TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỰ LỤC GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

ĐỐI CƠ

(Trả lời người hỏi)

(tt)

            9. Dịch:

            Có vị hỏi:

            - Thế Tôn nói: “Suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ.” Vậy mười hai phần giáo từ đâu mà được?

            Thầy đáp:      

                        Hơi xông khỏi hộp mong về lại,

                        Thuốc báu mở bình muốn bệnh tiêu.

            Lại hỏi:

            - Thế nào là Phật của chính mình?

            Thầy đáp:

                        Chẳng đến rượu bồ đào

                        Khó gặp người đập hũ.

            Lại hỏi:

            - Làm sao lý hội?

            Thầy đáp:

                        Nhà lớn một đêm ngủ

                        Sông dài chung đò qua.

            Lại hỏi:          

            - Thế nào là tâm cổ Phật?

            Thầy đáp:

                        Trọn nói khắp thành không quốc sắc

                        Đâu hay cửa tía có thuyền quyên.

            Lại hỏi:

            - Cổ nhân nói “tức tâm tức Phật” vì sao Phật không hiện tiền?

            Thầy đáp:

                        Phanh trai tìm ngọc dù khó gặp

                        Mổ cá cầu châu uổng công thôi.

            Lại hỏi:

            - “Không thể dùng trí biết, không thể dùng thức hiểu” thì thế nào?

            Thầy đáp:

                        Người gỗ vào biển hát vô sanh

                        Gái đá xuyên mây thổi tất lật.

            Lại hỏi:

            - Thế ấy thì không hiểu cũng không biết?

            Thầy đáp:

                        Khổng Nhân chưa đến, truy phong biết

                        Tiết Chúc chẳng nhờ, tiệt vũ hay.

            Lại hỏi:

            - “Thấy sắc liền biết tâm”, ý chỉ thế nào?

            Thầy đáp:

                        Vào nước lõa thể nên cởi khố

                        Chớ học Hàm Đan quên ngọc đào.

            Giảng:

            Câu “suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ” trích dẫn từ kinh Lăng-già. Nếu Phật nói suốt bốn mươi chín năm hoằng hóa, Ngài chưa từng nói một chữ, Phật đã không nói một chữ, như vậy thì mười hai phần giáo từ đâu mà được?

            Mười hai phần giáo theo luận Trí Độ nguyên chữ Phạn gồm có:

            1- Tu-đa-la, 2- Kỳ-dạ, 3- Già-đà, 4- Ni-đà-na, 5- Y- đế-mục-đa, 6- Xà-đà-già, 7- A-phù-đạt-ma, 8- A- ba-đa- na, 9- Ưu-ba-đề-xá, 10- Ưu-đà-na, 11- Tỳ-phật-lược, 12- Hòa-già-la. Đây là mười hai chủng loại của tất cả kinh điển mà đức Phật đã thuyết trong đời Ngài.

            1- Tu-đa-la dịch theo tiếng Trung Hoa là Khế Kinh, là những lời Phật dạy khế hợp với chân lý phù hợp với căn cơ của chúng sanh.

            2- Kỳ-dạ dịch theo tiếng Trung Hoa là Trùng Tụng, là văn kệ lập lại ý của đoạn văn xuôi ở trên. Thể loại này có rất nhiều trong kinh Pháp Hoa.

            3- Già-đà dịch theo tiếng Trung Hoa là Phúng Tụng. Phúng tụng và trùng tụng khác nhau ở chỗ, trùng tụng là phần văn kệ lập lại ý của đoạn văn kinh ở trên, còn phúng tụng là phần kệ tụng riêng, không lập lại ý của đoạn kinh ở trên.

            4- Ni-đà-na dịch theo tiếng Trung Hoa là Nhân Duyên; trước sau tương sanh là nhân, hiện tướng trợ thành là duyên. Trong các kinh do nhân duyên Phật vì người khác diễn nói. Ví dụ trong nước Xá-vệ có một chàng trai giăng lưới bắt chim, bắt được chim nhốt trong lồng, cho ăn lúa uống nước rồi lại thả đi. Đức Thế Tôn biết nhân duyên đó mà nói kệ:

                        Chớ khinh tội nhỏ

                        Cho là không họa

                        Giọt nước dầu nhỏ

                        Lần đầy lu lớn.

            5- Y-đế-mục-đa dịch theo tiếng Trung Hoa là Bản Sự, là thể loại kinh kể lại tiền thân của đệ tử Phật. Thí dụ ngài A-nan đa văn bậc nhất là do đời trước Ngài tu hạnh tụng kinh đúng thời khóa thầy qui định, không lơi lỏng biếng trễ.

            6- Xà-đà-già dịch theo tiếng Trung Hoa là Bản Sanh, là thể loại kinh kể lại tiền thân của đức Phật. Ví dụ khi chưa thành đạo, đức Phật Thích-ca có một kiếp làm quốc vương thực hành hạnh từ bi và bố thí lóc thịt cứu con bồ câu đói.

            7- A-phù-đạt-ma dịch theo tiếng Trung Hoa là Vị Tằng Hữu; là thể loại kinh kể những việc kỳ đặc chưa từng có trong hàng đệ tử Phật, từ hàng xuất gia đến cư sĩ. Ví dụ trưởng giả Úc-già một hôm dẫn một đoàn thể nữ vào rừng hoan lạc. Ông uống rượu say túy lúy đi lạc đường, từ xa trông thấy đức Thế Tôn ở giữa rừng cây uy nghi đẹp đẽ, các căn thanh tịnh, tức thì ông tỉnh rượu, liền đảnh lễ Thế Tôn. Đó là việc thứ nhất chưa từng có của trưởng giả Úc-già. Sau đó, ông nghe Thế Tôn thuyết Tứ Diệu Đế, nghe xong, tại chỗ ngồi ông thấu suốt được lý khổ, tập, diệt, đạo. Đó là việc thứ hai chưa từng có của trưởng giả Úc-già. Sau đó, ông đắc pháp dứt nghi, qui y Phật Pháp Tăng, giữ năm giới, trọn đời lấy phạm hạnh làm đầu, chưa từng phạm giới. Đó là việc thứ ba chưa từng có của trưởng giả Úc-già. Sau khi qui y Phật Pháp Tăng xong, về nhà họp hết các thể nữ tuyên bố trả tự do cho họ, tùy ý ai muốn đi đâu thì đi, hoặc muốn lập gia đình với những người đàn ông khác tùy ý, ông sẵn lòng gả cho không chút lòng hối tiếc. Đó là việc thứ tư chưa từng có của trưởng giả Úc-già. Khi ông đến chúng Tỳ- kheo thực hành hạnh bố thí, dù có chư thiên trụ ở giữa hư không bảo ông nên cúng dường vị Tỳ-kheo này, không nên cúng dường vị Tỳ-kheo kia, nhưng ông luôn luôn cúng dường với tâm vô phân biệt. Đó là việc thứ năm chưa từng có của trưởng giả Úc-già...

            8- A-ba-đa-na dịch theo tiếng Trung Hoa là Thí Dụ; là thể loại kinh mượn ví dụ làm sáng tỏ ý Phật nói. Kinh Pháp Hoa có nhiều thí dụ như Gã cùng tử, Dược thảo, Hóa thành...

            9- Ưu-ba-đề-xá dịch theo tiếng Trung Hoa là Luận Nghị; là thể loại kinh văn Phật lý luận với ngoại đạo, hoặc lý luận với những vị công thần vua chúa như kinh Tu-nhàn-đề, kinh Sa-môn quả...

            10- Ưu-đà-na dịch theo tiếng Trung Hoa là Tự Thuyết; là thể loại kinh văn Phật thấy cần dạy bảo cho đệ tử điều gì, nhóm chúng lại giảng cho nghe, không đợi các Tỳ-kheo thắc mắc thưa hỏi mới giảng dạy.

            11- Tỳ-phật-lược dịch theo tiếng Trung Hoa là Phương Quảng; là thể loại kinh văn nói rộng thênh thang diễn đạt nghĩa lý cao siêu mầu nhiệm cho hàng Thượng căn nghe.

            12- Hòa-già-la dịch theo tiếng Trung Hoa là Thọ Ký; là thể loại kinh văn Phật thọ ký cho hàng đệ tử sau này sẽ thành Phật do nhờ tu hạnh Bồ-tát.

            Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy có nhiều thể loại kinh văn như Khế kinh, Trùng tụng, Phúng tụng, Nhân duyên, Bản sanh, Bản sự, Thí dụ, Thọ ký... Như vậy, trong một bộ kinh có nhiều phần giáo (thể loại) trong đó. Chớ không phải nói mười hai phần giáo là mười hai bộ kinh.

            Phật nói kinh đủ mọi phần giáo, mọi lãnh vực, thế mà Ngài nói Ngài chưa từng nói một chữ, làm cho vị này thắc mắc hỏi Thượng Sĩ. Thượng Sĩ đáp: “Hơi xông khỏi hộp mong về lại, thuốc báu mở bình muốn bệnh tiêu.” Ý Ngài nói tất cả ngôn ngữ Phật nói ra khỏi miệng cho đệ tử nghe, chẳng khác nào hơi xông ra khỏi hộp. Tuy Ngài nói rất nhiều cho người nghe, nhưng qui lại không ngoài tự tâm. Thượng Sĩ ví Pháp Phật được Phật nói ra như là thuốc báu đựng trong bình vàng, vì muốn cho chúng sanh hết bệnh, nên mới mở nắp bình rót ra cho người uống, để được hết bệnh. Tất cả công dụng làm cho chúng sanh hết bệnh gốc từ trong bình mà ra. Như vậy dù cho nói bao nhiêu kinh điển, rốt cuộc cũng không ngoài khai thị cho mọi người nhận ra tâm thể thanh tịnh có sẵn nơi mình. Thế nên mười hai phần giáo đức Phật nói xong, Ngài phủ nhận là Ngài chưa từng nói một chữ. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện không phải là cái thật, thể thanh tịnh có sẵn nơi mỗi người mới là chân thật cứu kính. Đứng về Thể chân thật thì không có ngôn ngữ nào diễn tả được, không có văn tự nào ghi được, nên mới nói chưa từng nói một chữ. Đây Thượng Sĩ nói hơi xông ra từ cái hộp, nhưng hơi là cái tạm chớ không phải cái thật. Cũng như thuốc báu đem ra trị hết bệnh, gốc từ cái bình chớ không phải cái ra ngoài, cái trị bệnh. Nói tóm lại, tất cả ngôn ngữ Phật nói ra chỉ là phương tiện không phải cứu kính chân thật, cứu kính chân thật chỉ là tâm.

            Hỏi: “Thế nào là Phật của chính mình?” Thầy đáp: “Chẳng đến rượu bồ đào, khó gặp người đập hũ.” Thượng Sĩ dạy, nếu muốn biết Phật của chính mình thì phải ngộ; ngộ là nhận ra ngay, không cần hỏi, giống như muốn thấy những gã say thì phải tới quán rượu; tới đó sẽ thấy không cần hỏi.

            Hỏi: “Làm sao lý hội?” Thầy đáp: “Nhà lớn một đêm ngủ, sông dài chung đò qua.” Phật của chính mình là ở ngay nơi mình. Thiền sư Phó Đại Sĩ nói: “Đêm đêm ôm Phật ngủ.” Vậy là Phật và mình không xa lạ, không cách biệt. Nhưng, chúng ta ôm Phật ngủ mà không biết Phật. Lúc nào cũng cùng đi với Phật, cũng cùng ngủ với Phật mà hỏi Phật ở đâu, yêu cầu chỉ, có ngớ ngẩn không? Đa số chúng ta ai cũng ngớ ngẩn hết.

            Hỏi: “Thế nào là tâm cổ Phật?” Thầy đáp: “Trọn nói khắp thành không quốc sắc, đâu hay cửa tía có thuyền quyên.” Tâm cổ Phật là tâm Phật xưa. Tâm Phật xưa là cái gì? Thượng Sĩ nói: hỏi tâm cổ Phật giống như nói cả thành không có người nào đẹp cả, nhưng đâu ngờ trong thành có nhiều nhà sang trọng, trong đó có lắm người đẹp (thuyền quyên). Như vậy đâu có nơi nào thiếu người đẹp. Người hỏi thế nào là tâm cổ Phật, tức là người đó không nhìn nhận nơi mình có tánh Phật, nên Thượng Sĩ nói nhà giàu nào mở cửa cũng có các cô tiểu thơ đẹp, có thiếu đâu mà đi tìm kiếm?

            Hỏi: “Cổ nhân nói ‘tức tâm tức Phật’, vì sao Phật không hiện tiền?” Thượng Sĩ đáp: “Phanh trai tìm ngọc dù khó gặp, mổ cá cầu châu uổng công thôi.” Thượng Sĩ nói muốn cho Phật hiện tiền thì phải ngay nơi sáu căn mình mà nhận, cũng như muốn lấy ngọc trai (con trai có chứa ngọc gọi là ngọc trai) thì phải ngay con trai mà mổ để lấy mới có, chớ còn mổ cá để lấy ngọc trai thì không bao giờ được. Qua lời đối đáp của Thượng Sĩ, chúng ta thấy Thiền sư Việt Nam thật là nên thơ, hỏi câu nào cũng đáp thành thơ hết.

            Hỏi: “Không thể dùng trí biết, không thể dùng thức hiểu” thì thế nào? Thượng Sĩ đáp: “Người gỗ vào biển hát vô sanh, gái đá xuyên mây thổi tất lật.” [Kèn của một giống dân xưa, thổi nghe rất buồn.] Chỗ cứu kính là Thể chân thật không hình không tướng nên không thể dùng trí để biết, dùng thức để hiểu, thế mà Thiền khách muốn biết muốn hiểu, đến hỏi Thượng Sĩ, nên Thượng Sĩ đáp:

            “Người gỗ vào biển hát vô sanh, gái đá xuyên mây thổi tất lật.” Người gỗ có tri thức không mà hát bài vô sanh? Nếu hát được thì không còn là gỗ. Đây Thượng Sĩ nói người gỗ vào biển hát được lời vô sanh, chớ không phải người gỗ vô tri vô giác. Và, gái đá xuyên qua mây thổi kèn tất lật. Gái đá thổi kèn là sao? - Tới chỗ rốt ráo dường như không có trí để nhận xét, không có thức để phân biệt, nhưng lại bình an, dường như là vô tri mà có đầy cả diệu dụng, giống như người bằng gỗ biết hát vô sanh, gái bằng đá biết thổi kèn tất lật. Ý Thượng Sĩ nói người tu đến chỗ cứu kính giống như người gỗ, giống như gái đá dường như vô tri nhưng có những diệu dụng không thể lường.

            Chỗ này trong Thiền sử, có đoạn Thiền khách hỏi ngài Thần Hội: tới chỗ không còn có trí biết thức hiểu thì thế nào? Và, một vị Tăng hỏi ngài Nam Nhạc: “Như gương đúc tượng, sau khi tượng thành không biết cái sáng của gương đi về chỗ nào?” Ngài bảo: “Như Đại đức tướng mạo lúc trẻ thơ hiện giờ ở đâu?” Tăng hỏi: “Tại sao khi thành tượng không chiếu soi?” Ngài nói: “Tuy không chiếu soi, nhưng dối y một điểm cũng không được.” Ý nói người tu tới chỗ cứu kính không dùng trí để quán, không dùng thức để phân biệt, song cái gì cũng biết, không dối gạt được những bậc này. Nên tôi thường dụ cái gương sáng để ở trước, gương tự nó không phân biệt, không hiểu biết. Nhưng người mặc áo vàng đứng trước gương, thấy bóng người mặc áo vàng hiện trong gương. Người mặc áo tím đứng trước gương, thấy bóng người mặc áo tím hiện trong gương, không lẫn lộn, hình nào hiện ra bóng nấy. Như ở trước tôi  nói thấy con cọp nói là con cọp. Nghĩa là tới chỗ cứu kính không dùng trí cũng không dùng thức để phân biệt so sánh, mà vẫn có cái biết hiện tiền. Cái biết hiện tiền không có tác dụng đối đãi so sánh, mà thấy cái gì là cái nấy, thấy cọp là cọp. Nếu không biết làm sao nói là cọp? Song, không so sánh khác với mèo, khác với chó. Như vậy, ý câu này nói khi chúng ta tu đến chỗ cứu kính thì không dùng trí để biết không dùng thức để hiểu, mà vẫn có cái giác sáng rỡ, không phải là vô tri.

            Hỏi: “Thế ấy thì không hiểu cũng không biết?” Thượng Sĩ đáp: “Khổng Nhân chưa đến, truy phong biết, Tiết Chúc chẳng nhờ, tiệt vũ hay.” Người hỏi thắc mắc nếu như vậy thì như không hiểu không biết, vì có trí mới biết, có thức mới hiểu. Thượng Sĩ đáp rằng con ngựa truy phong (đuổi gió) là con ngựa chạy nhanh như gió, Khổng Nhân tuy mắt chưa thấy con ngựa, chỉ nghe người diễn tả cũng có thể biết là ngựa truy phong. Và ông Tiết Chúc tuy mắt chưa thấy cây gươm tiệt vũ (cây gươm bén chặt sợi lông cũng đứt) nghe người diễn tả cây gươm, ông cũng biết đó là gươm tiệt vũ. Chuyện này lấy từ điển tích Khổng Phương Nhân là người có tài xem ngựa, khi ngựa chưa chạy mà Khổng Nhân đã thấy cái thế chạy nhanh ở chân ngựa, ngựa nào chạy nhanh như gió, nhìn chân ngựa là Khổng Nhân biết ngay không đợi thấy ngựa chạy. Còn Tiết Chúc là người giỏi xem kiếm, kiếm chưa chém vật trên cạn hay sợi lông nhẹ ở dưới nước, mà Tiết Chúc đã thấy sắc bén của kiếm. Ý Thượng Sĩ nói tuy không hiểu không biết, tức là không dùng trí không dùng thức để đối chiếu so sánh, mà vừa nghe qua là đã nắm được rồi, không đợi phải thấy và phân biệt mới biết. Đó là cái dụng phi thường của người tu tới chỗ cứu kính.

            Hỏi: “Thấy sắc liền biết tâm, ý chỉ thế nào?” Thượng Sĩ đáp: “Vào nước lõa thể nên cởi khố, chớ học Hàm Đan quên ngọc đào.” Hàm Đan là kinh đô nước Triệu, người dân ở đây đi bộ rất tài. Những người tuổi trẻ ở nước Yên muốn học đi bộ phải qua Hàm Đan học. Nhiều người nước Yên qua Hàm Đan học đi bộ chưa giỏi, mà đã quên nước Yên nên nói quên ngọc đào. Người hỏi: “Thấy sắc liền biết tâm” ý chỉ thế nào? Thượng Sĩ dạy vào nước lõa thể nên cởi khố cùng lõa thể như người ta. Vì thấy sắc liền biết tâm; khi nhìn cái hoa này quí vị liền biết tâm chưa? Tâm ở chỗ nào? - Tâm ở ngay nơi thấy hoa đó. Từ lâu tất cả chúng ta cứ nghĩ tâm là cái gì xa lạ ngoài mình, chớ không ngờ ngay khi thấy sắc là tâm; tâm thấy. Vậy muốn biết tâm thì đừng tìm kiếm ở đâu xa mà ngay khi thấy liền biết tâm đang thấy. Vậy nên Thượng Sĩ dạy vào nước lõa thể nên lõa thể theo. Và, muốn tới xứ Hàm Đan học nghề thì chớ quên quê hương của mình.

            10.Dịch:

            Xin hỏi:

            - Thế nào là gia phong của Thượng Sĩ?

            Thầy đáp:

                        Nhàn ném trái rừng kêu vượn tiếp

                        Lười câu cá suối khiến hạc tranh.

            Lại hỏi:

            - Tổ ý cùng giáo ý là đồng hay khác?

            Thầy đáp:

                        Sóng, nước tên tuy khác

                        Búp, nở một đóa hoa.

            Lại hỏi:

            - Bồ-đề, phiền não đồng khác thế nào?

            Thầy đáp:

                        Vị muối trong nước

                        Trong sắc màu keo.

            Lại hỏi:

            - Thế nào là nghiệp sanh tử?

            Thầy đáp:

                        Sương thu lấm tấm phủ hoa lau

                        Đêm tuyết tung tăng trời trăng sáng.

            Lại hỏi:

            - Ngài Dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ, vì sao thành Phật không nghi?

            Thầy đáp:

                        Đào đỏ trên cây đúng thời tiết,

                        Cúc vàng bên dậu nào phải xuân.

            Lại hỏi:

            - Tọa thiền tập định thì thế nào?

            Thầy đáp:

            - Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái.

            Lại hỏi:

            - Chẳng tọa thiền tập định thì thế nào?

            Thầy đáp:

            - Thuyền Phạm Lãi sông hồ vui thú.

            Giảng:

            Hỏi “thế nào là gia phong của Thượng Sĩ” là hỏi nếp sống trong nhà của Ngài, được Thượng Sĩ đáp “nhàn ném trái rừng kêu vượn tiếp, lười câu cá suối khiến hạc tranh”. Nghĩa là khi rảnh rang thì ném trái cây rừng kêu vượn khỉ tới ăn. Và, khi lười thì ngồi câu bên bờ suối, được cá thì kêu hạc tới mổ ăn. Ý nói tất cả những gì Thượng Sĩ được thảy trao cho chúng sanh hết; làm tất cả việc cho chúng sanh, mà không bận không rối vẫn thường tự tại là gia phong của Thượng Sĩ. Chúng ta ngày nay sở dĩ chao đảo là vì không biết nhàn không biết lười, làm việc gì cũng thấy quan trọng, nên lo lắng không yên.

            Hỏi: “Tổ ý cùng giáo ý là đồng hay khác?” Tức là ý Tổ và ý Kinh là đồng hay khác? Thượng Sĩ đáp: “Sóng, nước tên tuy khác, búp nở, một đóa hoa.” Nghĩa là sóng và nước tên tuy khác nhưng thể không hai. Và, đóa hoa khi còn búp và khi nở tên tuy khác nhưng thể không hai.

            Hỏi: “Bồ-đề phiền não đồng khác thế nào?” Ở trên nói ý Tổ và ý Kinh không khác thì dễ hiểu, tới đây hỏi Bồ- đề và phiền não đồng hay khác thì khó trả lời, nhưng Thượng Sĩ đáp: “Vị muối trong nước, trong sắc màu keo.” Nước thì không mặn, nhưng có muối tan trong nước thì nước mặn. Vậy vị mặn của nước biển và nước biển là một hay khác? Con người trong cõi đời này đang khổ, nên thích Bồ-đề ghét phiền não, vì vậy đi tu để thoát khổ. Nhưng Bồ-đề và phiền não có cách xa không? - Tôi ví dụ có ai đó tới nói vài lời xúc chạm mình thì mình nổi giận. Khi cơn giận nổi lên thì lúc đó mình phiền não. Nhưng, nếu người chọc mình, cười, nói: “ê, mắc mưu tôi rồi!” mình chợt tỉnh, hết buồn, phiền não lặng, lúc đó Bồ- đề hiện. Vậy, phiền não và Bồ-đề có tách rời nhau không? - Thật ra phiền não và Bồ-đề không hai, nhưng vì chúng ta cố chấp phân biệt nên thấy có hai. Từ lâu chúng ta quen có quan niệm những tánh xấu là phiền não, những tánh tốt là Bồ-đề. Nếu có một chút phiền não khởi lên là chúng ta buồn khổ, muốn vất đi, nhưng vất cho ai cũng không được. Vậy phải làm sao?

            Tôi xin hỏi quí vị khi nào chúng ta phiền não? Lúc tâm yên lặng có phiền não, hay tâm dấy niệm chạy theo sắc, thanh... mới có tham sân khởi lên? - Khi tâm dấy niệm chạy theo sắc thanh... mới có phiền não; mắt thấy sắc đẹp khởi tâm tham, muốn chiếm đoạt cho mình, không được thì buồn khổ, tai nghe tiếng không êm dịu xúc chạm đến mình thì bực tức sân giận đỏ cả mặt mày. Vậy, khi nghe người nói xúc chạm đến mình liền quán xét, thân này do đất nước gió lửa hợp thành không phải là ta, ý niệm chợt khởi chợt mất cũng không phải là ta thì xúc chạm ai? Lời nói như gió thổi qua tai thì có gì xúc chạm? Mình không thật, lời nói không thật, phiền não cũng không thật, nghe qua, nằm cười chơi, không ngồi dậy đi ăn thua với người, thì đâu có phiền não. Thế thì những thứ buồn giận... gọi là tâm phiền não, chúng ta thấy nó không thật nó tự mất, tâm lặng yên, lúc đó là Bồ-đề. Nhìn đúng thì tất cả là Bồ-đề, nhìn sai thì phiền não khởi dậy ầm ầm. Tóm lại, do chấp, thấy sai, nên phiền não khởi, tỉnh giác thấy đúng,  phiền não tự lặng tức Bồ-đề. Như vậy phiền não Bồ-đề vốn không hai, từ tâm dấy động là phiền não, tâm lặng yên là Bồ-đề. Vì vậy mà Thượng Sĩ nói “vị muối trong nước, trong sắc màu keo”. Trong màu xanh, vàng, đỏ, trắng... pha chất keo lẫn trong màu sơn mới dính. Keo và màu không rời nhau, cũng như vị mặn và nước biển không hai. Như vậy là Thượng Sĩ trả lời phiền não Bồ- đề không hai.

            Hỏi: “Thế nào là nghiệp sanh tử?” Thượng Sĩ đáp: “Sương thu lấm tấm phủ hoa lau, đêm tuyết tung tăng trời trăng sáng.” Chúng ta ai cũng sợ nghiệp sanh tử, song nghe Thượng Sĩ nói sao thảnh thơi quá, đẹp vô cùng. Người tu ai cũng có quan niệm tu là để thoát khỏi nghiệp sanh tử, được Niết-bàn giải thoát. Nhưng hỏi thế nào là nghiệp sanh tử, Thượng Sĩ trả lời “sương thu lấm tấm phủ hoa lau”. Về đêm sương rơi phủ lấm tấm trên hoa lau sáng ngày mặt trời mọc, rọi ánh nắng thì sương tan mất. Và “đêm tuyết tung tăng trời trăng sáng”. Ban đêm trời lạnh tuyết rơi cả bầu trời, sáng ngày mặt trời lên nắng ấm thì tuyết tan hết. Ý Thượng Sĩ nói nghiệp sanh tử có đó rồi mất đó không thật, giống như sương hay tuyết đêm rơi ngày tan vậy. Đối với nghiệp sanh tử, trong Chứng Đạo Ca Thiền sư Huyền Giác nói rằng: “Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái.” Nghĩa là tu đã liễu ngộ thì thấy nghiệp chướng sanh tử xưa nay là không thật. Nếu chưa liễu ngộ, còn mê thì tạo nghiệp nào phải đền trả quả nấy không trốn tránh được.

            Thiền sư Hạo Nguyệt hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm rằng:

            - Cổ đức nói: “Liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái.” Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao lại đền nợ trước?

            Trường Sa bảo:

            - Đại đức chẳng biết bản lai không.

            - Thế nào là bản lai không?

            - Nghiệp chướng.

            - Thế nào là nghiệp chướng?

            - Bản lai không.

            Với con mắt mê của chúng ta thì thấy Tổ Sư Tử và vua Kế-tân có nợ trước nên phải trả. Và Tổ Huệ Khả có nợ trước nên phải trả là bị tù rồi chết trong khám. Nhưng đối với Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả thì thấy thân này là duyên hợp không thật, chết sống như trò chơi có gì thật đâu mà trả. Nên khi vua Kế-tân hỏi Tổ Sư Tử:

            - Thầy được không tướng chưa?

            - Đã được.

            - Đã được, thì còn sợ sống chết chăng?

            - Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.

            - Chẳng sợ có thể cho ta cái đầu chăng?

            - Thân chẳng phải cái của ta, huống nữa là đầu.

            Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Nơi cổ phun lên giọt sữa trắng cao chừng một trượng. Cánh tay mặt của vua Kế-tân cũng đứt lìa. Bảy ngày sau vua băng hà.

            Tôi thường dùng ví dụ khi xưa chưa biết đạo, chúng ta là người có quyền thế lấn hiếp kẻ dưới tay mình, họ thù oán mình nhưng vì yếu thế không trả thù được. Khi hết thời mất quyền thế, chúng ta thức tỉnh phát nguyện tu hành. Học đạo thấm nhuần lý Bát-nhã, biết tất cả pháp đều không thật, thân năm uẩn này không thật. Người bị lấn hiếp ngày xưa bây giờ có quyền thế tìm chúng ta để trả thù. Khi xưa chúng ta lấn hiếp họ chừng năm, sáu phần, vì họ không biết đạo nên họ kết oán thù. Ngày nay họ lấn hiếp chúng ta tới chín, mười phần, nhưng, nhờ chúng ta biết đạo thấy rõ các pháp không thật nên không giận, chỉ cười thôi. Như vậy thì có gì là trả! Còn họ thì thấy có trả, vì họ đã làm được những việc để thỏa mãn lòng oán hận đã ôm ấp bấy lâu nay. Như vậy, còn mê thì thấy có đền có trả nghiệp thật. Nếu giác ngộ rồi thì thấy nghiệp sanh tử vốn là không. Thế nên Thượng Sĩ nói “sương thu lấm tấm phủ hoa lau, đêm tuyết tung tăng trời trăng sáng” để nói lên nghiệp sanh tử không có thật. Nghiệp không thật thì sanh tử đâu có gì quan trọng.

            Hỏi: “Ngài A-dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ, vì sao thành Phật không nghi?” Người hỏi dẫn một đoạn trong kinh Pháp Hoa kể giai thoại khi xưa Bồ-tát Di- lặc cũng là bạn đồng tu với đức Phật Thích-ca, nhưng vì Bồ- tát Di-lặc thích đi vào xóm làng chơi, thân cận với các vị trưởng giả, nên có biệt hiệu là Cầu Danh. Ngài không lo tu thiền định, vậy mà Phật vẫn thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật. Đó là cái nghi của người đưa ra hỏi. Thượng Sĩ đáp: “Đào đỏ trên cây đúng thời tiết, cúc vàng bên dậu nào phải xuân.”  Ở Trung Hoa cúc nở vàng rực bên hàng rào không phải là mùa xuân, nhưng đào nở hoa đỏ trên cây đó là đúng tiết xuân. Ý Thượng Sĩ nói tuy Bồ-tát Di- lặc không chuyên tu định tuệ, nhưng có trì tụng kinh nên khi công đức tích lũy đầy đủ rồi, nhân duyên thời tiết đến thì Ngài thành Phật. Sở dĩ Phật Thích-ca dẫn chuyện Bồ- tát Di-lặc cùng tu một lượt với Ngài, mà Ngài đã thành Phật, còn Bồ-tát Di-lặc thì chưa thành Phật là, để nói lên người tu tinh tấn và người tu giải đãi kết quả khác nhau. Thời gian tu của người giải đãi phải trải qua bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp, không thể nói năm năm hay mười năm. Nhưng, dù sao người tu giải đãi cũng đã gieo chủng tử, nhân đã gieo rồi quả ắt sẽ đến, tuy thời gian tu rất lâu, song rồi cũng sẽ thành Phật. Vậy, quí vị tu học ai tinh tấn thì tới nhanh, ai giải đãi rồi cũng tới, mà tới chậm, đừng nói người đó giải đãi là tu không được. Ở đây Tăng Ni cũng vậy, ai tu tinh tấn thì tiến nhanh, ai giải đãi thì tiến chậm.

            Hỏi: “Tọa thiền tập định thì thế nào?” Thượng Sĩ đáp: “Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái.” Câu này lấy từ điển tích: vua nước Việt là Câu Tiễn đi đánh nước Ngô, trên đường đi vua thấy có con ếch to phùng mang có vẻ chống lại xe. Vua bảo dừng xe bước xuống, kính cẩn chào con ếch rồi lên xe đi lại. Khi đó những người hầu cận hỏi: “Tại sao bệ hạ xuống xe chào con ếch?” Vua đáp: “Vì con ếch dũng cảm dám chống lại xe.” Ếch nhái là loài thấp hèn, tại sao vua chúa phải xuống xe chào? Vua xuống xe là vì trọng dũng khí của con ếch. Người tu cũng vậy, không phải tọa thiền tập định là thành Phật, nhưng đó là dũng khí của người tu. Nhờ có dũng khí mới gan dạ ngồi bất động không cựa quậy suốt hai ba giờ đồng hồ. Do dũng khí mới khả dĩ vươn lên tiến đạo.

            Hỏi: “Chẳng tọa thiền tập định thì thế nào?” Thượng Sĩ đáp: “Thuyền Phạm Lãi sông hồ vui thú.” Người tu đến lúc thấy không cần phải tọa thiền tập định, đi đứng nằm ngồi thấy tất cả pháp như tất cả pháp; thấy cái nhà là cái nhà, thấy con chim là con chim, thấy cái hoa là cái hoa, không có một niệm nào khác khởi thì như ông Phạm Lãi ngồi thuyền dạo chơi trên sông hồ rất vui thú. Ý này dẫn từ điển tích Phạm Lãi là người sống trong thời Xuân Thu. Ông giúp Việt vương Câu Tiễn diệt được Ngô Phù Sai, khôi phục lại nước Việt. Việc nước lo xong ông từ bỏ quan chức, lênh đênh trên con thuyền dạo chơi vùng Ngũ Hồ, nên nói “thuyền Phạm Lãi sông hồ vui thú” là vậy.

            11. Dịch:

            Có vị hỏi:

            - Muốn đạt đường vô sanh, cần phải biết cội nguồn. Thế nào là cội nguồn?

            Thầy đáp:

                        Tầm nguồn chẳng có cội

                        Bám cội cũng không nguồn.

            Lại hỏi:

            - Trong kinh nói: “không tức là sắc, sắc tức là không”, ý chỉ thế nào?   

            Thầy im lặng giây lâu, hỏi:

            - Hiểu chăng?           

            Thưa:

            - Chẳng hiểu.

            Thầy hỏi:

            - Ông có sắc thân không?

            Thưa:

            - Có.

            Thầy bảo:

            - Sao nói sắc tức là không?

            Thầy hỏi tiếp:

            - Ông thấy không (hư không) có tướng mạo chăng?

            Thưa:

            - Không.

            Thầy bảo:

            - Sao nói không tức là sắc?

            Lại hỏi:

            - Rốt cuộc thế nào?  

            Thầy đáp:

                        Sắc vốn không không

                        Không vốn không sắc.

            Vị Tăng lễ tạ.

            Thầy bảo:      

            - Nghe tôi nói kệ:

                        Sắc tức là không, không là sắc,

                        Ba đời Như Lai phương tiện đặt.

                        Không vốn không sắc, sắc không không

                        Thể tánh sáng ngời không được mất.

                        Hét!

            Giảng:

            Hỏi: “Muốn đạt đường vô sanh thì phải thấu được cội nguồn. Thế nào là cội nguồn?” Thượng Sĩ đáp: “Tầm nguồn chẳng có cội, bám cội cũng không nguồn.” Cội là chỗ phát sanh ra thân cây cành cây lá cây, còn gọi là gốc. Nguồn là chỗ phát sanh ra dòng nước chảy, gọi là nguồn suối nguồn sông. Thượng Sĩ nói tìm nguồn thì không có cội, nếu bám vào cội thì đâu có nguồn. Ngài dạy muốn thấu triệt được cội nguồn thì đừng có tìm, đừng có bám. Tìm bám thì không thấu triệt được cội nguồn vì còn chấp.

            Hỏi: “Trong kinh nói: ‘không tức là sắc, sắc tức là không’ ý chỉ thế nào?” Thượng Sĩ im lặng giây lâu, hỏi: “Hiểu chăng?” Thưa: “Chẳng hiểu.” Thượng Sĩ hỏi: “Ông có sắc thân không?” Thưa: “Có.” Thượng Sĩ bảo: “Sao nói sắc tức là không?” Thượng Sĩ hỏi tiếp: “Ông thấy không (hư không) có tướng mạo chăng?” Thưa: “Không.” Thượng Sĩ bảo: “Sao nói không tức là sắc?” Hư không không có tướng mạo sao nói không tức là sắc. Thượng Sĩ nói câu này là để phá chấp người hỏi. Người hỏi hoang mang nên hỏi: “Rốt cuộc thế nào?” Thì Thượng Sĩ đáp: “Sắc vốn không không, không vốn không sắc.” Nói sắc vốn không có cái không, và không vốn không có cái sắc, nói như thế có trái với kinh không? - Các Thiền sư thấy không nói là không, thấy sắc nói là sắc, chớ không thấy cái này nói qua cái kia, thấy cái kia nói qua cái này. Vì vậy nên Thượng Sĩ nói “sắc vốn không không, không vốn không sắc”. Đối với Thiền sư sắc là sắc, không là không, nhưng kinh nói khác nên người hỏi không hiểu bèn lễ tạ. Thượng Sĩ bảo hãy nghe Ngài nói kệ: “Sắc tức là không, không là sắc, ba đời Như Lai phương tiện đặt.” Sở dĩ nói sắc tức là không, không tức là sắc là phương tiện của ba đời chư Phật nói ra để phá chấp cho chúng sanh; ngay sắc thân này không có thật thể khiến cho chúng sanh đừng chấp ngã. “Không vốn không sắc, sắc không không. Thể tánh sáng ngời không được mất. Hét!” Tới chỗ cứu kính thì không và sắc tự nó có riêng bản vị của nó; không là không, sắc là sắc, thấy như thế thì tâm mới được thông sáng. Nếu còn dùng ý để so sánh, dùng trí để phân tích quán chiếu thì chưa phải là thể tánh sáng ngời thanh tịnh. Thấy như ngài Vân Môn cây gậy nói là cây gậy, đóa hoa nói là đóa hoa, không dùng thức phân biệt mà cũng không dùng trí quán chiếu, vì còn quán chiếu là còn dùng phương tiện. Hiểu như vậy mới thấy cái hay trong câu đáp của Ngài.

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM