HÀNH TRẠNG THƯỢNG SĨ
(TRẦN TUNG: 1230 - 1291)
(tt)
Tôi hân hạnh được làm đệ tử gần gũi của Ngài, có làm bài tụng “Thắp Hương
Đền Ơn”, không chép lại đây.
Sau khi tôi được truyền nối pháp, mỗi khi khai đường thuyết pháp, tự nhớ
đến tứ trọng ân, nhất là ân pháp nhũ khó đền. Tôi sai họa sĩ vẽ chân dung
của Ngài, để được cúng dường, tự thuật bài tụng để tán thán. Đề rằng:
Điều Ngự Giác Hoàng kể lại công ơn của Thượng Sĩ đối với Ngài. Ngài nhớ
mãi không quên, nên sau này Ngài xuất gia làm Phật sự, mỗi khi khai đường
thuyết pháp ở đâu, Ngài cũng đều tôn trí tượng Thượng Sĩ để tỏ lòng biết
ơn. Ngài nói trong bốn ơn lớn là ơn thầy tổ, ơn cha mẹ, ơn tổ quốc, ơn
đàn-na thí chủ thì ơn pháp nhũ tức là ơn thọ nhận chánh pháp của thầy khó
đền nhất. Vì vậy nên Ngài mới làm tụng:
Lão cổ chùy này
Người khó diễn tả
Thước nách Lương Hoàng
Chuông xe Thái Đế.
Hay vuông hay tròn
Hay dày hay mỏng.
Biển pháp một mắt
Rừng thiền ba góc.
“Lão cổ chùy này, người khó diễn tả.” Lão cổ chùy là dùi sắt già. Dùi sắt
là vật vô tri không già không trẻ. Tại sao ở đây nói cái dùi sắt già?
Trong nhà Thiền hay dùng cái đãy có cái dùi sắt ló đầu để tượng trưng cho
cái thân tạm bợ hư dối có cái chân thật cứng chắc, cái chân thật cứng chắc
đó dùi được tất cả những cái khác cho nên gọi là cái chùy. Vậy, trong đãy
người nào cũng có cái dùi đó hết. Dùi của mọi người thì bằng chì bằng kẽm,
còn dùi của Ngài thì bằng gang bằng thép rất cứng nên gọi là lão cổ chùy.
Vì cứng chắc hơn người, nên khó mà diễn tả được hình ảnh Ngài. Điều Ngự
Giác Hoàng tán thán Thượng Sĩ, ví Thượng Sĩ như cái dùi cứng chắc nhất,
không có dùi nào bì nổi. Và, muốn diễn tả hình ảnh của Ngài thì không có
cách nào diễn tả được, nên nói “thước nách Lương Hoàng chuông xe Thái Đế”.
Dù cho dùng thước của vua Lương Võ Đế để đo cũng không đo nổi hay dùng
chuông của Thái Đế [Thái Đế được rút từ Tam hoàng: Thiên hoàng, Địa hoàng,
Nhân hoàng. Nhân hoàng còn gọi là Thái hoàng hay Thái đế.] để lường cũng
lường không nổi hình dáng tư cách của Thượng Sĩ.
“Hay vuông hay tròn, hay dày hay mỏng.” Thượng Sĩ hành xử thế nào cũng
được, vuông cũng được, tròn cũng được, dày cũng được, mỏng cũng được,
không có một tướng nào cố định, nên không ai có thể lường được. Thế nên
người đời có khi thờ Ngài như bậc thầy của hàng tu sĩ, có lúc thấy Ngài là
một ông cư sĩ có vợ con, có khi thấy Ngài vui chơi thi thơ, có lúc thấy
Ngài nghiêm trang trong dáng mạo của một Thiền sư. Ngài không hiện một
tướng nào cố định mà có đủ cả vuông tròn dày mỏng.
“Biển pháp một mắt, rừng thiền ba góc.” Người đời ai cũng như ai đều dùng
hai mắt để thấy. Tại sao ở đây chỉ nói một mắt? Một mắt là chỉ cho mắt ở
giữa hai chân mày tại huyệt ấn đường. Mắt này là mắt trí tuệ. Ý nói mắt
trí tuệ của Thượng Sĩ mới thấy được biển pháp của Phật. Còn hai mắt thịt
của con người là mắt phàm phu thấy không thấu. Điều Ngự Giác Hoàng ví
Thượng Sĩ là mắt trí tuệ nhìn suốt được biển giáo pháp của Phật. Đó là tán
thán Thượng Sĩ về mặt giáo lý. Còn Thiền của Thượng Sĩ như “rừng Thiền ba
góc”. Ý nói Thiền mà Thượng Sĩ thâm nhập vững chắc như núi Côn Luân ở
Trung Hoa; núi này có ba góc vị thế rất vững. Đối với Thượng Sĩ dù cho
sóng gió, nghịch duyên có khó khăn đến đâu cũng không làm Ngài rung chuyển
lay động, nên tán thán Ngài như “rừng Thiền ba góc”.
Các hàng môn đệ tán tụng:
-
Đệ tử nối pháp Trúc Lâm Đại Đầu-đà tán:
Trông đó càng cao
Dùi đó càng cứng.
Bỗng dưng ở sau
Nhìn đó ở trước.
Đây mới gọi là
Thiền của Thượng Sĩ.
Điều Ngự Giác Hoàng ca ngợi Thiền phong của Thượng Sĩ càng trông thấy càng
cao, càng dùi thì càng cứng. Mới thấy như ở phía sau, nhìn lại thì ở phía
trước. Không có cái gì cố định cả. Thiền của Thượng Sĩ là như thế. Ý này
giống như ý trước. Qua hai bài tụng, chúng ta thấy lúc nào Điều Ngự Giác
Hoàng cũng thấy Thượng Sĩ là bậc thầy cao quí, có đủ phong cách của một
Thiền sư vượt bực, không ai có thể dùng cái gì để đo lường được, không ai
có đủ khả năng nhận xét về Ngài chín chắn. Vì Ngài có đủ hiện tượng lớn
nhỏ, trước sau cao thấp... Cho nên không thể lấy cái chừng mực thông
thường mà đo lường được.
-
Trúc Lâm đàn cháu nối pháp, đệ tử Pháp Loa cúi đầu kính cẩn tán:
Á!
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành.
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh.
Chao!
Đến đây Tôn giả Pháp Loa tán thán Thượng Sĩ, ví con người của Thượng Sĩ
được nhồi lại bằng gang ròng, bằng sắt sống, cứng chắc vượt hơn tất cả.
Đứng về thể chất mà nhìn thì Thượng Sĩ là con người cứng như đồng thép.
Muốn đo lường phong cách của Thượng Sĩ, dù lấy thước bằng trời, tấc bằng
đất cũng không đo lường được. Vì Thượng Sĩ ở khắp cùng, đâu có gió mát
trăng thanh là có Thượng Sĩ. Thượng Sĩ vượt bực không ai bì nổi.
-
Trúc Lâm đàn cháu nối pháp, đệ tử Bảo Phác cúi đầu kính cẩn tán:
Linh Sơn tự nắm tay
Nhai tủy lão Hồ trọc.
No rồi mớm cháu con
Chồn cáo hóa sư tử.
Gặp trường nói nín nhàn
Trăng tẩm nước sông thu.
Muốn biết toàn vị mặn
Trả chuột già cho hắn.
“Linh Sơn tự nắm tay.” Thiền sư Bảo Phác ăn nói to quá! Ngài sánh Thượng
Sĩ ngang bằng tương đương với Tổ Ca-diếp. “Nhai tủy lão Hồ trọc” là tiếp
thu cốt tủy Thiền của Tổ Bồ-đề-đạt-ma. Tiếp thu Thiền tủy của Tổ
Bồ-đề-đạt-ma “no rồi mớm cháu con”. Bây giờ quí vị có nhai nuốt được phần
nào cốt tủy Thiền của Tổ Bồ- đề-đạt-ma chưa? “Chồn cáo hóa sư tử.” Con
cháu của Thượng Sĩ ngày xưa thuộc hạng chồn cáo, nhờ Thượng Sĩ mớm Thiền
tủy của Tổ Bồ-đề-đạt-ma, nên ngày nay đã hóa thành sư tử hết. Bốn câu kệ
này, mới đọc qua thấy như Ngài ăn nói lỗ mãng, nhưng nó bộc lộ lòng biết
ơn sâu sắc và diễn tả được hình ảnh kỳ đặc của Thượng Sĩ là người đã tiếp
nhận được Thiền của Tổ Ma-ha Ca-diếp ở hội Linh Sơn và thấu suốt được cốt
tủy Thiền của Tổ Bồ- đề-đạt-ma, Thượng Sĩ đem dạy cho con cháu là hạng
phàm phu trở thành bậc Hiền Thánh.
“Gặp trường nói nín nhàn, trăng tẩm nước sông thu.” Tùy thời tùy cơ mà
Thượng Sĩ nói hay nín. Ngài nói cũng không động mà nín cũng vẫn yên, lúc
nào tâm Ngài cũng an nhiên tự tại. Giống như trăng mùa thu rọi bóng dưới
nước rõ ràng; trăng là trăng, nước là nước; trăng nước không dính nhau.
“Muốn biết toàn vị mặn, trả chuột già cho hắn.” Vị mặn là chỉ cho nước
biển, tất cả nước biển đều có một vị mặn. Cũng vậy tất cả pháp Phật dạy
chỉ có một vị là giải thoát. Muốn biết vị mặn của biển hay vị giải thoát
thì phải “trả chuột già cho hắn”. Muốn biết vị giải thoát phải trả chuột
già là sao? Trong kinh Đại Tập Phật có kể một câu chuyện ẩn dụ: Có một anh
chàng bị hai con voi say đuổi gấp, anh chạy trốn, gặp cái giếng, anh đu
dây tuột xuống giếng. Thân anh đang đu đưa dưới sợi dây trong lòng giếng
sâu, chẳng an ổn chút nào. Chung quanh thành giếng có bốn con rắn độc le
lưỡi chực cắn anh. Đầu trên sợi dây anh đu có hai con chuột con trắng con
đen, chạy qua chạy lại cạp sợi dây sắp đứt. Ở dưới đáy giếng có ba con
rồng dữ phun lửa lên. Tình huống của anh bấy giờ vô cùng bức ngặt, khó bề
thoát thân! Sợi dây treo sanh mạng của anh chuột đang cạp sớm muộn gì cũng
đứt. Nếu đứt dây thân anh rớt xuống đáy giếng, bị rồng phun lửa đốt cháy.
Nếu anh ngả qua thành giếng thì bị rắn độc cắn chết.
Hai con voi say dụ cho sanh tử. Sợi dây dụ cho mạng sống con người. Chuột
đen chuột trắng cạp dây dụ cho ngày đêm trôi qua. Ba con rồng phun lửa dụ
cho tham, sân, si thiêu đốt thân tâm. Bốn con rắn độc le lưỡi chực cắn dụ
cho sanh lão bệnh tử bức ngặt con người. Mỗi chúng ta ngày qua đêm lại
mạng sống đi dần đến cái chết. Ở vị thế nào cũng đi đến chỗ tiêu tan. Vậy
phải làm thế nào để thoát khỏi? - Theo Tôn giả Bảo Phác thì phải đuổi hai
con chuột, không cho nó gặm nhấm dây sanh mạng nữa thì con người mới được
an toàn hết hiểm nguy, nên nói muốn hưởng được vị giải thoát của Phật thì
phải trả chuột già đi. Ý câu này nói Thượng Sĩ đã nếm được vị giải thoát
rồi nên không còn bị sanh tử trói buộc nữa. Đó là tán thán sự giải thoát
của Thượng Sĩ.
-
Đệ tử Tông Cảnh cúi đầu kính cẩn tán:
Thiền thầy ta con quì một chân
Bờ dốc buông tay tâm như như.
Trên đầu cột phướn nấu quả chùy
Bỗng nhiên cỡi ngược lừa ba cẳng.
Năm trước tặng ta trâu đất rống,
Ngày nay ngựa gỗ hí trả Ngài.
Trâu sắt đầu nhỏ sừng co quắp
Đêm về húc vỡ núi Tu-di.
Thảnh thơi nhảy thẳng hang rồng dữ
Cướp được san-hô quí một cành.
Thần biển nâng lên sáng trời đất
Na-tra nổi giận uy đức mờ.
Ha! Ha! Ha! cũng rất kỳ
Dương Xuân Bạch Tuyết hòa rất ít.
Một mức sau cùng hội thế nào?
Án tố rô, tố rô, tất rị, tất rị.
“Thiền thầy ta con quì một chân.” Con quì là một loài thú rất kỳ đặc, rất
mầu nhiệm, chỉ có một chân mà đi được. Ngài Tông Cảnh tán thán Thiền của
Thượng Sĩ rất kỳ đặc rất mầu nhiệm, như con quì một chân mà đi được vậy.
“Bờ dốc buông tay tâm như như.” Bờ dốc thẳng đứng mà buông tay đi một cách
tự tại. Thiền của Thượng Sĩ thanh thoát tự tại cũng như thế. “Trên đầu cột
phướn nấu quả chùy.” Việc tu hành nếu thành tựu kết quả thì diệu dụng
không thể nghĩ bàn, giống như trên đầu cột phướn mà để được lò đúc nấu kim
loại đúc thành quả chùy, là việc phi thường không ai có thể lường nổi.
“Bỗng nhiên cỡi ngược lừa ba cẳng.” Con lừa có bốn chân, ở đây lại nói lừa
có ba cẳng chổng ngược lên trời để cỡi, thật là chuyện lạ lùng. Ngài Tông
Cảnh tán dương Thượng Sĩ là người đạt đạo có được diệu dụng phi thường,
giống như việc đặt lò đúc chùy trên đầu cột phướn, như cỡi ngược lừa ba
chân leo lên chót núi. Đó là bốn câu kệ tán thán Thượng Sĩ là một Thiền sư
phi thường.
“Năm trước tặng ta trâu đất rống, ngày nay ngựa gỗ hí trả Ngài.” Thiền sư
Tông Cảnh nói năm trước Thượng Sĩ vô tâm vô phân biệt nói pháp dạy Ngài,
giống như con trâu đất vô tri mà rống. Và, Ngài thừa hưởng giáo pháp ấy
ứng dụng tu hành, ngày nay đáp lại giống như ngựa gỗ hí. Vậy, thầy là trâu
đất rống, trò là ngựa gỗ hí; bên thầy rống bên trò hí, đối đáp rõ ràng.
Trâu đất ngựa gỗ đều vô tri vô phân biệt, mà đối đáp nhau là ngầm ý nói
thầy dạy trò nhận với tâm không loạn tưởng, không phân biệt, như như tự
tại. Đó là chỗ thầy dạy trò, trò lãnh hội được tông chỉ của thầy.
“Trâu sắt đầu nhỏ sừng co quắp, đêm về húc vỡ núi Tu-di.” Khi nhận được
lời dạy của thầy rồi, từ đó mới thấy công dụng giống như trâu sắt húc núi
Tu-di tan vỡ. “Thảnh thơi nhảy thẳng hang rồng dữ, cướp được san- hô quí
một cành.” Trâu sắt lại nhảy thẳng xuống biển, vào hang rồng cướp lấy
san-hô là vật quí ở Long cung. “Thần biển nâng lên sáng trời đất, Na-tra
nổi giận uy đức mờ.” Trâu sắt vào Long cung lấy được san- hô thì Thần biển
nâng lên tỏa sáng cả trời đất. Diệu dụng này quá phi thường, uy đức của Na
Tra không thể sánh lên nổi giận. Theo kinh Tối Thượng Bí Mật Ma-noa Thiên,
Na-tra là vị Thái tử thứ năm của Tỳ-sa-môn Thiên vương, ông thường cầm gậy
kích quan sát một phương, ngày đêm gìn giữ quốc vương, đại thần, bách
quan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, cư sĩ. Nếu người nào có ác tâm làm hại những
vị này thì ông dùng gậy kim cang đập trên đầu hoặc đâm vào tim kẻ ấy. Có
một lần Na-tra lóc hết thịt trả cho mẹ, gắp hết xương trả cho cha rồi hiện
nguyên hình thuyết pháp. Dưới mắt người tu thấy thân này, từ da thịt cho
tới xương tủy là do cha mẹ mà có không phải là của ta thì thân chân thật
hiện ra, còn nếu chấp là của ta thì thân chân thật không hiện, khuất mất.
Thế nên chúng ta tu là phải có gan, “lóc hết thịt gắp hết xương trả cho
cha mẹ”, mới mong thân chân thật hiển bày sống đời tự tại giải thoát.
Na-tra là vị thần trấn giữ một phương ủng hộ người lành dẹp trừ người dữ,
uy đức lớn lao như thế mà khi san-hô được trâu sắt lấy từ Long cung, thần
biển nâng lên tỏa ánh sáng cả trời đất, khiến cho Na-tra nổi giận vì uy
đức của ông kém thua. Đây là nói cái diệu dụng của người tu khi tâm lặng
lẽ không còn dấy động, giống như trâu sắt húc vỡ núi Tu-di và xuống biển
vào Long cung lấy san-hô là một việc không thể nghĩ bàn. Ý này tán thán
Thượng Sĩ không còn vọng niệm sanh diệt có được diệu dụng không thể nghĩ
lường.
“Ha! Ha! Ha! cũng rất kỳ, Dương Xuân Bạch Tuyết hòa rất ít.” Dương Xuân
Bạch Tuyết lấy từ điển tích Tạ Hy Dật luận về đàn cầm nói: Lư Duyên Tử
giỏi về đàn và trống, nên chế ra khúc nhạc Dương Xuân Bạch Tuyết. Ngài
Tông Cảnh cười ha! ha! ha! Và nói rất là kỳ vì khúc nhạc Dương Xuân Bạch
Tuyết, người cả nước mà chưa quá mười người hòa được khúc nhạc này, nên
nói hòa rất ít. “Một mức sau cùng hội thế nào? Án tố rô, tố rô, tất rị,
tất rị.” Chỗ cuối cùng rốt sau làm thế nào để hiểu? Ngài nói muốn hiểu thì
chỉ “án tố rô, tố rô, tất rị, tất rị”. Nhiều người không thấu suốt chỗ này
cho rằng Thiền tông Việt Nam pha lẫn thần chú Mật tông. Mức sau cùng là
chỗ không còn nghĩ bàn suy tính. Còn nghĩ bàn suy tính thì không phải là
mức cuối cùng. Thần chú thì không thể nghĩ suy để hiểu, chỉ là câu để nói
lên chỗ ngôn ngữ không thể diễn tả, ý niệm không thể nghĩ bàn. Chỗ này, có
vị thì nói “đốt”, có vị thì hét, có vị thì làm thinh... Ở đây ngài Tông
Cảnh thì đọc án tố rô, tố rô, tất rị, tất rị.
Đệ
tử cư sĩ hiệu Thiên Nhiên, Vương Như Pháp cúi đầu kính cẩn tán:
Thật kỳ đặc! Thật kỳ đặc!
Trâu đất rống trăng không kẹt mắc
Viết ra sáu bảy trí tuệ môn
Chớ nói núi bút cùng rừng mực.
“Thật kỳ đặc! Thật kỳ đặc!” Cái đặc biệt của Thượng Sĩ là quá siêu thoát
không thể diễn tả nổi, nên nói thật kỳ đặc. “Trâu đất rống trăng không kẹt
mắc.” Trăng sáng và trâu đất rống không dính gì nhau; ý nói có hành động
mà không dính mắc. “Viết ra sáu bảy trí tuệ môn.” Từ chỗ không dính mắc đó
có đầy đủ tất cả cửa trí tuệ. Những cửa trí tuệ đó muốn diễn tả cũng khó
mà diễn tả được, dù cho dùng viết nhiều như núi, dùng mực nhiều như rừng,
cũng không diễn tả ghi chép hết được những diệu dụng của cửa trí tuệ.
Trúc Lâm thị giả đệ tử Pháp Cổ cúi đầu kính cẩn tán:
Xưa Quốc Sư, nay Thượng Sĩ
Cùng một trượng phu chia đây kia.
Tác giả Tỳ-da đứng dưới gió
Lão ngốc Bàng Công một trái cà.
Giáo giáp ba huyền phá lao quan
Trên chớp lông mày thôi nghĩ suy.
Màn mắt che mất núi Tu-di
Trong miệng nuốt ngang nước biển cả.
Dưới hàm rồng dữ đục ly châu
Phóng sợi tơ sen cột cọp lớn.
Pháp vương vương pháp mặc tung hoành
Nắm tay chung đường quên mi tớ.
Rảnh rang đùa gẩy đàn không dây
Làng múa thôn ca câu: La lý!
Lý la la! La lý lý!
Chẳng thuộc cung thương giác vũ rành.
Thầy tôi nối tiếng ông Như Điệu
Phong thái khác thường lại đẹp thêm.
Tử Kỳ mất rồi tri âm ít
Bao điều cao rộng ở nơi nao?
Người sau tiếp vang nối lời rỗng
Nhận được như xưa lại chẳng phải.
Ôi!
“Xưa Quốc Sư nay Thượng Sĩ, cùng một trượng phu chia đây kia.” Xưa Quốc
Sư là Quốc sư Huệ Trung đệ tử của Lục Tổ ở Trung Hoa đời nhà Đường. Nay
Thượng Sĩ là Tuệ Trung Thượng Sĩ ở Việt Nam. Hai vị tuy cùng là trượng phu
mà chia người ở Trung Quốc người ở Việt Nam. “Tác giả Tỳ-da đứng dưới gió,
lão ngốc Bàng Công một trái cà.” Hai câu này so sánh cư sĩ Duy-ma- cật
(Tỳ-da) và cư sĩ Bàng Long Uẩn (Bàng Công) với Thượng Sĩ. Theo kinh
Duy-ma-cật thì cư sĩ Duy-ma-cật bệnh, Phật sai các vị Bồ-tát và Thanh văn
đến thăm. Giữa ông và các vị Bồ-tát Thanh văn nói chuyện đạo lý, được ghi
lại thành một quyển kinh tên là Duy-ma-cật. Chính duyên sự này, coi ông
như là tác giả của kinh Duy-ma-cật, nên đây nói tác giả Tỳ-da. Cư sĩ
Duy-ma-cật ở thành Tỳ-da- ly, nói Tỳ-da là nói gọn. Theo ngài Pháp Cổ thì
cư sĩ Duy-ma-cật so với Thượng Sĩ chỉ là người đứng dưới gió thôi. Ngài
Pháp Cổ so sánh như thế, cho chúng ta thấy Ngài tự ái dân tộc hơi nhiều.
Còn cư sĩ Bàng Long Uẩn sánh với Thượng Sĩ thì ông chỉ là một trái cà
thôi. Vì đầu Bàng Long Uẩn sói bóng như trái cà. Ngài nói như thế cũng hơi
quá đáng, đề cao mình mà xem thường người khác.
“Giáo pháp ba huyền phá lao quan, trên chớp lông mày thôi nghĩ suy.” Ba
huyền thuộc giáo nghĩa của tông Lâm Tế:
1.
Thể trung huyền là chỉ cho Thể
2.
Cú trung huyền là chỉ cho Tướng
3.
Huyền trung huyền là chỉ cho Dụng.
Một câu nói phải có đủ tam huyền tam yếu, ngày xưa Tổ Lâm Tế hay nói như
vậy. Ngài nói ra câu nào cũng đều có đủ Thể Tướng Dụng, nói như thế mới
đúng với tinh thần của người đạt đạo. Người đạt đạo không bao giờ nói
suông. Tam huyền của tông Lâm Tế đối với các tông phái khác thấy nó như là
giáo là giáp, phải mang nó để phá vượt qua ba cổng cứng chắc (ba cổng đã
giảng ở trước) để vào ngôi nhà Pháp thân. Trên cái chớp mắt hay trên những
sợi lông mày cũng không có gì phải bàn tính phải suy gẫm, phải ngay nơi đó
mà nhận biết cái chớp mắt cái nheo mày của các Thiền sư đều là hiện tượng
để cho chúng ta thức tỉnh.
“Màn mắt che mất núi Tu-di. Trong miệng nuốt ngang nước biển cả.” Mí mắt
Ngài che khuất núi Tu-di, miệng Ngài chỉ hớp là cạn hết biển cả. Đây ngài
Pháp Cổ tán thán cái kỳ đặc của Thượng Sĩ.
“Dưới hàm rồng dữ đục ly châu, phóng sợi tơ sen cột cọp lớn.” Ý nói Thượng
Sĩ có khả năng vào trong biển cả, đục dưới hàm con rồng dữ, lấy hạt minh
châu mà không có gì nguy hiểm. Cũng như lấy sợi tơ của cọng sen mà cột con
cọp, Ngài vẫn làm được không có gì trở ngại. Đó là tán thán cái diệu dụng
phi thường của Thượng Sĩ sau khi đã đạt đạo.
“Pháp vương vương pháp mặc tung hoành. Nắm tay chung đường quên mi tớ.”
Pháp vương là vua pháp, chỉ cho đức Phật. Vương pháp là pháp của Phật.
Thượng Sĩ sống một cách tự tại mặc tình ngang dọc. Song, đối với pháp của
Phật vẫn không sai không lạc. Cùng đi một đường mà không thấy ta không
thấy người, không thấy kia không thấy đây. “Rảnh rang đùa gảy đàn không
dây, làng múa thôn ca câu la lý! Lý la la! La lý lý! Chẳng thuộc cung
thương giác vũ rành.” “La lý! Lý la la! La lý lý!” là điệu nhạc ngày xưa.
Điệu nhạc này không thuộc năm điệu cung, thương, giác, vũ, chủy hay kinh.
Vì phải dịch theo âm vận, nên năm điệu nhạc này tôi dịch có bốn điệu, còn
điệu thứ năm là để nói cho rành rẽ. Thượng Sĩ mỗi khi nhàn rỗi, Ngài gảy
đàn không dây. - Đàn không dây làm sao gảy? Vậy mà Thượng Sĩ gảy đàn không
dây, khi Ngài gảy thì cả làng múa cả thôn ca câu: La lý! Lý la la! La lý
lý! Cả làng xóm đều nổi dậy những tiếng ca tiếng hát. Đây muốn nói Thượng
Sĩ đã sống được với Thể chân thật rồi, việc làm của Ngài không có hình ảnh
tướng mạo mà vẫn cảm hóa được người chung quanh, không có cái gì mà không
cảm thông, không có cái gì là chướng ngại.
“Thầy tôi nối tiếng ông Như Điệu, phong thái khác thường lại đẹp thêm.”
Chữ Như Điệu tôi tra không ra, nhưng theo tôi hiểu thì có lẽ là một hiệu
khác của Thiền sư Tiêu Dao. Vì thường thường một Thiền sư có nhiều hiệu,
hơn nữa Thượng Sĩ là người được pháp ở Thiền sư Tiêu Dao nên mới nói thầy
tôi nối tiếng ông Như Điệu. Và, phong thái của Thượng Sĩ kỳ đặc khác
thường mà lại tươi đẹp. “Tử Kỳ mất rồi tri âm ít, bao điều cao rộng ở nơi
nao?” Tử Kỳ và Bá Nha là đôi bạn tri âm, Bá Nha đàn chỉ có Tử Kỳ nghe mới
cảm thông sâu sắc tâm trạng vui buồn của Bá Nha. Nhưng khi Tử Kỳ mất rồi
thì Bá Nha chẳng biết đàn cho ai nghe, nên đập đàn. Cũng vậy, trò chỉ có
thầy thông cảm, bây giờ thầy mất rồi, trò có nói cũng không ai biết được.
Dù những lý cao sâu mà trò thấu suốt, chẳng biết diễn đạt trình bày cho ai
cảm thông. “Người sau tiếp vang nối lời rỗng, nhận được như xưa lại chẳng
phải.” Thượng Sĩ là người tiếp nối tiếng của ngài Như Điệu. Người sau tiếp
nối Thượng Sĩ là tiếp những tiếng vang những lời rỗng; những tiếng vang
những lời rỗng đó, nếu nhận thấu được cũng của người xưa thuở trước. Song,
người xưa mà không phải là người xưa, nên nói nhận được như xưa lại chẳng
phải. Ví dụ Tổ Lâm Tế hét, tiếng hét đó có rỗng không? Tiếng hét đó chẳng
có ý nghĩa gì để cho người nghe suy gẫm! Lại cũng có nhiều Thiền sư khi
được hỏi trả lời nhiều câu thật là vô ý nghĩa, nên nói lời rỗng không có ý
nghĩa. Nhưng những tiếng vang lời rỗng đó, nếu chúng ta thông thì nhận
được cốt lõi Thiền của người xưa. Tuy nhiên, không phải người xưa, vì
người nay mà nói người xưa là trật rồi.
Trúc Lâm thị giả Tuệ Nghiêm kính cẩn tán:
Lò hồng điểm tuyết
Tháng chạp hoa sen.
Chẳng bút khá viết
Chẳng lời khá phô.
Chọi đá nháng lửa
Điện xẹt chớp sáng.
Chẳng tìm khá tìm
Chẳng chốn khá chốn.
Đó là Thượng Sĩ
Khó lường cơ Ngài
Hòa cùng ánh sáng
Đồng với tục tăng.
Tỳ-da nắm tay
Hoành Dương kết mày
Vòng vàng lùm gai
Nuốt đó thấu đó.
Con trâu con khỉ
Đánh vào rừng Thiền
Vo tròn cọp dữ
Quỉ thần vườn pháp
Miệng trống rao truyền
Xuân vào cành vàng
Cổ chùy! Cổ chùy!
“Lò hồng điểm tuyết, tháng chạp hoa sen.” Trong lò hồng lửa cháy rực làm
gì có tuyết mà đây nói có một điểm tuyết trong lò hồng. Cũng như tháng
chạp là tháng mùa đông làm gì có hoa sen, nhưng mà vẫn có hoa sen mùa
đông. Ý câu này nói trong cái vô thường có cái chân thường. Tuy nhiên,
không phải nói theo ý kinh Pháp Hoa, mà muốn nói lên cái kỳ đặc là ở trong
thế gian không có những người có phong cách kỳ đặc như Thượng Sĩ, nhưng mà
có, đó là Thượng Sĩ. Đây tán thán Thượng Sĩ là con người kỳ đặc ở trong
thế gian mà người đời khó biết. “Chẳng bút khá viết, chẳng lời khá phô.”
Chẳng có bút mực nào có thể viết để diễn tả, cũng như không có lời nào để
phô bày cho hết cái kỳ đặc của Thượng Sĩ. “Chọi đá nháng lửa, điện xẹt
chớp sáng, chẳng tìm khá tìm, chẳng chốn khá chốn.” Chọi đá thấy nháng
lửa, song lửa nháng rồi tắt, hay như làn điện chớp, xẹt ánh sáng rồi mất,
muốn tìm khó mà thấy được, vì nó không có chỗ nơi làm sao chúng ta tìm
thấy được. “Đó là Thượng Sĩ, khó lường cơ Ngài.” Cái kỳ đặc vừa nói khó
tìm khó kiếm lại chính là phong cách của Thượng Sĩ, người đời khó mà lường
được cơ phong của Ngài.
“Hòa cùng ánh sáng, đồng với tục tăng.” Thượng Sĩ sống trong đời cũng như
ánh sáng hòa với bụi bặm, hình tướng của Thượng Sĩ đồng với người thế tục,
mà tâm của Ngài như tăng sĩ xuất gia, hướng dẫn giáo hóa người xuất gia.
“Tỳ-da nắm tay, Hoành Dương kết mày.” Tỳ-da chỉ cho cư sĩ Duy-ma-cật, còn
Hoành Dương chỉ cho Bàng Long Uẩn, vì Bàng Long Uẩn sanh ở đất Hoành
Dương. Đối với cư sĩ Duy-ma-cật ở thời đức Phật thì Thượng Sĩ là người
tương đương, nên nắm tay đồng hành. Đối với cư sĩ Bàng Long Uẩn đời Đường
ở Trung Hoa thì Thượng Sĩ là người có mày ngang với mày của Bàng Long Uẩn.
“Vòng vàng lùm gai, nuốt đó thấu đó.” Dù là vòng bằng vàng Ngài cũng nuốt,
hay lùm gai Ngài cũng thấu qua, không ngại, không kẹt. “Con trâu con khỉ,
đánh vào rừng Thiền.” Người tu Thiền thường nói chăn giữ con trâu (tâm)
không cho chạy vào đồng cỏ. Hoặc nói phải giữ con khỉ (tâm ý) nằm yên,
không cho nó chạy nhảy lung tung. Đó là cách điều phục tâm thông thường
của người tu, nhưng đối với Thượng Sĩ thì khác. Ngài đánh đuổi nó chạy
tuốt vào rừng Thiền, nó nằm ngủ yên trong đó. “Vo tròn cọp dữ, quỉ thần
vườn pháp, miệng trống rao truyền, xuân vào cành vàng, Cổ chùy! Cổ chùy!”
Cọp dữ thì tay Ngài vo tròn như cục đất, quỉ thần thì Ngài đuổi vào vườn
pháp ở, mặc tình người đời nói năng la lối thế nào cũng được. Và, mùa xuân
chiếu rọi vào thì cành lá cây thấy có màu vàng. Ngài Tuệ Nghiêm tán thán
Thượng Sĩ là một con người kỳ đặc hiếm có trong đời.
Lúc dịch tôi bỏ bớt bài tán của Điệu Pháp Đăng. Vì đọc qua bài tán này tôi
thấy trái với lịch sử, có lẽ do người sau thêm bớt, nên tôi thấy không cần
dịch.
] |