là mù,
nhưng khi nghe chánh pháp rồi liền được sáng mắt. Mù là chỉ cho si mê. Kho
chánh pháp của Phật là con mắt sáng của thế gian. Niết-bàn diệu tâm là tâm
nhiệm mầu không sanh không diệt, nguyên chữ Phạn là Nirvàna, Trung Hoa
dịch là vô sanh. Vậy chánh pháp của Phật là kho con mắt sáng, còn tâm chân
thật của người là vô sanh. Đức Phật trao phó cho Ma-ha Ca-diếp là Tổ thứ
nhất, Tổ Ma-ha Ca-diếp truyền xuống Tổ A-nan, là Tổ thứ hai, lần lượt
truyền trao tới Tổ thứ hai mươi tám là Bồ-đề-đạt-ma.
Tổ
Đạt-ma sang Đông độ (Trung Hoa) truyền cho Đại sư Thần Quang, dưới Thần
Quang truyền sáu đời, đến Đại sư Thần Hội.
Chính trong thời gian ấy, chánh pháp truyền vào đất nước ta. Không biết
người được truyền trước là ai, chỉ biết từ Thiền sư Thiền Nguyệt. Thiền sư
Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tông, kế trưởng lão Định Hương, Đại sư
Viên Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ, lần lượt truyền trao, nhưng tên tuổi lúc ẩn
lúc hiện, khó nhận ra manh mối.
Qua đoạn này chúng ta biết ngài Huệ Nguyên không đọc được quyển Thiền Uyển
Tập Anh nên Ngài không biết manh mối truyền trao của chư Tổ, chỉ biết các
vị: Thiền Nguyệt, Nguyễn Thái Tông, Trưởng lão Định Hương, Đại sư Viên
Chiếu, Thiền sư Đạo Huệ, mà không biết gốc từ đâu. Đó chẳng qua là Ngài
không đủ duyên gặp quyển Thiền Uyển Tập Anh, không đọc được nên không
biết. Ngày nay chúng ta gặp được quyển Thiền Uyển Tập Anh, nên biết rõ
dòng truyền trao này. Trong quyển Thiền Sư Việt Nam tôi dẫn dịch từ quyển
Thiền Uyển Tập Anh thì những vị này thuộc phái Thiền Vô Ngôn Thông. Như
vậy, ngài Vô Ngôn Thông qua Việt Nam ở chùa Kiến Sơ xiển dương Thiền tông,
ngài Cảm Thành được truyền thừa. Rồi từ ngài Cảm Thành lần lượt truyền
trao đến các vị này.
Chia làm ba tông:
1.
Tông Trúc Lâm của tôi, đã khắc trong bản đồ, khỏi phiền ghi đủ.
2.
Tông Thiền sư Vương Chí Nhàn truyền cho Hòa thượng Nhiệm Tàng, Hòa thượng
Nhiệm Tàng truyền cho cư sĩ Nhiệm Túc, đến nay tông này đã chìm ẩn, không
rõ sự thừa kế.
3.
Tông Hòa thượng Nhật Thiển, không biết Ngài đắc pháp với ai? Ngài truyền
cho Đại vương Chân Đạo, đến nay tông này cũng chìm ẩn.
Ngoài ra, còn có cư sĩ Thiên Phong từ Chương Tuyền đến, đồng thời với Ứng
Thuận, tự xưng thuộc tông Lâm Tế, truyền cho Quốc sư Đại Đăng, Hòa thượng
Nan Tư. Đại Đăng truyền cho Hoàng đế Thánh Tông, Quốc sư Liễu Minh, Thường
Cung, Huyền Sách... Huyền Sách truyền cho Phả Trắc... nay cũng lu mờ,
không còn sáng tỏ.
Ối! Thiền tông suy thạnh, có thể nói được sao! Nay lược nêu ra các tông
trong Thiền môn để lưu lại đời sau, hầu mong học giả biết Thiền có tông để
học, không phải tự ý bày đặt ra đó vậy.
Thiện chí của ngài Huệ Nguyên là muốn cho người sau tin Thiền có truyền
thừa từ gốc đến ngọn hẳn hoi, chớ không phải chuyện mơ hồ không căn cứ.
Nhưng rất tiếc là thời của Ngài sách vở chưa sưu tầm được nên thiếu. Bây
giờ chúng ta có được sách vở khá đầy đủ. Ngài Huệ Nguyên biết được giá trị
của quyển Ngữ lục này, muốn truyền bá mãi mãi không dứt, cho người sau
được lợi ích, nên Ngài in lại và làm bản đồ này nói về Tuệ Trung Thượng Sĩ
đời Trần. Ngài chỉ có tài liệu truyền thừa từ Thiền sư Thông Thiền Tức Lự,
Ứng Thuận, Tiêu Dao, Tuệ Trung, Trúc Lâm, Pháp Loa, Huyền Quang. Sau ngài
Huyền Quang, cuối thế kỷ mười ba trở về sau không có tài liệu ghi, nhưng
tới đầu thế kỷ mười bảy thì có những vị Thiền sư như Hương Hải là người
được Thiền sư Viên Cảnh, Viên Khoan giáo hóa, sau Ngài khôi phục lại Thiền
phái Trúc Lâm. Chỗ này có nhiều người thắc mắc: tại sao phái Thiền Trúc
Lâm chết yểu, chỉ thừa kế có ba bốn đời rồi bị thất truyền? Chúng ta phải
hiểu rằng, phái Thiền Trúc Lâm tựa vào thế vua quan nhà Trần xây dựng giáo
hội Thiền Trúc Lâm. Khi nhà Trần suy yếu rồi mất, nhà Hồ lên thay, kế đó
nhà Minh bên Tàu sang xâm lăng, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, chiến thắng
lập ra triều đình nhà Lê. Nhà Lê sợ con cháu nhà Trần khôi phục ngôi vua,
nên sợ Phật giáo đời Trần, mới lấy Nho giáo chỉ đạo chánh trị. Đó là triều
đại trọng Nho khinh Phật. Vì thế nên các Thiền sư mới ẩn vào núi rừng để
tu, không phô bày truyền bá nữa. Do đó hệ phái Trúc Lâm thấy dường như
mất, nhưng không phải mất hẳn. Vì ẩn truyền nên cuối đời Lê khi Nam Bắc
phân tranh, ở đàng trong chúa Nguyễn nêu ra đường lối tu Thiền, thỉnh các
Thiền sư Trung Hoa sang thì lúc đó các Thiền sư Việt Nam ẩn cư xuất hiện.
Vậy mới thấy thời cơ thuận tiện cho việc giáo hóa thì các Ngài xuất hiện,
không tiện thì ẩn, chớ không mất.
] |