ĐỐI CƠ
(Trả lời người hỏi)
1. Dịch:
Một hôm Thầy (Tuệ Trung) rảnh rang, môn đệ theo thứ tự đứng hầu. Khi đó có
vị Tăng hỏi:
-
Bạch Thượng Sĩ, tôi vì việc lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng, chưa biết
thân này, sanh từ đâu lại, sau khi chết đi về đâu?
Thầy đáp:
Giữa trời dù có đôi vành chuyển
Biển cả ngại gì hòn bọt sanh.
Lại hỏi:
-
Thế nào là đạo?
Thầy đáp:
-
Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo.
Lại hỏi:
-
Cổ đức nói: “Không tâm là đạo” phải chăng?
Thầy đáp:
-
Không tâm chẳng phải đạo, không đạo cũng không tâm.
Thầy tiếp:
-
Nếu người bảo: “không tâm là đạo” thì tất cả cỏ cây đều là đạo sao? Nếu
lại nói “không tâm chẳng phải đạo” thì đâu cần nói có, không. Nghe tôi nói
kệ:
Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm đạo vốn rỗng lặng
Chỗ nào lại đuổi tầm?
Vị
Tăng bỗng nhiên nhận ra ý chỉ, lễ bái lui ra.
Giảng:
Hôm trước tôi có nói, không phải chỉ có giới cư sĩ đến học đạo với Thượng
Sĩ mà có cả giới xuất gia tới học đạo với Ngài. Ở đây, người đứng ra thưa
hỏi là một vị Tăng.
“Tăng hỏi: Bạch Thượng Sĩ, tôi vì việc lớn sanh tử, vô thường nhanh chóng,
chưa biết thân này, sanh từ đâu lại, sau khi chết đi về đâu?”
Câu hỏi này là câu hỏi căn bản của người tu. Đi tu là vì chẳng biết thân
này từ đâu lại, và sau khi chết đi về đâu?
“Ngài đáp: Giữa trời dù có đôi vành chuyển, biển cả ngại gì hòn bọt sanh!”
Tăng thắc mắc việc sanh tử; từ đâu sanh ra và chết đi về đâu? Đây là vấn
đề thiết yếu trọng đại của kiếp sống con người, thế mà Ngài đáp quá đơn
giản. Đôi vành chuyển là chỉ cho mặt trời mặt trăng mọc lặn trong bầu
trời. Mặt trăng mặt trời mỗi ngày mọc rồi lặn trong hư không, sánh với bầu
trời thênh thang chẳng có nghĩa lý gì. Và, hòn bọt nổi lên rồi tan đi trên
mặt biển cũng chẳng có quan trọng gì đối với biển cả mênh mông. Ý Ngài nói
chúng ta tu, khi nhận ra nơi mình có tâm thể bất sanh bất diệt rồi thì,
thấy sự sống chết ở thế gian này chẳng có nghĩa lý gì hết. Thế thì bận gì
mà hỏi sanh từ đâu lại chết rồi đi về đâu? Cũng giống như mặt trời mặt
trăng mọc lặn trong bầu trời thênh thang và hòn bọt nổi tan trong biển cả
chẳng có nghĩa lý gì. Để thấy, người tu khi nhận ra bản thể chân thật bất
sanh bất diệt rồi, thấy tất cả tướng sanh diệt ở thế gian chỉ là trò chơi
chẳng có gì bận tâm. Sở dĩ bận tâm với sanh tử là vì chúng ta còn thấy
thân này thật, thấy thân này quan trọng. Hai câu này lấy ý từ hai câu thơ
của người xưa: “Nhật nguyệt chuyển song cốc, cổ kim đồng nhất khâu.” Nghĩa
là mặt trời mặt trăng xoay vần như hai bánh xe, xưa nay ai rồi cũng tới gò
mả, tức là ai rồi cũng chết.
“Lại hỏi: Thế nào là đạo? Thầy đáp: Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi
không ở trong đạo.” Tăng thắc mắc đạo là gì, đạo như thế nào? Thượng Sĩ
đáp: Đạo không ở trong câu hỏi, câu hỏi không ở trong đạo. Bởi vì khởi
niệm tìm hiểu, khởi niệm hỏi là vọng động, đạo không hiện, nên nói đạo
không ở trong câu hỏi. Và, câu hỏi là tướng sanh diệt cho nên không ở
trong đạo, vì đạo là thể bất sanh bất diệt.
“Lại hỏi: Cổ đức nói: ‘không tâm là đạo’, phải chăng? - Thầy đáp: Không
tâm chẳng phải đạo, không đạo cũng không tâm.” Chúng ta thường nghe nói:
“Không tâm là đạo.” Tại sao ở đây Thượng Sĩ phủ nhận, nói không tâm chẳng
phải đạo? Vì tâm và đạo là hai từ ngữ đối đãi dựng lập, nó chỉ là giả danh
không thật có. Thể chân thật tự nó không có tên thì nói gì là đạo nói gì
là tâm? Cho nên đứng về mặt thể thì không đạo cũng không tâm. Thượng Sĩ
đáp như thế sợ vị Tăng ấy còn nghi nên nói tiếp: “Nếu người bảo: không tâm
là đạo, thì tất cả cỏ cây đều là đạo sao?” Cỏ cây là vật vô tri, nếu nói
không tâm là đạo thì cỏ cây vô tri là đạo sao? Không đúng. “Nếu lại nói:
không tâm chẳng phải đạo thì đâu cần nói có, không!” Nếu nói có nói không
là còn thấy hai bên, là đã ở trong chỗ có tâm rồi.
“Nghe tôi nói kệ: Vốn không tâm không đạo, có đạo chẳng không tâm, tâm đạo
vỗn rỗng lặng, chỗ nào lại đuổi tầm?” Thể chân thật tự nó không có tướng
mạo, không có danh tự. Đã không tướng mạo danh tự thì nói tâm hay nói đạo,
cũng chỉ là lời nói hư dối không thật, nên nói có đạo chẳng không tâm, vì
thấy có đạo liền thấy có tâm, không thể nói không tâm được. Tâm hay đạo
vốn rỗng lặng, nó không có tên và tướng nhất định để chúng ta có thể nhìn
thấy hay sờ mó, thì làm sao theo đuổi tìm kiếm? Thượng Sĩ nói tới đây thì
vị Tăng khế hội ý chỉ của Ngài dạy, nên lễ bái.
2. Dịch:
Vị
khác hỏi:
-
Bạch Thượng Sĩ, thế nào là đại ý Phật pháp?
Thầy đáp:
Đầu trạnh vỗ sóng mắt sâu bọ
Cánh bằng lướt gió ruột kiến trùng.
Lại hỏi:
-
Thế ấy thì học nhân được chỗ vào.
Thầy nói:
Gãi ngứa không phải người khác ngứa
Đói ăn chính thật là ông ăn.
Lại hỏi:
-
Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
Thầy đáp:
Ra
vào trong nước đái trâu
Chui rúc trong đống phân ngựa.
Lại nói:
-
Thế ấy thì chứng nhập đi vậy.
Thầy bảo:
-
Không niệm nhơ nhớp là thân thanh tịnh. Nghe tôi nói kệ:
Xưa nay không dơ sạch
Dơ
sạch thảy tên suông.
Pháp thân không ngăn ngại
Nào sạch lại nào dơ.
Giảng:
Tăng muốn biết đại ý của Phật pháp, nên đến hỏi Thượng Sĩ, Thượng Sĩ trả
lời bằng hai câu câu thơ rất thi vị. Câu này ngày xưa ngài Lâm Tế hỏi Tổ
Hoàng Bá bị Tổ cho ăn gậy. Ở đây, Thượng Sĩ hiền quá không cho ăn gậy, mà
lại nói thơ nghe như chơi. Điều này cho chúng ta thấy Thiền Trung Hoa quá
táo bạo, còn Thiền Việt Nam thì thi vị hiền hòa. Con trạnh là loại rùa
biển, đầu mình to, mắt thì nhỏ như sâu bọ, vì nó ở ngoài biển nên bị sóng
vỗ trên đầu nó. Cánh bằng là chỉ con chim lớn, thường gọi là đại bàng,
cánh to lướt gió, bay trên hư không che rợp mát cả bầu trời, ruột nó nhỏ
bằng con kiến con trùng. Thiền tăng muốn hiểu về đại ý Phật pháp đến hỏi
thì bị Thiền sư Trung Hoa đập một gậy, không hiểu gì hết. Ở đây thì Thượng
Sĩ nói hai câu thơ nghe qua cũng chẳng biết nói gì! Tuy vậy, trọng tâm trả
lời không hai, mà cách sử dụng phương tiện của Thiền sư Trung Hoa và Thiền
sư Việt Nam có khác. Cả hai đều nhằm đưa người học đạo đến chỗ dứt nghĩ
bàn. Câu hỏi này xưa kia ngài Lâm Tế đem hỏi Tổ Hoàng Bá bị ăn đòn, nên từ
giã tìm đến Thiền sư Đại Ngu. Thiền sư Đại Ngu hỏi:
-
Ông từ đâu đến?
-
Con ở Hoàng Bá đến.
-
Hoàng Bá dạy ông lời gì?
-
Con ba phen hỏi đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh. Chẳng biết con có lỗi hay
không lỗi.
-
Hoàng Bá với tâm lão bà đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi
có lỗi không lỗi.
Ngay câu ấy, ngài Lâm Tế đại ngộ. Ở đây Thượng Sĩ đọc thơ diễn tả con rùa
biển to mà mắt nhỏ giống như con sâu, con chim đại bàng lớn mà ruột nó nhỏ
như con kiến con trùng. Diễn tả ngược ngạo như vậy cốt không cho người học
đạo khởi tâm chấp trước. Thế mà vị Tăng vẫn chưa hiểu, nói:
“Thế ấy thì học nhân được chỗ vào.” Như vậy là con vào được rồi. Thượng Sĩ
bảo: “Gãi ngứa không phải người khác ngứa, đói ăn chính thật là ông ăn.”
Tức là mình ngứa chỗ nào, mình gãi mới đúng chỗ mình ngứa, người khác biết
đâu mà gãi cho mình. Cũng như mình đói mình ăn mình mới no, người khác
không ăn thế cho mình được. Ý nói thấy được chỗ vào đó là ông thấy và ông
sống chớ không ai thế cho ông được việc này.
“Lại hỏi: Thế nào là Pháp thân thanh tịnh? Thượng Sĩ đáp: Ra vào trong
nước đái trâu, chui rúc trong đống phân ngựa.” Chỗ này trong kinh Pháp Bảo
Đàn Lục Tổ có dạy ba mươi sáu cách trả lời trong pháp đối đãi. Thí dụ hỏi:
Thế nào là trắng? Đáp: Do đen mà có trắng. Hỏi: Thế nào là tối? Đáp: Do
sáng mà có tối. Dùng sáng trả lời tối, dùng đen trả lời trắng. Vì tất cả
pháp thế gian nằm trong pháp đối đãi không thật, pháp này có là do đối đãi
với pháp kia mà lập ra. Nếu không có tối thì có lập sáng không? Bây giờ,
nếu có ai hỏi: thế nào là sáng, chúng ta trả lời sáng là thấy mọi vật
trước mắt, thấy đường đi ... Diễn tả như thế để cho người ta hiểu, nhưng
không chắc là hiểu đúng. Vì sự thật nếu không có tối thì làm sao biết
sáng? Từ ngữ “sáng” có là do từ ngữ “tối” mà lập. Sở dĩ nói cái này đen là
do đối với cái kia trắng, do trắng mà nói đen, nếu tất cả sắc cùng một màu
thì không còn nói đen. Như vậy, có trắng là do có đen, có tối là do có
sáng, cho nên lấy tối mà đáp sáng, lấy đen mà đáp trắng. Ở đây hỏi Pháp
thân thanh tịnh là thế nào, Ngài lấy nước đái trâu đống phân ngựa là đồ
nhơ nhớp để đáp, đó là cái thuật đáp trung thành với lời dạy của Lục Tổ.
Hiểu như thế mới hiểu được ý nghĩa của câu đáp, bằng không thì thấy thô
tháo kỳ quái.
“Lại nói: Thế ấy thì chứng nhập đi vậy. Thầy bảo: Không niệm nhơ nhớp là
thân thanh tịnh.” Còn thấy nhơ nhớp là còn chấp hai bên đối đãi, nếu hết
niệm nhơ nhớp thì ngay đó là Pháp thân thanh tịnh. “Nghe tôi nói kệ: Xưa
nay không dơ sạch, dơ sạch thảy tên suông, Pháp thân không ngăn ngại, nào
sạch lại nào dơ?” Thượng Sĩ nói ngôn ngữ chúng ta lập ra, đây là dơ kia là
sạch là lập trong đối đãi, không thật, nên nói là tên suông. Pháp thân là
Thể chân thật vượt khỏi pháp đối đãi, nên không có gì ngăn ngại. Đã không
ngăn ngại thì nói thanh tịnh, dơ bẩn làm gì? Thế nên, muốn thấy được Pháp
thân chân thật thì phải vượt ra ngoài cái thấy hai bên đối đãi nhơ sạch.
3. Dịch:
Lại hỏi:
-
Tổ Qui Sơn nói: “sau trăm năm, lão tăng đến dưới núi làm con trâu”, ý chỉ
thế nào?
Thầy đáp:
Nếp đỏ mổ thừa hạt anh võ,
Ngô đồng biếc đậu cành phượng hoàng.
Lại hỏi:
-
Xưa Thái tử Tất-đạt-đa vào miếu thiên thần, tượng thần sụp lạy dưới chân
việc ấy thế nào?
Thầy đáp:
Xòe nắm vẫn một bàn tay
Ấn
mắt thấy ngàn sai khác.
Giảng:
Câu: “Tổ Qui Sơn nói: ‘sau trăm năm, lão tăng đến dưới núi làm con trâu’ ý
chỉ thế nào” được nói gọn từ câu bảo chúng của Tổ Qui Sơn: “Sau khi lão
tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ ‘Qui
Sơn tăng Linh Hựu’. Khi ấy gọi là Qui Sơn tăng hay gọi là con trâu? Gọi là
con trâu hay gọi là Qui Sơn tăng? Gọi thế nào mới đúng?” Vị Tăng hỏi ý chỉ
của câu nói này, được Thượng Sĩ đáp: “Nếp đỏ mổ thừa hạt anh võ, ngô đồng
biếc đậu cành phượng hoàng.” Hai câu này là thơ của Đỗ Phủ. Đỗ Phủ muốn
dùng lối thơ đổi ngược để diễn tả cái kỳ đặc của ông (Xem bản chữ Hán). Từ
cái ý đổi ngược đó chúng ta thấy rõ ý nghĩa câu chuyện này. Câu nói xuôi
là chim anh võ mổ hạt nếp đỏ, đây đổi ngược lại là nếp đỏ mổ thừa hạt anh
võ. Và câu: ngô đồng biếc đậu cành phượng hoàng, nói xuôi là: chim phượng
hoàng đậu cành ngô đồng biếc. Thượng Sĩ dẫn hai câu thơ của Đỗ Phủ để nói
lên ý nghĩa gì? Tôi đọc lời dạy chúng của Thiền sư Bổn Tịch, thuộc tông
Tào Động cho quí vị nghe để hiểu ý nghĩa này:
Ngài dạy chúng:
-
Tình phàm kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồi hỗ.
Người lấy chánh mạng thật phải đủ ba thứ đọa: Một là phi mao đới giác. Hai
là bất đoạn thanh sắc. Ba là bất thọ thực.
Khi ấy, Trù Bố Nạp hỏi:
-
Phi mao đới giác là cái gì đọa?
Sư
đáp:
-
Là loại đọa (bản xưa chép sa-môn đọa).
-
Bất đoạn thanh sắc là cái gì đọa?
-
Là tùy đọa (tùy loại đọa).
-
Bất thọ thực là cái gì đọa?
-
Là tôn quí đọa.
Sau, Ngài nói kệ dạy chúng, Vân Môn hỏi:
-
Thế nào là hạnh sa-môn?
Sư
đáp:
-
Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy.
-
Liền khi ấy đi thì sao?
-
Ngươi lại chứa được chăng?
-
Chứa được.
-
Ngươi làm sao chứa?
-
Mặc y ăn cơm có cái gì khó?
-
Sao chẳng nói mang lông đội sừng?
Những câu đáp của ngài Tào Sơn cũng nhằm nói lên ý của Thiền sư Qui Sơn
nói ở trước. Theo quan niệm thông thường của chúng ta, tu là phải đi lên,
chết là phải làm tiên thánh. Khi nghe ngài Qui Sơn nói Ngài chết sẽ làm
con trâu dưới núi, chúng ta nghĩ tu cả đời chết mà bị đọa làm con trâu
dưới núi thì buồn, sợ, thắc mắc. Ngài nói không nhằm ý này, đây chỉ là một
lối nói. Ngài Tào Sơn nói muốn được chánh mạng là phải đủ ba thứ đọa, đọa
thứ nhất là phi mao đới giác đọa. Phi mao đới giác chỉ cho loài cầm thú,
đó là con trâu dưới núi. Ý nói sa-môn muốn đến tận chỗ cứu kính thì, phải
sống như con trâu ăn cỏ lúa mà không nghĩ suy hơn thiệt, không phân biệt
phải quấy. Tuy nói con trâu, nhưng ngầm ý nói sống hoạt động mà tâm không
động, làm tất cả mà tâm không xao xuyến lo nghĩ. Nghe nói con trâu, chúng
ta tưởng tu chết sanh làm con trâu nên lo. Vì vậy, Thượng Sĩ dùng hai câu
thơ đảo ngữ để trả lời, đây là lối nói ngược chớ không phải nói theo lẽ
thông thường.
Sau Vân Môn hỏi: “Thế nào là hạnh sa- môn?” Tức là phi mao đới giác đọa
thì Thiền sư Tào Sơn trả lời: “Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy?” Ăn lúa mạ
của thường trụ là ăn cái gì? - Sáng đánh kiểng, sa-môn tới quả đường thọ
thực là ăn lúa mạ của thường trụ, ăn chỉ biết ăn, không khởi niệm khen chê
hay mong cầu; ăn như trâu ăn cỏ không nghĩ suy tính toán. Vân Môn hỏi
tiếp: “Liền khi ấy thì sao?” Thiền sư Tào Sơn trả lời: “Ngươi lại chứa
được chăng?” Vân Môn đáp: “Chứa được.” Thiền sư Tào Sơn hỏi: “Ngươi làm
sao chứa?” Vân Môn đáp: “Mặc y ăn cơm có cái gì khó?” Khi mặc y, ăn cơm,
làm việc, đi, đứng... tâm không khởi niệm phân biệt so sánh mới chứa được
“cái sa-môn đọa” hay “phi mao đới giác đọa”. Thiền sư Tào Sơn nói tiếp:
“Sao chẳng nói mang lông đội sừng?” Chúng ta thấy các Thiền sư không ngại
không e dè nói lên những điều xấu. Chúng ta ngày nay tu, lúc gần tịch muốn
nói cho oai, hoặc nói cho người ta thích thì nói tốt, không dám nói những
cái xấu sợ người ta buồn. Các Ngài thì không sợ, dám dùng lối nói ngược và
xấu như vậy đó.
Người khi đã đạt đạo, thực hành hạnh Bồ- tát, sống trong các loài mà không
có tâm niệm dính mắc trong các loài, đó là hạnh của các Thiền sư. Trong
kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn, Bồ-tát Quán Thế Âm có nguyện: Nếu chúng sanh
cần đồng nam độ, Ngài hiện đồng nam độ, nếu chúng sanh cần đồng nữ độ,
Ngài hiện đồng nữ độ, chúng sanh cần tể quan độ, Ngài hiện tể quan độ...
Tùy sở cầu của chúng sanh mà Bồ-tát hiện thân để hóa độ, chớ không cố định
hiện ở cõi người hay cõi trời thôi.
Vị
Tăng ấy nhắc lại câu chuyện: Thái tử Tất-đạt- đa vào miếu thiên thần,
tượng thần sụp lạy dưới chân, hỏi Thượng Sĩ việc ấy như thế nào?
Trong sử có ghi một đoạn nói về việc này. Lúc Thái tử lên ba, được di mẫu
dẫn tới yết kiến thần Kỳ-bà Thiên, khi Ngài bước vào đền thì tượng thần
đứng dậy đảnh lễ Ngài. Thượng Sĩ đáp bằng hai câu kệ: “Xòe nắm vẫn một bàn
tay, ấn mắt thấy ngàn sai khác.” Nghĩa là xòe năm ngón tay ra hay co năm
ngón tay lại, cũng chỉ là một bàn tay, chớ không có hai bàn tay một xòe
một nắm. Cái thấy cũng vậy, đứng thấy hay ngồi thấy cũng chỉ là cái thấy
thôi. Tại vì dụi mắt làm cho mắt lòa nên thấy có muôn ngàn thứ sai khác.
Để thấy, những tướng lạ coi như mầu nhiệm, nhưng đối với Thiền sư, các
Ngài thấy đó chỉ là một việc thường, không có gì quan trọng.
4. Dịch:
Có
vị hỏi:
-
Ngài Nam Tuyền bán mình, ý chỉ thế nào?
Thầy đáp:
-
Chính lúc chưa bán mạng, ý chỉ thế nào?
Vị
Tăng lặng câm. Thầy nạt đuổi ra.
Giảng:
Một hôm, Thiền sư Nam Tuyền ở giữa chúng nói rằng:
-
Lão tăng sẵn sàng bán thân này cho các ông, có ai mua không? Bán với giá
không mắc không rẻ.
Đây là thuật khai ngộ của người xưa, vị Tăng này không thông, chỉ hiểu
Thiền sư Nam Tuyền bán thân nên mới đem hỏi Thượng Sĩ. Thượng Sĩ hỏi lại:
“Chính lúc chưa bán mạng, ý chỉ thế nào?” Phương tiện của người xưa nói
ra, nhằm khai ngộ cho đệ tử nhận ra ý chỉ Thiền. Bán thân mà không bán
mắc, không bán rẻ. Vậy bán giá nào? Ai biết được giá này để mua? Nếu bán
giá cao thì mắc, bán giá thấp thì rẻ, giá nửa chừng cũng thuộc rẻ. Vậy ai
mua được? - !!!
5.Dịch:
Có
vị hỏi:
-
Hòa thượng Thủy Lạo mới đến tham vấn Mã Tổ, hỏi về “ý Tổ sư từ Ấn Độ
sang”. Mã Tổ đạp một đạp té nhào. Thủy Lạo đứng dậy liền đại ngộ, vỗ tay
cười to: Hả! Hả! Là ý thế nào?
Thầy đáp:
Cái đạp của voi lớn
Không phải lừa chịu nổi.
Lại hỏi:
-
Sau này Thủy Lạo dạy chúng, nói: “từ khi ăn cái đạp của Mã Tổ đến ngày nay
cười mãi chẳng thôi”, lại là sao?
Thầy đáp:
-
Tiếng gầm rống của sư tử thật, đâu phải tiếng kêu rú của dã can.
Lại thưa:
-
Tôi không hiểu.
Thầy dùng kệ chỉ dạy:
Một đạp ngã nhào
Ai hay tìm xét.
Đứng dậy cười to
Lại sanh buồn thảm.
Cần hiểu Tây sang
Ngựa tơ ăn cỏ.
Vị Tăng lễ bái, lui ra.
Giảng:
Câu “thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang”, tất cả người tu Thiền ai cũng thắc
mắc: Không biết Tổ Bồ-đề- đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa mang ý chỉ gì để
dạy cho người? Bấy giờ ngài Thủy Lạo đem ra hỏi Mã Tổ, bị Mã Tổ đạp cho
một đạp, ngài Thủy Lạo té nhào, khi đứng dậy thì đại ngộ, cười hả! hả! Vậy
cái cười đó ý nghĩa thế nào? Thượng Sĩ nói cái đạp đó là cái đạp của voi
lớn, hạng lừa nhỏ chịu không nổi, đừng có hỏi.
Vị
Tăng ấy lại hỏi tiếp: Sau này ngài Thủy Lạo dạy chúng nói, từ khi ăn cái
đạp của Mã Tổ cho đến ngày nay cười mãi không thôi là sao? Thượng Sĩ nói
tiếng gầm rống của sư tử to lớn vang dội cả núi rừng, tất cả thú rừng đều
khiếp đảm, không giống tiếng kêu rè rè của dã can, chẳng thú rừng nào sợ
cả đừng có bắt chước. Mã Tổ biết ngài Thủy Lạo có khả năng lãnh hội được ý
chỉ Thiền, nên Ngài hỏi, Mã Tổ chỉ liền bằng cái đạp, Ngài nhận ra ngay và
cười hả! hả! Nếu là kẻ tầm thường như bọn dã can chúng ta có hỏi câu ấy,
chắc không được ăn đạp. Ngài Thủy Lạo được ăn đạp nên từ đó Ngài cười mãi
không thôi. Theo Thượng Sĩ thì đó là tiếng gầm rống của sư tử, chớ không
phải tiếng kêu của dã can.
Thượng Sĩ dạy như thế mà vị Tăng vẫn chưa hội, nên Ngài phải nói kệ dạy
tiếp: “Một đạp ngã nhào, ai hay tìm xét.” Vừa khởi niệm muốn biết ý Tổ sư
từ Ấn Độ sang là đã trật rồi, huống gì đem ra hỏi. Hỏi là bị ăn đạp té
nhào; ngay khi ăn đạp mà hội được ý Tổ sư như ngài Thủy Lạo thì, cười suốt
đời, còn nếu thắc mắc nghĩ ngợi thì, đã lỗi lại thêm lỗi. “Đứng dậy cười
to, lại sanh buồn thảm.” Ngài Thủy Lạo ăn đạp của Mã Tổ, liền hội được ý
chỉ của Tổ sư, nên cười hả! hả! Thế mà người đời sau cứ thắc mắc nghi vấn
nên buồn thảm; buồn ở chỗ thắc mắc nghi vấn đó. “Cần hiểu Tây sang, ngựa
tơ ăn cỏ.” Hai câu này dẫn lời của Tổ Bát-nhã-đa-la huyền ký cho Tổ
Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, sau này dưới Ngài sẽ có con ngựa tơ ăn cỏ. Ý
của câu này nói, sau Tổ Bồ- đề-đạt-ma sẽ có Mã Tổ ra đời làm hưng thạnh
Thiền tông ở Trung Hoa. Ngựa là Mã, Mã Tổ họ Mã, hiệu Đạo Nhất, đây không
gọi hiệu mà gọi họ. Mã Tổ là người mà Tổ Bát- nhã-đa-la thấy sau này sẽ
làm hưng thạnh Thiền tông tại Trung Hoa và Thiền tông Việt Nam chịu ảnh
hưởng cũng lớn. Vì dưới Mã Tổ có Bá Trượng Hoài Hải, dưới Bá Trượng có Vô
Ngôn Thông. Vô Ngôn Thông đem Thiền tông từ Trung Hoa sang Việt Nam, lập
ra phái Thiền Vô Ngôn Thông sau phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Như vậy là Thiền
tông Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng “ngựa tơ ăn cỏ”.
6. Dịch:
Có
vị hỏi:
-
Kính bạch Thượng Sĩ: “Xanh xanh trúc biếc thảy là pháp thân”, phải chăng?
Thầy đáp:
Hôm qua Sa-di ăn măng bờ suối
Nào khác ngày nay Pháp thân của ông.
Lại hỏi:
-
“Hoa vàng rợp rợp đều là Bát-nhã”, ý thế nào?
Thầy đáp:
Hoa đào đâu phải cội bồ-đề
Sao lại Linh Vân được nhập đạo?
Giảng:
Người hỏi dẫn câu “xanh xanh trúc biếc thảy là Pháp thân” của Thiền sư
ngày xưa ra hỏi. Thượng Sĩ đáp: “Hôm qua Sa-di ăn măng bờ suối, nào khác
ngày nay Pháp thân của ông.” Nếu trúc xanh là Pháp thân thì người ta xắn
măng luộc ăn cũng là ăn Pháp thân sao? Quí vị hiểu thế nào? Người hỏi dẫn
thêm câu nữa: “Hoa vàng rợp rợp đều là Bát-nhã”, ý thế nào? Thượng Sĩ đáp:
“Hoa đào đâu phải cội bồ-đề, sao lại Linh Vân được nhập đạo?” Xưa có một
Thiền sư nói: “Thanh thanh thúy trúc tổng thị Pháp thân, quật quật hoàng
hoa vô phi Bát- nhã.” Nghĩa là trúc biếc xanh xanh là Pháp thân, hoa vàng
rợp rợp là Bát-nhã. Thiền sư nói trúc biếc hoa vàng là Pháp thân là
Bát-nhã. Ý nói Pháp thân, Bát-nhã đầy khắp trên tất cả mọi sự vật. Người
tu khi ngộ đạo rồi, nhìn vật nào cũng thấy là Pháp thân, cũng thấy là
Bát-nhã. Nhưng tại sao người hỏi đem câu đó ra hỏi, Thượng Sĩ nói: Nếu nói
trúc biếc là Pháp thân thì ông Sa-di ăn măng là ăn Pháp thân sao? Và nói
hoa vàng rợp rợp là Bát-nhã thì Thượng Sĩ nói hoa đào không phải là bồ-đề,
tại sao Linh Vân thấy hoa đào lại ngộ đạo? Thượng Sĩ nêu lên hai ý này để
cho chúng ta đừng lầm, nghe người xưa nói trúc biếc hoa vàng là Pháp thân
là Bát-nhã, rồi chấp trúc biếc là Pháp thân, hoa vàng là Bát-nhã. Nếu trúc
biếc là Pháp thân, hoa vàng là Bát-nhã thì Pháp thân và Bát-nhã là pháp
hữu vi có hình tướng sao? Hiểu như thế là kẹt trong hình thức. Thế nên
Thượng Sĩ dẫn câu chuyện của ngài Linh Vân. Ngài Linh Vân ở nơi Qui Sơn
học đạo, một hôm đi ra đường bỗng thấy hoa đào nở rộ, ngay đó Ngài ngộ
đạo. Ngài làm kệ:
Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Kỷ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tòng nhất kiến đào hoa hậu
Trực đáo như kim cánh bất nghi.
Tạm dịch:
Ba mươi năm qua tầm kiếm khách
Bao lần lá rụng lại vin cành
Từ khi thấy được hoa đào nở
Mãi đến bây giờ lại chẳng nghi.
Ngài Linh Vân nói ba mươi năm trở lại đây, Ngài là kiếm khách đi vạch lá
tìm cành, bới những cái nhỏ nhặt không đáng kể. Từ ngày thấy hoa đào nở,
Ngài không còn nghi ngờ, không còn vạch lá tìm cành nữa. Bài kệ này nói
lên sự ngộ đạo của Ngài. Hoa đào có phải là cái cớ làm cho Ngài ngộ đạo
không? Giả sử không thấy hoa đào mà thấy hoa khác Ngài ngộ thì nói sao? -
Ngộ đạo không phải tại hoa, mà do thời tiết nhân duyên chín muồi, nội tâm
thanh tịnh thuần thục rồi, bất chợt một hình ảnh hay âm thanh nào đó kích
thích vào mắt vào tai, chúng ta liền bừng ngộ. Ở ngài Linh Vân thì kích
thích ở mắt là hoa đào, còn ở ngài Hương Nghiêm thì tiếng vang của gạch
chọi vào cây trúc kích thích vào tai Ngài ngộ. Hoa đào không phải là
Bồ-đề, tiếng vang của cục gạch chạm vào cây trúc cũng không phải Bồ-đề,
nhưng mà ngộ là ngộ Bồ-đề. Như vậy, ngộ là ở nơi người chớ không phải từ
nơi cảnh, nhưng khi tâm người tu đã thuần thục đã chín muồi rồi, bất chợt
gặp một duyên nào bên ngoài, ngay đó liền ngộ. Không phải riêng ở nơi hoa
hay nơi tiếng nhất định, mà bất cứ cái gì xảy ra ngay lúc tâm thuần thục
chín muồi đều ngộ được. Nên biết, chư Tổ thấy trúc biếc nói là Pháp thân,
thấy hoa vàng nói là Bát-nhã, là vì sau khi ngộ đạo, các Ngài nhìn ở đâu,
cảnh nào cũng là Pháp thân hiện, cảnh nào cũng là đạo. Tôi thường nói lúc
chúng ta mê thì thấy cảnh nào cũng phàm tục cả và khi chúng ta đã ngộ thì
thấy cảnh nào cũng là cảnh giải thoát Niết- bàn. Vậy, cảnh không phải là
Niết-bàn giải thoát mà do người ngộ mới thấy cảnh là Niết-bàn giải thoát.
Nhớ, người ngộ đạo mới thấy cảnh là Niết-bàn giải thoát, người còn mê chưa
ngộ, chớ chấp cảnh là Niết-bàn giải thoát, chấp là sai lầm.
Trong bài hồi hướng có câu “tình dữ vô tình tề thành Phật đạo”. Tăng Ni và
Phật tử thường đem câu này hỏi tôi: Tình là chúng hữu tình như người,
trời, súc vật, còn vô tình là loài vô tri như cây đá. Nguyện cho loài hữu
tình thành Phật thì có lý, còn loài vô tình làm sao thành Phật? Như Tăng
Ni Phật tử là loài hữu tình tu thì có ngày thành Phật, chớ cục đá cục sỏi
làm sao tu để thành Phật, mà nguyện “tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo”?
Đó là vấn đề nếu nghiên cứu trên lý thuyết thì thấy rắc rối, còn nếu đã có
thực hành thì chẳng có gì rắc rối. Ví dụ người bị mờ mắt nhìn thấy cái gì
cũng mờ mờ, người sáng mắt nhìn thấy cái gì cũng sáng rõ ràng. Cũng vậy,
khi chúng ta mê thì nhìn mọi vật chung quanh đều mê. Khi chúng ta ngộ thấy
người vật đều ngộ, tức là loài hữu tình và vô tình đều ở trong cái thấy
giác ngộ của chúng ta. Hoặc nói chúng ta giác ngộ thấy tất cả đều là Phật
đạo; thấy người thấy súc vật (hữu tình), thấy cây cỏ, thấy đá sỏi (vô
tình), thấy tất cả đều là Phật đạo, nên nói hữu tình vô tình tề thành Phật
đạo. Chớ không phải chúng ta tu thành Phật rồi cây cỏ đá sỏi cũng thành
Phật theo. Do mê nên thấy tất cả đều mê, do giác nên thấy tất cả đều giác,
gọi là tề thành Phật đạo. Hiểu như thế mới thông suốt, bằng không thì thấy
kẹt thấy rắc rối.
7. Dịch:
Lại hỏi:
-
Có ba Thiền sư đi hành cước, trên đường gặp một con cọp, mỗi vị tránh một
bên đi qua, khi ấy là thế nào?
Thầy đáp:
Gió thổi ngại gì đám hoa rậm,
Trăng rơi nào quản đáy khe sâu.
Lại hỏi:
-
Qui Tông nói: “lớn như con mèo”, ý chỉ thế nào?
Thầy đáp:
-
Miệng nói chẳng phải mình gặp.
Lại hỏi:
-
Trí Kiên nói: “lớn bằng con chó”, ý chỉ thế nào?
Thầy đáp:
-
Lão này dùng được thời cơ, gom hết quét sạch. Nhưng lại đáng tiếc!
Lại hỏi:
-
Thầy thì thế nào?
Thầy đáp:
-
Con chó.
Lại hỏi:
-
Nam Tuyền nói: “đây là con cọp”, ý chỉ thế nào?
Thầy đáp:
-
Gót chân không chấm đất.
Giảng:
Có
một vị Tăng đem câu chuyện của ngài Qui Tông, Trí Kiên, Nam Tuyền đi hành
cước gặp cọp, mỗi người tránh mỗi bên đi qua, hỏi Thượng Sĩ khi ấy là thế
nào? Thượng Sĩ đáp: “Gió thổi ngại gì đám hoa rậm, trăng rơi nào quản đáy
khe sâu.” Ba vị thiện tri thức Qui Tông, Trí Kiên, Nam Tuyền ở chỗ Mã Tổ
đã thông đạo lý rồi, tâm thanh tịnh, các ngài đối duyên xúc cảnh tâm không
khởi niệm phân biệt suy lường hay lo sợ, việc đến hay đi các ngài vẫn bình
thản an nhiên. Cũng giống như gió thổi dù cho đám hoa rậm hay đám cỏ gai,
gió vẫn cứ thổi không ngại. Hay như trăng hiện bóng trong nước, chỗ nào có
nước là trăng hiện bóng, trăng không nghĩ đáy khe này sâu, ngộp, không
hiện, suối kia cạn thoải mái mới hiện. Trăng cứ hiện bóng trong nước mà
không suy lường cân nhắc nên hiện chỗ này không hiện chỗ kia. Hai câu thơ
của Thượng Sĩ ý nói ngài Qui Tông, Trí Kiên, Nam Tuyền tránh cọp để mà đi
một cách tự nhiên, chớ không dấy niệm phân biệt gì cả, giống như gió thổi,
như trăng hiện bóng vậy.
Qui Tông nói: “Lớn như con mèo.” Con mèo sánh với con cọp thì quá nhỏ, thế
mà ngài Qui Tông nói con cọp lớn như con mèo, nên vị Thiền tăng này thắc
mắc hỏi ý chỉ thế nào? Thượng Sĩ đáp: “Miệng nói không phải mình gặp.” Tuy
miệng ngài Qui Tông nói cọp lớn như mèo, nhưng không phải thật tâm nghĩ
như vậy. Đó chỉ là một lối nói, nên đáp “miệng nói không phải mình gặp”.
Lời nói của ngài Qui Tông là lời nói bên ngoài chơi, không phải thật tâm
của Ngài nghĩ như thế.
Trí Kiên nói: “Lớn bằng con chó.” Con chó sánh với con cọp đâu có lớn
bằng, thế mà ngài Trí Kiên nói chó lớn bằng cọp, vị Thiền tăng thắc mắc
nên hỏi, ý chỉ thế nào? Thượng Sĩ đáp: “Lão này dùng được thời cơ, gom hết
quét sạch. Nhưng lại đáng tiếc!” Qui Tông nói cọp lớn như con mèo, Trí
Kiên nói phá: cọp lớn như con chó. Thượng Sĩ nói ngài Trí Kiên khéo dùng
được thời cơ, gom hết quét sạch, nhưng tiếc một chút là còn nói chó, là
còn kẹt chút ít. Vị Thiền tăng hỏi, theo Thượng Sĩ thì thế nào? Ngài đáp:
“Con chó.” Đây là lối nói để cho người hỏi không chấp chó chấp mèo lớn nhỏ
nữa.
Nam Tuyền nói: “Đây là con cọp.” Trước ngài Qui Tông nói cọp lớn bằng con
mèo, kế đó ngài Trí Kiên nói cọp lớn bằng con chó, bây giờ ngài Nam Tuyền
nói đây là con cọp. Vị Thiền tăng ấy thắc mắc ngài Nam Tuyền nói như thế ý
chỉ thế nào? Thượng Sĩ đáp: “Gót chân không chấm đất.” Ngài khen Nam Tuyền
hay chê? Nói như vậy mới là Thiền sư, cây gậy nói là cây gậy, con cọp nói
là con cọp, không nói như con mèo, như con chó. Còn nói chó nói mèo là còn
so sánh. Đối với Thiền sư thì không khởi niệm so sánh mà cũng không quán,
cái gì nói cái ấy, con cọp nói con cọp. Đó là gót chân không chấm đất.
Tại sao người thế tục thấy cái gì nói cái ấy thì chê, Thiền sư thấy cái gì
nói cái ấy lại khen? - Tôi nói cho quí vị hiểu cái nhìn của Thiền sư và
cái nhìn của người thế tục. Người thế tục thì nhìn với cái nhìn so sánh,
chẳng hạn nhìn thấy người này đẹp là do nhớ lại người kia có những nét xấu
hơn người này. Hoặc nhìn thấy hoa này đẹp là do đã thấy hoa kia xấu nên
mới nói cái hoa này đẹp. Lúc nào chúng ta nhìn cũng đem cái khuôn cũ đã
thấy ra so sánh đối chiếu rồi khen đẹp chê xấu v.v... Vậy nói đẹp xấu là
đã mang cái quá khứ lại, để so sánh với cái hiện tại mới có khen chê. Các
Thiền sư thấy thì cứ thấy, thấy cái hoa là cái hoa không khởi thêm một
niệm nào thì đâu có khen đẹp chê xấu. Vì vậy mà Thiền sư Nam Tuyền thấy
con cọp nói là con cọp. Thượng Sĩ khen: “Gót chân không chấm đất.” Gót
chân chấm đất thì dính đất, gót chân không chấm đất thì không có dính gì
cả. Ý khen Nam Tuyền không còn phân biệt chấp trước.
8. Dịch:
Có
vị hỏi:
-
Ngài Hương Nghiêm thông ba tạng kinh, vì sao việc ấy chẳng hiện tiền?
Thầy đáp:
-
Trường Phòng cầm gậy tre.
Lại hỏi:
-
“Chọi trúc quên sở tri”, ý nghĩa thế nào?
Thầy đáp:
-
Lão chài mất thoi cửi vàng.
Lại hỏi:
-
Thế nào là Pháp thân?
Thầy đáp:
Bên ao thấy hai cái
Dưới trăng vui ba người.
Lại hỏi:
-
Pháp thân cùng sắc thân là đồng hay khác?
Thầy đáp:
Gươm mang hiệu Long tuyền
Ngọc xưng tên hổ phách.
Giảng:
Có
vị thắc mắc ngài Hương Nghiêm thông suốt ba tạng giáo điển, hỏi đâu nói
đó, hỏi một đáp mười. Vậy tại sao Thể chân thật không hiện tiền? Thượng Sĩ
đáp: “Trường Phòng cầm gậy tre.” Chúng ta thấy như Ngài trả lời lạc đề,
không dính dáng gì tới câu hỏi. Phí Trường Phòng người đời Hậu Hán được
cái thuật thần tiên, có cây gậy tre, người đời gọi là cây gậy thâu đường
dài trở thành ngắn. Thế nên ông tha hồ đi, dù đường dài muôn dặm, ông chỉ
đi chừng ít phút. Ý Thượng Sĩ nói dù cho thông suốt ba tạng giáo điển, mà
cái chân thật chưa hiện tiền thì chẳng khác nào Phí Trường Phòng có phép
lạ thâu đường. Song phép lạ đó là nhờ cây gậy tre, nếu bỏ gậy tre mà thâu
được đường dài thành ngắn mới hay. Còn cầm gậy tre là còn có chỗ tựa
nương. Cũng thế, ngài Hương Nghiêm tuy thông suốt tam tạng giáo điển,
nhưng vẫn còn nương tựa nơi giáo điển nên Thể chân thật chưa hiện tiền.
“
‘Chọi trúc quên sở tri’ ý nghĩa thế nào?” Ngài Hương Nghiêm ở chỗ Tổ Qui
Sơn, một hôm Tổ hỏi:
-
Ta nghe ngươi ở chỗ tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm,
đó là ngươi thông minh lanh lợi, ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ
đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem?
Ngài bị một câu hỏi này mờ mịt không đáp được. Trở về liêu, soạn hết sách
vở đã học tìm một câu đáp trọn không thể có. Ngài than “bánh vẽ chẳng no
bụng đói”. Đến cầu xin Tổ nói phá. Tổ Qui Sơn bảo:
-
Nếu ta nói cho ngươi, về sau ngươi sẽ chưởi ta; ta nói là việc của ta đâu
can hệ gì đến ngươi.
Ngài bèn đem những sách vở đã thu thập được đồng thời đốt hết. Ngài nói:
-
Đời này chẳng học Phật pháp nữa chỉ làm Tăng thường làm việc cơm cháo,
khỏi nhọc tâm thần.
Ngài khóc, từ giã Tổ Qui Sơn ra đi. Thẳng đến Nam Dương chỗ di tích Quốc
sư Huệ Trung, Ngài trụ tại đây. Một hôm nhân cuốc cỏ trên núi, lượm hòn
gạch ném trúng cây tre vang tiếng, Ngài chợt tỉnh ngộ phá lên cười, nên
nói “chọi trúc quên sở tri”. Tiếng “cốc” của hòn gạch chạm vào bụi tre dội
lại, khiến Ngài quên sở tri. Đoạn sau sẽ giải rõ ý nghĩa câu này.
Thượng Sĩ đáp: “Lão chài mất thoi cửi vàng.” Quí vị xét xem lão chài lưới
cá là người giàu hay nghèo? Lão chài nghèo sao có thoi cửi vàng đánh mất?
Thoi cửi vàng đối với lão chài là một vật quí, phải hết sức gìn giữ bảo
tồn, thế mà lão đã để mất thoi cửi vàng. Thượng Sĩ nêu sự việc này ý muốn
nói gì? Nếu chúng ta tu tới chỗ cứu kính, mà ngơ ngơ không biết gì cả thì
có đúng tinh thần Thiền không? Nếu lấy “cái quên sở tri” làm chỗ cứu kính
thì như lão chài đã đánh mất thoi cửi vàng quí vậy! Theo ngài Hương Nghiêm
thì khi ngộ đạo rồi, tất cả những hiểu biết thông thường không còn nữa,
nên nói quên sở tri. Nhưng nếu nói quên sở tri, e người đời hiểu lầm rằng:
tất cả người ngộ đạo tới chỗ cứu kính không còn biết gì nữa là sai lầm
lớn, nên Thượng Sĩ nói “lão chài mất thoi cửi vàng”. Vì “Biết” đối với con
người là của báu quí như vàng, nếu tu mà không còn “Biết” nữa thì vấp phải
cái lỗi rất lớn. Tôi dẫn nguyên bài kệ cho quí vị rõ.
Nhất kích vong sở tri
Cánh bất giả tu trì.
Động dung dương cổ lộ
Bất đọa thiểu nhiên ki.
Xứ xứ vô tung tích
Thanh sắc ngoại oai nghi.
Chư nhân đạt đạo giả
Hàm ngôn thượng thượng ki.
“Nhất kích vong sở tri.” Ngài Hương Nghiêm nói, Ngài nghe tiếng vang của
hòn gạch chạm vào cây tre, ngay đó Ngài bặt dứt mọi vọng niệm nghĩ suy.
“Cánh bất giả tu trì.” Không nhờ tu hành mà tự nó tan hết, không phải cố
gắng tu mới dẹp được nó. “Động dung dương cổ lộ, bất đọa thiểu nhiên ki.”
Dung là gương mặt, động dung là nhướng mày chớp mắt hay thay mặt đổi mày,
tức là hiện tượng vui buồn thoát ra trên gương mặt, nghĩa là vẻ mặt đang
buồn nghe người nói một câu vừa ý, liền đổi gương mặt buồn thành vui, hoặc
vẻ mặt đang vui nghe người nói một câu bất như ý, liền đổi vẻ mặt vui
thành buồn, đó là động dung. “Dương cổ lộ” là tỏ rõ đường xưa. Cái đổi
thay của gương mặt làm tỏ rõ đường xưa; “đường xưa” chỉ cho Thể chân thật
có sẵn nơi mỗi người. Nó hiển lộ nơi nhướng mày chớp mắt; nó không ở nơi
bộ não trên đầu, không ở nơi quả tim trong lồng ngực, mà tất cả mọi động
dụng của con người đều có mặt “đường xưa”. Thế nên có người được quạt mát
liền ngộ, quạt mát là xúc chạm; đó là do xúc chạm ngộ, có người do nghe
ngộ, có người do thấy ngộ, có người do ngửi ngộ, có người do nếm ngộ. Mỗi
căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều có “đường xưa” hiện. Nhưng vì chúng
ta mê lầm nên chạy theo cái vui buồn ưa thích mà quên, nên không biết
“đường xưa” lúc nào cũng hiện nơi sáu căn. “Bất đọa thiểu nhiên ki.” Nên
biết mỗi động dụng nhướng mày chớp mắt đều hiện bày “đường xưa”, không rơi
vào lối nhỏ. “Xứ xứ vô tung tích.” “Đường xưa” ở mỗi nơi mỗi nơi không có
tung tích. “Thanh sắc ngoại oai nghi.” Oai nghi của “đường xưa” ở ngoài
thanh sắc. Tại sao nói chỗ nào, cũng bày ra “đường xưa”, mà lại nói chỗ
nào cũng không có tung tích của nó? - Vì “đường xưa” không thuộc về pháp
hữu vi có hình tướng, nên tìm tung tích không được. Tuy “đường xưa” có
hiện ra, mà hiện ra ngoài thanh sắc, chớ không hiện trong thanh sắc. “Chư
nhân đạt đạo giả, hàm ngôn thượng thượng ki (cơ).” Những người đạt đạo đều
gọi là bậc thượng thượng cơ (ki), ngài Hương Nghiêm nhận ra Thể chân thật
(đường xưa) hiện đủ nơi sáu căn, không thiếu.
Trường hợp ngài Lâm Tế bị Tổ Hoàng Bá đánh, rồi tới ngài Đại Ngu, nghe
ngài Đại Ngu nói: “bà già Hoàng Bá đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến
trong ấy hỏi có lỗi không lỗi”, ngay đó Ngài ngộ đạo. Ngài Lâm Tế nhận ra
“đường xưa” từ nơi ý biết lỗi và không lỗi. Ngài Linh Vân thấy hoa đào nở
ngộ đạo; ngài Linh Vân nhận ra “đường xưa” từ nơi mắt thấy. Ngài Hương
Nghiêm nghe tiếng cục gạch chạm vào cây tre ngộ đạo; ngài Hương Nghiêm
nhận ra “đường xưa” từ nơi tai nghe tiếng. Đó là chỗ ngộ đạo của người xưa
từ nơi mỗi giác quan khác nhau; giác quan nào “đường xưa” cũng hiện sẵn,
tùy theo duyên tu mà mỗi vị nhận ra đường xưa ở mỗi giác quan khác nhau.
Câu “chọi trúc quên sở tri” mà vị Tăng dẫn ra để hỏi Thượng Sĩ chỉ là câu
đầu trong tám câu kệ ngộ đạo của ngài Hương Nghiêm. Nếu lấy đó làm chỗ cứu
kính thì bị Thượng Sĩ quở “mất thoi cửi vàng”. Hiểu cho rõ mới hiểu được ý
nghĩa Thượng Sĩ dạy.
Tăng hỏi “thế nào là Pháp thân” Thượng Sĩ đáp: “Bên ao thấy hai cái, dưới
trăng vui ba người.” Trên hồ nước trong, nếu chúng ta đi trên bờ hồ thì
thấy bóng mình hiện dưới nước, mình đi đâu bóng đi theo đó, giống như có
hai người cùng đi. Và, trong đêm trăng sáng, chúng ta đứng trên sân thì
thấy bóng mình, mình và chú cuội trên mặt trăng, gồm ba người. Hỏi “thế
nào là Pháp thân”, Thượng Sĩ dùng hai câu thơ “bên ao thấy hai cái, dưới
trăng vui ba người”. Vì khi nói tới pháp thân thì người ta nghĩ tới báo
thân; pháp thân và báo thân là hai thân. Hoặc nói tới pháp thân, người ta
nhớ tới hóa thân, báo thân; hóa thân, báo thân, pháp thân là ba thân. Đó
là mượn hình ảnh bên ao, dưới trăng để nói pháp thân có báo thân và hóa
thân. Hỏi một, Thượng Sĩ đáp ba.
Tăng hỏi: “Pháp thân cùng sắc thân là đồng hay khác?” Thượng Sĩ đáp: “Gươm
mang hiệu Long Tuyền, ngọc xưng tên Hổ Phách.” Pháp thân cùng sắc thân nếu
đồng thì là một, nếu khác thì là hai. Thượng Sĩ nói cây gươm được khắc
hiệu Long Tuyền. Cây gươm và hiệu Long Tuyền là một hay là hai? Cây gươm
không rời hiệu Long Tuyền và hiệu Long Tuyền không ngoài cây gươm. Và, hòn
ngọc tên Hổ Phách; hòn ngọc và Hổ Phách là một hay là khác? - Không phải
một cũng không phải khác, vì hòn ngọc không rời tên Hổ Phách và tên Hổ
Phách không ngoài hòn ngọc. Cây gươm hòn ngọc và hiệu Long Tuyền tên Hổ
Phách gắn liền nhau, nhưng cây gươm và hòn ngọc thì thật, còn hiệu Long
Tuyền và tên Hổ Phách là giả danh. Giả sử bây giờ đem thanh gươm và hòn
ngọc bán cho người khác, người ta không gọi thanh gươm là Long Tuyền, mà
khắc trên thanh gươm một cái hiệu khác và cũng không gọi hòn ngọc là Hổ
Phách, mà gọi bằng một cái tên khác có được không? - Vẫn được. Cũng vậy,
pháp thân là thực thể, sắc thân là giả tướng; pháp thân cùng với sắc thân
không phải đồng cũng không phải khác, hay không phải một cũng không phải
hai. Thế mà người đời cứ thấy hai bên hoặc là đồng hoặc là khác. Vì vậy
khi hỏi về Pháp thân, Thượng Sĩ trả lời “gươm mang hiệu Long Tuyền, ngọc
xưng tên Hổ Phách”, rất khéo, không kẹt không dính.
* |