HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ
(TRẦN TUNG: 1230 - 1291)
Dịch:
Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương (Trần Liễu), là anh
cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, hoàng đế
Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Lúc nhỏ, Thượng Sĩ nổi tiếng bẩm chất cao sáng thuần hậu. Được cử trấn giữ
quân dân đất Hồng Lộ, hai phen giặc Bắc xâm lăng, Ngài chống ngăn có công
với nước, lần lượt thăng chức Tiết độ sứ giữ cửa biển Thái Bình. Đó là
Ngài vì người vậy.
Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi còn để chỏm, Ngài
đã mến mộ cửa Không. Sau Ngài đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá
Phước Đường. Ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng ngày,
Ngài lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Ngài lui
về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng lẫn với
thế tục (hòa quang đồng trần), Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái,
nên hay làm hưng thịnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ được hàng sơ cơ, người
đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tánh tùy phương
tiện khi hiện khi ẩn, trọn không có tên thật.
Vua Thánh Tông nghe danh Ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào cửa khuyết. Ngài
đối đáp với vua đều là những lời siêu thoát thế tục. Nhân đó, vua Thánh
Tông tôn Ngài làm sư huynh, tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài vào
cung thăm, Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Dự tiệc, Ngài gặp thịt cứ
ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu được thành
Phật?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật,
Phật chẳng cần làm anh. Thái hậu không nghe cổ đức nói: ‘Văn-thù là
Văn-thù, Giải thoát là Giải thoát’ đó sao?”
Thái hậu qua đời, nhà vua làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân lễ khai đường,
vua thỉnh những vị danh đức các nơi, theo thứ lớp mỗi vị thuật bài kệ ngắn
để trình kiến giải. Kết quả thảy đều quến sình ủng nước, chưa có chỗ tỏ
ngộ. Nhà vua lấy quyển tập đưa Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một mạch bài tụng
tự thuật rằng:
Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.
Nhà vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:
Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.
Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.
Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời
bằng bài kệ:
Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.
Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi vua bệnh nặng, Thượng Sĩ khấp
khểnh về kinh thăm, nhưng đến nơi vua đã qui tiên rồi.
Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa
xuất gia, gặp tuần tang của Đinh Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng
Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy
lời nói thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm hỏi
rằng:
“Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?”
Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:
“Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng người kia
thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có
giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.” Thượng
Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy:
Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
*
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.
Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên như thế, vấn đề
tội phước đâu đã rõ ràng.”
Thượng Sĩ lại dùng kệ để giải rõ:
Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc.
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?
Tôi thưa: “Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại
thế nào?”
Thượng Sĩ cười không đáp. Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ để ấn
định đó:
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.
*
Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?
Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì biết.” Tôi biết môn
phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông
chỉ”, Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi
khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong,
tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.
Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn
uy đức. Ngài bàn huyền nói diệu, trong lúc gió mát trăng thanh, những hàng
thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch
hạnh thật khó lường được.
Sau Ngài bệnh ở Dưỡng Chân Trang, chẳng ở trong phòng thất. Kê một chiếc
giường gỗ ở giữa nhà trống, Ngài nằm theo thế kiết tường, nhắm mắt mà
tịch. Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt
ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ
thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động chân tánh ta.” Nói
xong, Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Bấy giờ là ngày mùng
một tháng tư năm Tân Mẹo, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291) đời vua
Trần Nhân Tông.
Tôi hân hạnh được làm đệ tử gần gũi của Ngài, có làm bài tụng “Thắp Hương
Đền Ơn”, không chép lại đây.
Sau khi tôi được truyền nối pháp, mỗi khi khai đường thuyết pháp, tự nhớ
đến tứ trọng ân, nhất là ân pháp nhũ khó đền. Tôi sai họa sĩ vẽ chân dung
của Ngài, để được cúng dường, tự thuật bài tụng để tán thán. Đề rằng:
Lão cổ chùy này
Người khó diễn tả
Thước nách Lương Hoàng
Chuông xe Thái Đế.
Hay vuông hay tròn
Hay dày hay mỏng
Biển pháp một mắt
Rừng thiền ba góc.
CÁC HÀNG MÔN ĐỆ TÁN TỤNG
-
Đệ tử nối pháp Trúc Lâm Đại Đầu-đà tán:
Trông đó càng cao
Dùi đó càng cứng.
Bỗng dưng ở sau
Nhìn đó ở trước.
Đây mới gọi là
Thiền của Thượng Sĩ.
-
Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Pháp Loa cúi đầu kính cẩn tán:
Á!
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành.
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh.
Chao!
-
Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Bảo Phác cúi đầu kính cẩn tán:
Linh Sơn tự nắm tay
Nhai tủy lão Hồ trọc
No rồi mớm cháu con
Chồn cáo hóa sư tử.
Gặp trường nói nín nhàn
Trăng tẩm nước sông thu
Muốn biết toàn vị mặn
Trả chuột già cho hắn.
-
Đệ tử Tông Cảnh cúi đầu kính cẩn tán:
Thiền thầy ta con quì một chân
Bờ dốc buông tay tâm như như.
Trên đầu cột phướn nấu quả chùy
Bỗng nhiên cỡi ngược lừa ba cẳng.
Năm trước tặng ta trâu đất rống
Ngày nay ngựa gỗ hí trả Ngài.
Trâu sắt đầu nhỏ sừng co quắp
Đêm về húc vỡ núi Tu-di.
Thảnh thơi nhảy thẳng hang rồng dữ
Cướp được san-hô quí một cành
Thần biển nâng lên sáng trời đất
Na-tra nổi giận uy đức mờ.
Ha! Ha! Ha! Cũng rất kỳ
Dương Xuân Bạch Tuyết hòa rất ít
Một mức sau cùng hội thế nào?
Án-tố-rô, tố-rô, tất-rị, tất-rị.
-
Đệ tử cư sĩ hiệu Thiên Nhiên, Vương Như Pháp cúi đầu kính cẩn tán:
Thật kỳ đặc! Thật kỳ đặc!
Trâu đất rống trăng không kẹt mắc
Viết ra sáu bảy trí tuệ môn
Chớ nói núi bút cùng rừng mực.
-
Trúc Lâm thị giả đệ tử Pháp Cổ cúi đầu kính cẩn tán:
Xưa Quốc sư, nay Thượng Sĩ
Cùng một trượng phu chia đây kia.
Tác giả Tỳ-da đứng dưới gió
Lão ngốc Bàng Công một trái cà.
Giáo giáp ba huyền phá lao quan
Trên chớp lông mày thôi nghĩ suy.
Màn mắt che mất núi Tu-di
Trong miệng nuốt ngang nước biển cả.
Dưới hàm rồng dữ đục ly châu
Phóng sợi tơ sen cột cọp lớn.
Pháp vương vương pháp mặc tung hoành
Nắm tay chung đường quên mi tớ.
Rảnh rang đùa gẩy đàn không dây
Làng múa thôn ca câu: La lý!
Lý la la! La lý lý!
Chẳng thuộc cung thương giác vũ rành
Thầy tôi nối tiếng ông Như Điệu
Phong thái khác thường lại đẹp thêm.
Tử Kỳ mất rồi tri âm ít
Bao điều cao rộng ở nơi nao?
Người sau tiếp vang nối lời rỗng
Nhận được như xưa lại chẳng phải
Ôi!
-
Trúc Lâm thị giả Tuệ Nghiêm kính cẩn tán:
Lò hồng điểm tuyết
Tháng chạp hoa sen.
Chẳng bút khá viết
Chẳng lời khá phô.
Chọi đá nháng lửa
Điện xẹt chớp sáng.
Chẳng tìm khá tìm
Chẳng chốn khá chốn.
Đó là Thượng Sĩ
Khó lường cơ Ngài
Hòa cùng ánh sáng
Đồng với tục tăng.
Tỳ-da nắm tay
Hoành Dương kết mày
Vòng vàng lùm gai
Nuốt đó thấu đó.
Con trâu con khỉ
Đánh vào rừng Thiền
Vo tròn cọp dữ
Quỉ thần vườn pháp
Miệng trống rao truyền
Xuân vào cành vàng
Cổ chùy! Cổ chùy!
(Bớt bài tán của Điệu Pháp Đăng)
Giảng:
Phật giáo Việt Nam có những nét đặc biệt khác với Phật giáo Ấn Độ và Trung
Hoa; nét đặc biệt nhất là ở Ấn Độ và Trung Hoa những nhà truyền giáo đều
là những vị xuất gia, còn ở Việt Nam có những nhà truyền giáo là cư sĩ, đó
là cái khác của Phật giáo Việt Nam. Tại sao như vậy? Phải chăng Phật giáo
Việt Nam đi sai lệch với chánh pháp của Phật? - Chánh pháp của Phật lấy sự
giác ngộ làm nền tảng. Có giác ngộ mới làm Phật làm Bồ-tát, chưa giác ngộ
thì không thể làm Phật làm Bồ-tát. Chính vì Phật giáo Việt Nam lấy giác
ngộ làm nền tảng, nên không đặt trách nhiệm truyền giáo ở người giới phẩm
cao mà đặt trách nhiệm ở người giác ngộ. Người giác ngộ cho dù tại gia hay
xuất gia cũng có thể truyền giáo được, chớ không phải dành riêng cho người
xuất gia. Vì vậy mà ngài Tuệ Trung là một cư sĩ, vẫn được chư Tăng tới
thưa hỏi học đạo và tôn kính như bậc thầy. Ngược lại, bây giờ thì cư sĩ
tìm tới người xuất gia học đạo và quí trọng như bậc thầy. Như vậy có lỗi
có trái đạo lý không? Thông thường người thọ giới thấp theo học với người
thọ giới cao, đức lớn. Song đứng về mặt giới tướng thì người tu tại gia
chỉ thọ có năm giới hoặc thêm thập thiện hay Bồ-tát giới. Còn người xuất
gia, nếu là Sa-di thì thọ mười giới, nếu là Tỳ-kheo thì thọ hai trăm năm
mươi giới và năm mươi tám giới Bồ-tát. Như vậy, người xuất gia thọ giới
nhiều hơn người cư sĩ, tại sao lại quí trọng và đến học đạo với một cư sĩ?
Điều này nếu nhìn với con mắt thường theo giới luật thì trái. Nhưng Phật
giáo Việt Nam đặt trọng tâm ở giác ngộ, vì giác ngộ là nền tảng căn bản
thành Bồ-tát thành Phật. Phật và Bồ-tát đi giáo hóa làm lợi ích cho chúng
sanh, có khi mang hình thức xuất gia như Bồ-tát Địa Tạng, có khi mang hình
thức cư sĩ như Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Phổ Hiền. Dù Bồ-tát mang hình thức
nào chúng ta cũng thành kính lễ lạy. Vậy chúng ta lạy là lạy cái gì? - Lạy
sự giác ngộ.
Ví
dụ tổ tiên chúng ta có hòn ngọc quí để lại con cháu, đến đời cha chúng ta
sanh con muộn, nên khi già gần chết mà chưa dám trao hòn ngọc cho con, cất
giấu ở một nơi. Đến khi chúng ta lớn khôn, trong gia tộc kể lại rằng: “Tổ
tiên có hòn ngọc quí để lại đến đời cha cháu, trước khi chết vì thấy cháu
còn nhỏ dại nên cất một nơi.” Nghe nói vậy, chúng ta mới tìm người thân
biết chỗ cất, nhờ chỉ cho chúng ta lấy hòn ngọc. Giả sử trong gia tộc
chúng ta có người đạo cao đức trọng, mà không biết chỗ cha chúng ta cất
hòn ngọc, chúng ta có tìm người ấy không? Và, người cư sĩ bình thường quen
thân với cha chúng ta biết chỗ cất hòn ngọc, có thể giúp chúng ta tìm ra
hòn ngọc, chúng ta có tới nhờ người ấy không? - Nhờ. Vậy muốn lấy lại hòn
ngọc của cha mình, dù người hướng dẫn lấy hòn ngọc là cư sĩ bình thường,
không phải là bậc đạo cao đức trọng, chúng ta vẫn đến nhờ người ấy giúp và
coi người ấy là một ân nhân đáng quí trọng. Đứng trên mặt tìm hòn ngọc quí
thì, dù cho người đạo cao đức trọng, mà không biết chỗ và không biết cách
lấy hòn ngọc, chúng ta cũng không thể nhờ được. Còn người cư sĩ bình
thường biết chỗ để hòn ngọc và biết cách lấy, chúng ta vẫn đến nhờ, và xem
người ấy là một ân nhân đáng quí trọng. Hiểu việc này chúng ta mới thông
cảm tinh thần Phật giáo Việt Nam, những cư sĩ ngộ đạo làm thầy các vị
Tỳ-kheo. Nếu không, sẽ lấy làm ngạc nhiên thắc mắc sao tu mà xem thường
giới đức. Như đã nói giác ngộ là nền tảng căn bản của đạo Phật, nên người
ở bất cứ hình thức nào mà giác ngộ thì được quí trọng, vì quí trọng ở giác
ngộ chớ không phải quí trọng ở hình thức. Nếu không giác ngộ thì dù hình
thức nào cũng không có giá trị và nếu giác ngộ thì dù hình thức nào cũng
có giá trị. Xưa, Duy-ma-cật là một cư sĩ, các vị Tỳ-kheo, các vị Bồ-tát
vẫn tới tham vấn hỏi đạo. Hiểu chỗ này chúng ta mới nắm vững chỗ trọng yếu
của đạo Phật, để không thắc mắc khi học tới hành trạng Tuệ Trung Thượng
Sĩ.
Thượng Sĩ sanh năm 1230, tịch năm 1291. Lịch sử của Ngài có nhiều nghi
vấn. Ở đây chúng ta chỉ lấy đạo lý của Ngài làm gốc, còn phần tra cứu lịch
sử Ngài chính xác thì đây là một vấn đề đang thảo luận chưa ngã ngũ. Có
những quyển sử ghi Ngài tên Trần Quốc Tảng con Trần Hưng Đạo, lại có những
quyển sử ghi Ngài tên Trần Tung anh cả của Trần Hưng Đạo. Chỗ này khiến
chúng ta có chút nghi vấn: Trần Hưng Đạo tên là Trần Quốc Tuấn, nếu Ngài
là anh của Trần Quốc Tuấn, lẽ ra Ngài cũng phải là Trần Quốc Tung, vì Trần
Liễu đặt tên con lót chữ Quốc ở giữa. Sao tên Ngài không lót chữ Quốc mà
chỉ là Trần Tung? Điều này đứng về lịch sử có nhiều học giả bàn rằng: Xưa
các vương hầu có nhiều dòng con, mỗi dòng con đặt tên có khác một chút,
thế nên không tra khảo được. Nhưng dữ kiện lịch sử cho biết Ngài là con
của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương (Trần Liễu) anh cả của Hoàng hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm, mà Hoàng hậu Thiên Cảm là chị của Trần Hưng Đạo. Qua mối
liên hệ này chúng ta kết luận Ngài là con Trần Liễu, anh Trần Hưng Đạo.
Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương (Trần Liễu), là anh
cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, hoàng đế
Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.
Lúc nhỏ, Thượng Sĩ nổi tiếng bẩm chất cao sáng thuần hậu. Được cử trấn giữ
quân dân đất Hồng Lộ, hai phen giặc Bắc xâm lăng, Ngài chống ngăn có công
với nước, lần lượt thăng chức Tiết độ sứ giữ cửa biển Thái Bình. Đó là
Ngài vì người vậy.
Đoạn này dẫn lược về công của Thượng Sĩ đối với đất nước đối với toàn dân.
Trong thời đó Ngài là một ông tướng giữ đất Hồng Lộ và làm Tiết độ sứ để
chống giặc Bắc ở cửa biển Thái Bình.
Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi còn để chỏm, Ngài
đã mến mộ cửa Không. Sau Ngài đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá
Phước Đường. Ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng ngày,
Ngài lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Ngài lui
về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng lẫn với
thế tục (hòa quang đồng trần), Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái,
nên hay làm hưng thịnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ được hàng sơ cơ. Người
đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tánh tùy phương
tiện khi hiện khi ẩn, trọn không có tên thật.
Đây tán thán phong cách của Thượng Sĩ: Khí lượng của Thượng Sĩ thì cao
siêu thâm trầm, phong thần thì nhàn nhã, không bồng bột không thô tháo.
Lúc còn bé Ngài đã mến mộ cửa Không, tức là thích tu Thiền. Nhà Thiền có
chỗ gọi là Thiền lâm tức là rừng Thiền, có chỗ gọi là Không môn tức là cửa
Không. Tại sao gọi nhà Thiền là cửa Không? Thiền viện chúng ta là cửa
không hay cửa có mà người ta tới lui tấp nập vậy? Nói không, đâu có ai
chịu! Đứng về mặt hình tướng, ai cũng đang thấy có Thiền viện, có Thiền
sinh, có Thiền sư..., đâu phải là không. Tu Thiền bắt đầu bằng trí tuệ
Bát-nhã, thấy các pháp không có tự tánh, không có thực thể, nên nói là cửa
Không. Ai vào cửa Thiền cũng phải vào bằng trí Bát-nhã. Nếu không mở sáng
trí Bát-nhã, khó mà thông hội lý Thiền, kinh Pháp Bảo Đàn phẩm Bát-nhã là
gốc, Lục Tổ vào cửa Thiền bằng trí Bát-nhã; Ngài nghe kinh Kim Cang đến
câu “bất trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi
sanh kỳ tâm” liền giải ngộ. Thế nên sau này dạy lại cho môn đồ, Ngài cũng
nói pháp Bát-nhã đầu tiên. Vậy, vào cửa Thiền bằng Bát-nhã nên nói cửa
Thiền là cửa Không.
Thượng Sĩ đã thích đạo Phật thích cửa Thiền từ thuở bé, nhưng khi lớn lên
vì việc nước mà phải đi làm quan, rồi đánh giặc. Song, về sau Ngài tìm tới
tinh xá Phước Đường học đạo với Thiền sư Tiêu Dao, ngộ được lý Thiền và
thờ Thiền sư Tiêu Dao làm thầy. Ngài là một vị tướng cầm binh đánh giặc mà
lấy thiền định làm vui, chớ không vui trong chức lớn danh to. Ngài là một
cư sĩ mà không bị công danh trói buộc, chỉ lấy Thiền làm chỗ an ổn, làm
mục đích đời sống của người cư sĩ. Đó là cái hạnh cao quí, ít người thực
hiện được. Dẹp giặc xong, vua phong ấp cho những người trong hoàng tộc có
công với đất nước, Ngài được một nơi yên ở trong lúc tuổi già, đó là ấp
Tịnh Bang. Sau đổi tên là làng Vạn Niên. Tuy tu đạo xuất thế mà Ngài vẫn
sống hài hòa với người thế tục, nên nói “hòa quang đồng trần” tức là ánh
sáng hòa với bụi bặm. Hình ảnh này chúng ta thấy rất cụ thể vào lúc sáng
mặt trời lên, cửa có lỗ trống ánh sáng rọi vào nhà, người trong nhà thấy
bụi bặm lăng xăng trong hư không qua làn ánh sáng rọi, còn chỗ không ánh
sáng rọi thì không thấy bụi lăng xăng. Chỗ nào cũng có bụi, nhưng chỗ có
ánh sáng rọi mới thấy bụi lăng xăng, bụi và ánh sáng hòa lẫn nhau. Hòa mà
không hòa, vì bụi không phải là ánh sáng và ánh sáng không kết thành bụi,
nhưng bụi không ngoài ánh sáng. Vậy “hòa quang đồng trần” là đem ánh sáng
của mình hòa với bụi bặm. Nói cách khác là đem ánh sáng trí tuệ để mà bao
bọc cứu vớt những kẻ trần tục. Tuy ánh sáng hòa với bụi mà bụi không thể
làm ô nhiễm ánh sáng được. Đó là ý nghĩa Bồ-tát đi vào thế tục trần lao để
giáo hóa chúng sanh. Thế tục trần lao là ô nhiễm là loạn động, Bồ-tát là
ánh sáng là trí tuệ. Ánh sáng trí tuệ vào trong chỗ ô nhiễm có bị nhiễm ô
không? Ánh sáng thì không động, bụi thì lăng xăng, vậy ánh sáng có bị bụi
lăng xăng làm loạn động không? - Không.
Bao giờ chúng ta đem ánh sáng trí tuệ đi vào đời để giáo hóa quần chúng mà
không động thì lúc đó chúng ta đã là Bồ-tát. Còn nếu bị động thì chưa phải
Bồ-tát thứ thật. Các vị Bồ-tát đi vào quần chúng, ở trong chỗ ô nhiễm, các
Ngài không nhiễm ô, trong chỗ mê muội, các Ngài không mê muội, vì vậy mà
các Ngài giáo hóa không chướng ngại. Chúng ta ngày nay vào chỗ ô nhiễm thì
bị ô nhiễm, vào chỗ loạn động thì bị loạn động, vì vậy mà phải ở một chỗ
để tu không được đi đâu, đó là lý do rõ ràng khỏi nghi. Nếu không, thì
cũng bắt chước Bồ-tát đi giáo hóa, đi một lúc rồi thì nhiễm nhơ đủ thứ
không còn như xưa nữa. Đó là ý nghĩa hòa quang đồng trần.
Chính vì Ngài hòa quang đồng trần nên ở đây nói Ngài cùng mọi người chưa
từng chống trái. Tại sao? Vì Ngài bao bọc che chở cho mọi người, nếu chống
trái thì làm sao bao bọc che chở cho người, đề làm hưng thịnh hạt giống
chánh pháp? Làm hưng thịnh hạt giống chánh pháp thì phải hòa mình với mọi
người mới làm được và mới dạy dỗ được hàng sơ cơ. Ai mà hay chống trái với
người khác thì không làm được gì hết, vì cứ công kích, chống đối lại
người, khiến người không cảm mến không quí trọng, nói họ không nghe. Đây
là cái khuyết của người đi giáo hóa. Đó là nói về phong cách và trí tuệ
của Thượng Sĩ. Ngài là một cư sĩ ở trong trần thế vẫn giáo hóa được mọi
người. Ngài giáo hóa bằng cách: Người đến hỏi đạo lý Ngài chỉ dạy chỗ
cương yếu, Ngài dạy cho họ an trụ tâm vọng động không để nó chạy theo sáu
trần. Khi tâm an trụ rồi thì sống với bản tánh không động. Lúc đó tùy
duyên lúc ẩn lúc hiện không nhất định và cũng không có tên thật. Đó là chỗ
đạt đạo của người tu.
Vua Thánh Tông nghe danh Ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào cửa khuyết. Ngài
đối đáp với vua đều là những lời siêu thoát thế tục. Nhân đó, vua Thánh
Tông tôn Ngài làm sư huynh, tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài vào
cung thăm, Thái hậu [Lúc vua Trần Thánh Tông làm vua thì Nguyên Thánh
Thiên Cảm làm hoàng hậu, bà là em của Thượng Sĩ mới gọi Thượng Sĩ bằng
anh. Có lẽ in lộn chữ hoàng ra chữ thái.] mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Dự
tiệc, Ngài gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn
thịt, đâu được thành Phật?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật,
Phật chẳng cần làm anh. Thái hậu không nghe cổ đức nói: ‘Văn-thù là
Văn-thù, Giải Thoát là Giải Thoát’ đó sao?”
Khi vua Thánh Tông nghe đạo đức của Ngài thâm hậu, mới mời Ngài vào cung
để bàn việc đạo lý. Thánh Tông thấy phong cách ngôn ngữ của Ngài rất siêu
thoát, nên tôn Ngài làm sư huynh tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thượng
Sĩ là kẻ bậc thượng, là hàng Bồ-tát. Tuệ Trung là hiệu. Vua Trần Thánh
Tông tôn Ngài một bậc Bồ-tát có đầy đủ trí tuệ. Ngài vào cung thăm, Hoàng
hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Tiệc này có cả chay lẫn mặn; có lẽ thức
ăn dọn bên chay bên mặn, Ngài ngồi ở giữa nên gắp cả hai bên. Cho nên nói
dự tiệc chay mặn Ngài đều gắp cả. Hoàng hậu em Ngài lấy làm lạ hỏi: “Anh
tu thiền mà ăn thịt đâu được thành Phật?” Câu nói này là câu nói của người
thường còn chấp. Ngài cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh, anh chẳng cần
làm Phật, Phật chẳng cần làm anh.” Nghe qua câu này quí vị có nghi không?
Đa số chúng ta tu có cầu làm Phật không? Nếu chúng ta cầu thành Phật thì
chuyện thành Phật là chuyện cầu của mình. Tại sao Ngài nói: “anh chẳng cần
làm Phật, Phật chẳng cần làm anh”? Đây nói cái lý tột cùng là nói như vậy.
Chúng ta có cái bệnh là tu mong cầu thành Phật, vì nghĩ rằng tu không
thành Phật thì tu để làm gì? Nhưng tại sao tu cầu thành Phật là bệnh? Bệnh
ở chỗ nào? - Đa số chúng ta đều nghĩ rằng tu là cầu con người phàm thành
con người Thánh (Phật). Như vậy phàm và Thánh là hai và cứ nghĩ rằng Phật
là một đấng rất kỳ đặc ngoài mình, nên mong cầu để được thành.
Ví
dụ ở thế gian có những người mến mộ kẻ tài ba lỗi lạc; họ hâm mộ người nào
họ muốn trở thành người đó. Vậy, họ có thể trở thành người đó được không?
- Người đó là người đó, họ là họ. Muốn học những cái hay ở người đó họ
phải tự học để chuyển hóa những cái dở thành cái hay nơi họ thì họ trở
thành người tài nơi họ, chớ không phải để trở thành người đó; nếu thành
người đó thì bỏ người này thành người kia. Chúng ta tu gọi là thành Phật,
không phải bỏ con người phàm mà được ông Phật khác là thành Phật, mà ngay
nơi con người phàm này chúng ta nhận ra tánh Thánh (Phật) ở nơi chúng ta.
Nói cách khác, ngay con người phàm chúng ta chuyển hết cái xấu cái dở cái
mê của phàm tục, thành cái tốt cái hay, cái sáng thì ngay nơi mình là
Thánh rồi. Hết mê tức là giác chớ gì? Giống như cái nhà tối, muốn cho
sáng, chỉ cần thắp đèn là nhà hết tối, chớ không phải bỏ cái nhà tối này
tìm cái nhà sáng khác. Cũng thế, ngay nơi chúng sanh mê này, chúng ta thắp
sáng trí tuệ là hết mê. Như vậy, mê và ngộ ở ngay nơi chúng ta chớ không ở
nơi nào khác mà cầu. Ở ngay nơi mình chuyển là xong, chớ không mong cầu
cái gì ở ngoài mình. Vì vậy mà cổ đức nói: “Không cầu Thánh giải, chỉ sạch
phàm tình.” Phàm tình sạch thì Thánh giải hiện, chớ không phải bỏ con
người phàm này mà tìm ông Thánh khác. Hiểu chữ cầu thành là bỏ cái này để
được cái kia là sai sự thật. Bởi thế Ngài mới nói: “Anh không cần thành
Phật, Phật không cần thành anh.” Phật là Phật mình, bỏ hết tâm phàm nơi
mình thì tự mình là Phật, chớ không phải thành ông Phật nào khác.
Nói cầu thành Phật, vậy thành Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà? Không thể
thành ông Phật nào, mà chính là tánh Phật nơi mình hiện ra. Vì là Phật nơi
mình, tánh Phật nơi mình hiện thì người tên gì gọi Phật tên ấy, chớ không
thành Phật Thích-ca hay Phật Di-đà. Nếu chúng ta cầu thành Phật thì sẽ
thành ông Phật ở ngoài mình, đó là trái lẽ thật. Chỉ cần “dứt phàm tình,
tự có Thánh giải”, mong được Thánh giải thì không bao giờ thành.
* |