TỤNG CỔ
Giảng:
Tụng Cổ là những lời Phật dạy trong kinh, hay những lời khai thị của các
vị Cổ đức trong nhà Thiền, rất khó hiểu khó hội. Thượng Sĩ đem ra tụng
giải để cho người hiểu, nên gọi là Tụng Cổ. Tụng Cổ không nhất thiết là
lời Phật dạy trong kinh, cũng không nhất thiết là lời của các Thiền sư, có
khi dẫn lời Phật dạy trong kinh, có lúc dẫn lời khai thị của Thiền sư,
cũng có khi dẫn lời của các bậc Thánh nhân. Chúng ta học Tụng Cổ phải cẩn
thận, đừng để hiểu lầm. Lời đầu tiên để tụng, Thượng Sĩ dẫn từ kinh
Niết-bàn.
1. Dịch:
Cử:
Kinh Niết-bàn nói:
Các hạnh vô thường
Là
pháp sanh diệt.
Thầy nói:
-
Cái gì sanh diệt?
Tụng:
Các hạnh vô thường
Là pháp sanh diệt.
Ba cõi mưa mịt mù
Mười phương gió vi vút.
Phàm thánh chẳng ở chung
Rắn rồng không lẫn lộn.
Các hạnh vô thường tất cả không
Tâm sanh diệt kia ai hỏi đáp?
Nếu gặp lão Cồ-đàm thân cóng lạnh
Chưa khỏi ngang hông cho một đạp.
Chao!
Không thấy màu xuân ấm
Hay xem đào lý hoa.
Giảng:
Trong kinh Đại Bát Niết-bàn có bốn câu kệ:
Các hạnh vô thường
Là pháp sanh diệt
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Bốn câu kệ này là gốc của bài Tụng Cổ và rất quan trọng trong kinh
Niết-bàn. Nhưng gây cho người sau nhiều nghi ngờ, nên ở đây Thượng Sĩ dẫn
ra tụng giải để cho chúng ta hiểu. Trước khi giải lời tụng tôi dẫn một
đoạn trong kinh Pháp Bảo Đàn để quí vị hiểu phần căn bản:
Tăng Chí Đạo, người quê ở Nam Hải Quảng Châu đến tham vấn, hỏi Lục Tổ:
-
Học nhân từ khi xuất gia, xem kinh Niết- bàn hơn mười năm, chưa rõ được
đại ý, cúi mong Hòa thượng thương xót chỉ dạy.
Tổ
bảo:
-
Chỗ nào ông chưa rõ?
-
Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là
vui. Chỗ này con nghi ngờ.
-
Ông nghi như thế nào?
-
Tất cả chúng sanh đều có hai thân gọi là sắc thân và Pháp thân. Sắc thân
vô thường có sanh có diệt. Pháp thân thường không tri không giác. Kinh
nói: “Sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui.” Chẳng biết thân nào tịch diệt,
thân nào thọ vui? Nếu là sắc thân, khi sắc thân tịch diệt, bốn đại phân
tán, toàn là khổ, khổ không thể nói vui; nếu Pháp thân tịch diệt tức đồng
cỏ cây gạch đá, ai sẽ thọ vui?
Đây là cái nghi của ngài Chí Đạo, Ngài nêu lên hai vấn đề. Con người có
hai thân, sắc thân và Pháp thân. Sắc thân là tướng sanh diệt vô thường.
Nếu sắc thân tịch diệt bốn đại rã tan thì lúc đó khổ. Vậy sự tịch diệt của
sắc thân không vui. Còn Pháp thân thì vô tri giác, đồng như cỏ cây, khi
tịch diệt cái gì biết vui? Tóm lại sắc thân tịch diệt là khổ, Pháp thân
tịch diệt vô tri, như vậy vui chỗ nào? Ngài Chí Đạo nghi như thế nên bị
Lục Tổ quở:
-
Ông là Thích tử sao tập theo ngoại đạo về đoạn kiến và thường kiến mà luận
nghị về pháp Tối thượng thừa. Cứ theo lời ông nói, tức là ngoài sắc thân
riêng có Pháp thân, lìa sanh diệt để cầu tịch diệt, lại suy luận Niết- bàn
thường lạc nói có thân thọ dụng, đây là chấp lẫn về sanh tử, đắm mê cái
vui thế gian; nay ông nên biết Phật vì tất cả người mê nhận thân năm uẩn
hòa hợp làm thể tướng của mình, phân biệt tất cả pháp cho là tướng ngoại
trần, ưa sanh ghét tử, niệm niệm đổi đời, không biết là mộng huyễn hư giả,
luống chịu luân hồi, lấy thường lạc Niết-bàn đổi thành tướng khổ, trọn
ngày tìm cầu. Phật vì thương những người này, mới chỉ dạy Niết-bàn chân
lạc, trong sát-na không có tướng sanh, trong sát-na không có tướng diệt,
lại không có sanh diệt có thể diệt, ấy là tịch diệt hiện tiền. Chính ngay
khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền, mới gọi là thường lạc.
Vui này không có người thọ, cũng không có người chẳng thọ, há có tên một
thể năm dụng, huống là lại nói Niết-bàn ngăn cấm các pháp khiến hằng chẳng
sanh. Đây là ông chê Phật hủy pháp.
Theo Lục Tổ thì sắc thân và Pháp thân không rời nhau, tịch diệt và sanh
diệt không rời nhau. Ngay nơi mỗi người có cái tịch diệt là Niết-bàn
thường lạc, mà chúng ta không nhận được cái tịch diệt thường lạc đó, chỉ
bám vào cái thân sanh diệt, cho nên mới đem cái thường lạc của Niết-bàn
đổi thành tướng khổ sanh diệt, để rồi cứ tìm cầu suốt đời. Đó là lầm lẫn,
là cái bệnh lớn của chúng ta. Ngay nơi mỗi chúng ta có cái không sanh
không diệt, nhận ra cái không sanh không diệt là thể nhập Niết- bàn thường
lạc, gọi là tịch diệt hiện tiền. Và ngay phút giây hiện tiền cũng không
khởi niệm hiện tiền, đó mới là chân thật Niết-bàn. Cái vui Niết-bàn chân
thật không có người thọ cũng không có người chẳng thọ. Vì còn có người thọ
là còn năng còn sở đối đãi, không phải là Niết-bàn chân thật. Cái vui
Niết-bàn chân thật, không phải là cái vui của cảm giác nơi mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý xúc chạm với trần cảnh; được thỏa mãn thì vui, không thỏa
mãn thì khổ; cái vui cái khổ đó là tướng vô thường sanh diệt. Cái vui tịch
diệt Niết-bàn là khi tâm không còn một mảy may vọng niệm sanh diệt, chỉ là
cái thể không vọng động không sanh diệt nơi nội tâm. Cái vui này không
phải từ thân mà cũng không phải từ đâu đến, do hết niệm sanh diệt, ngay
nơi tâm thể không sanh diệt được vui. Hiểu đoạn này chúng ta mới hiểu được
phần Tụng Cổ mà Thượng Sĩ nêu lên.
Kinh Niết-bàn nói:
Các hạnh vô thường
Là pháp sanh diệt.
Hạnh là hành động, là sanh hoạt của người hay của muôn vật ở thế gian này.
Song người và vật đều có tướng, hễ có tướng là có sanh diệt nên vô thường.
Hai câu đầu chỉ cho người và muôn sự muôn vật ở thế gian đang ở trong
tướng sanh diệt thảy đều là vô thường.
Thượng Sĩ hỏi: “Cái gì sanh diệt?” Ngài hỏi câu này muốn gợi cho chúng ta
thấy tất cả pháp có hình tướng trong cõi đời này đều sanh diệt. Nhưng muốn
tìm cái không sanh diệt phải tìm ngay trong tướng sanh diệt, vì ngoài
tướng sanh diệt, không thể tìm tướng không sanh khoâng dieät ñöôïc. Chuùng
ta khoâng theå noùi moïi söï moïi vaät do coù hình töôùng sanh dieät laø
voâ thöôøng, mà toàn thể đều là sanh diệt. Vì trong cái sanh diệt đã có
cái không sanh không diệt nên Ngài mới đặt câu hỏi này:
Các hạnh vô thường
Là pháp sanh diệt.
Ba cõi mưa mịt mù
Mười phương gió vi vút.
Phàm thánh chẳng ở chung
Rắn rồng không lẫn lộn.
Nếu thấy các pháp là vô thường sanh diệt thì trong tam giới này mưa mịt
mù, mười phương gió vi vút, tức là mọi sự mọi vật ở trong thế gian, cho
đến ba cõi mười phương đều ở trong cái sanh diệt. Nếu chúng ta thấy tất cả
pháp đều sanh diệt thì thấy phàm khác thánh khác không ở chung, thấy rồng
khác rắn khác không lẫn lộn. Nhưng sự thật, trong thế gian này những chỗ
hàng long tượng (rồng to) vẫn có những con rắn ẩn núp trong đó. Những nơi
chúng sanh phàm tình ở, vẫn có các bậc thánh lẫn trong đó để giáo hóa. Để
thấy rằng nếu chúng ta giản trạch tất cả tướng, tất cả hạnh là sanh diệt
vô thường, tức là chúng ta không thừa nhận trong cái sanh diệt có cái
không sanh diệt, cho nên Thượng Sĩ mới nói phàm thánh chẳng ở chung, rắn
rồng không lẫn lộn.
Các hạnh vô thường tất cả không,
Tâm sanh diệt kia, ai hỏi đáp?
Tất cả pháp là vô thường hoại diệt thì thành không, đã thành không rồi thì
ngay tâm sanh diệt cái gì hỏi cái gì đáp? Thượng Sĩ nêu lên câu hỏi này,
nhằm nhắc cho chúng ta ý thức rằng ngay nơi tâm sanh diệt có cái không
sanh diệt biết hỏi biết đáp.
Nếu gặp lão Cồ-đàm thân cóng lạnh
Chưa khỏi ngang hông cho một đạp.
Chao!
Sao Thượng Sĩ nói ngang ngược như thế?
Nếu căn cứ trên hai câu này thì tất cả pháp sanh diệt giống như ba cõi mưa
mù mịt, mười phương gió vi vút. Như vậy thì thân Phật cóng lạnh. Nếu thân
Phật cóng lạnh thì không còn giá trị, cho nên ngang hông cho một đạp té
nhào, vì thân sanh diệt là vô nghĩa.
Không thấy màu xuân ấm
Hay xem đào lý hoa.
Hoa đào hoa lý trổ vào mùa xuân, tuy chúng ta chưa thấy màu xuân ấm mà
thấy hoa đào hoa lý trổ thì biết là tiết xuân. Ý Thượng Sĩ nói tuy chưa
sống trong cảnh giới sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui, nhưng ngay trong
sanh diệt nhận ra cái không sanh diệt đó là người đặc biệt. Nếu đợi sanh
diệt diệt rồi mới thấy thì muộn lắm. Vì vậy nên Thượng Sĩ nói: “Không thấy
màu xuân ấm, hay xem đào lý hoa.” Đó là cái đặc biệt. Tôi thường ví dụ
nước biển nguyên là lặng, nhưng gió thổi sóng dấy lên, nhìn xuống mặt biển
chúng ta thấy từng đợt sóng từng đợt sóng dồn dập. Người trí tuy thấy sóng
biển đang dồn dập mà vẫn biết nước biển vốn phẳng lặng. Vì họ đã thấy cái
thể lặng lẽ của nó. Cũng vậy, trong tất cả tướng sanh diệt của các pháp,
ngay đó biết có cái không sanh diệt mới là người trí. Chớ đợi khi tướng
sanh diệt diệt rồi mới nhận ra cái tịch diệt thì kết quả ở sau.
Tóm lại, hai câu đầu bài tụng này nhắc lại ý của bài tụng trong kinh
Niết-bàn. Hai câu kế diễn tả tướng sanh diệt thì mù mịt lạnh lẽo rất đau
khổ. Hai câu kế tiếp nói rằng nếu chúng ta tách rời tướng sanh diệt và thể
không sanh diệt thì cái nhìn của chúng ta không tường tận, giống như thấy
phàm khác thánh khác, rồng khác rắn khác. Đó là cái thấy phân biệt đối
đãi. Hai câu kế tiếp nữa gợi lên ý cho người hiểu rằng: pháp vô thường thì
bại hoại thành không; đã thành không thì ngay nơi tâm sanh diệt ai hỏi ai
đáp? Tâm sanh diệt chợt có chợt không; nhưng nếu có hỏi là có đáp, vậy cái
gì có sẵn hễ hỏi là đáp liền, hoặc gọi là dạ liền vậy? Cái sẵn đó có bị
sanh diệt không? Nếu nó bị sanh diệt thì khi nó diệt rồi thì ai đáp?
Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy ngay nơi cái sanh diệt có cái không sanh
diệt hằng hiện hữu. Hai câu kế nữa nói rằng nếu tất cả các pháp là vô
thường, thì thân tứ đại của Phật (báo thân) lạnh cóng cũng bị sanh diệt,
vì vậy mà không có giá trị, không phải là cứu kính. Cho nên Thượng Sĩ nói
“nếu gặp lão Cồ-đàm thân cóng lạnh, chưa khỏi ngang hông cho một đạp”. Vậy
đối với báo thân sanh diệt của Phật chỉ là cái thân bỏ đi không có giá
trị, Pháp thân không sanh không diệt mới là cứu kính, có giá trị. Hai câu
sau cùng kết thúc: phải ngay nơi cái sanh diệt nhận được cái không sanh
diệt mới là người khéo, cũng như thấy hoa đào hoa lý nở biết là tiết xuân
vậy.
2. Dịch:
Cử:
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Thầy nói:
-
Uyên Minh châu mày làm gì?
Tụng:
Sanh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.
Chim mỏi đậu khóm lau
Cá mệt dừng đáy nước.
Chẳng ngại thân nhuốm đau
Chỉ e tay chế thuốc.
Đừng đeo mang gánh nặng
Đi qua cầu một cây.
Đến nhà thôi thưa hỏi
Từ đâu lại sẩy chân.
Muôn một không được dừng
Như trước xem mưu lược.
Ối!
Nếu chẳng nhân mê bờ lau lách
Đi càn được đến suối Võ Lăng.
Giảng:
“Uyên Minh châu mày làm gì?” Bình thường thì hai chân mày hở ra, nhưng khi
chúng ta không bằng lòng bất mãn điều gì thì hai chân mày nhíu lại gọi là
châu mày. Uyên Minh là tên người, gọi đủ là Đào Uyên Minh tức Đào Tiềm,
một danh sĩ đời Tấn. Khi nước Tấn mất về tay nhà Tống, ông từ quan lui về
vườn trồng cúc uống rượu ngâm thơ. Ông là tác giả ca khúc Qui Khứ Lai Từ,
được truyền tụng ở đời. Trong đoạn Lư Sơn Ký có ghi ngài Tuệ Viễn ở Lư Sơn
(Lô Sơn) lập hội Bạch Liên Xã mời Uyên Minh vào hội, khi vào hội ông châu
mày, nghĩa là ông không bằng lòng. Thượng Sĩ nói: Uyên Minh châu mày làm
gì? Vì “sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”, tất cả là Niết-bàn chân lạc,
còn có cái gì bất mãn mà châu mày?
Mở
đầu bài tụng này bằng hai câu “sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui” là lập
lại hai câu kệ trong kinh Niết- bàn. Ở trước đã giảng rồi đây tôi không
giảng lại.
“Chim mỏi đậu khóm lau, cá mệt dừng đáy nước.” Chim bay mỏi cánh không bay
nữa, nên đậu vào khóm lau để nghỉ. Cá lội mệt không lội nữa, dừng lại tựa
vào các hòn đá hoặc là các gốc cây dưới đáy nước. Hình ảnh này nói lên
trạng thái sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui, vì lúc đó an lạc thoải
mái.
“Chẳng ngại thân nhuốm đau, chỉ e tay chế thuốc.” Không sợ thân bệnh hoạn,
mà chỉ ngại cân thuốc mỏi tay. Thân bệnh là nhân, cân thuốc là quả; vì có
thân bệnh là nhân mới có quả là cân thuốc để trị. Ý nói đa số chúng ta chỉ
biết nhìn cái quả mà không chịu thấy cái nhân. Cũng như ngay trong cái
sanh diệt đã có cái tịch diệt mà chúng ta không thấy, đợi cái sanh diệt
diệt rồi mới thấy tịch diệt là vui. Thấy như vậy là chỉ thấy cái quả mà
không thấy cái nhân. Ý hai câu này phải khéo mới hiểu được, bằng không thì
thấy như lạc đề.
“Đừng đeo mang gánh nặng, đi qua cầu một cây. Đến nhà thôi thưa hỏi, từ
đâu lại sẩy chân.” Ngài dạy đừng có gánh gánh nặng mà đi qua cây cầu khỉ
(cầu có một cái cây bắc qua sông, lạch, không có cây để vịn). Nếu gánh
nặng mà đi qua cầu khỉ thì sẽ té. Muốn khỏi té thì đừng gánh nặng qua cầu.
Ý nói chúng ta sống trong cõi đời này, nhất là người tu đừng bám víu đeo
mang pháp hữu vi sanh diệt tạm bợ, nếu đeo mang bám víu pháp hữu vi sanh
diệt tạm bợ thì không được an ổn thảnh thơi, bị phiền não bức ngặt. Vậy
nên chúng ta buông tất cả cố chấp, từ bỏ không đeo mang bất cứ một pháp
nào thì trên đường đạo mới được tự tại an bình. Giống như người về đến nhà
cứ bước vào nhà không còn lo sẩy chân trái bước. Sở dĩ sợ té là vì còn
đang đi trên đường, về tới nhà rồi thì không còn sợ té nữa.
“Muôn một không được dừng, như trước xem mưu lược.” Trong muôn phần mà một
phần nhỏ của muôn phần cũng không được dừng, mà phải thấy được cái mưu
lược như trước. Nghĩa là tất cả những gì mình đang quảy đang mang đi vào
đường đạo, đó là cái khó khăn hiểm nguy, dù một phần nhỏ cũng phải bỏ, như
vậy mới sử dụng được mưu lược để thành công. Nhược bằng không được như thế
thì thất bại. Tôi lập lại lần nữa, nếu người tu còn bám chặt còn cố thủ
một cái gì thì không bao giờ đến được chỗ cứu kính. Vì vậy nên nói muôn
một không được dừng tất cả đều phải buông, cho đến một phần trong muôn
phần còn lại cũng phải buông luôn nữa. Chúng ta tu, những điều đáng buông
đã buông được bao nhiêu rồi? Có điều nào tiếc để dành lại không? Chắc có
những điều buông hơi tiếc. Còn giữ lại nên chưa thành đạo. Vậy, tất cả
phải buông sạch.
“Ối! Nếu chẳng nhân mê bờ lau lách, đi càn được đến suối Võ Lăng.” Hai câu
thơ này lấy từ điển tích ở Trung Hoa, vào đời Tấn có một người đi câu cá,
vui bước đi theo bờ lau cuối cùng gặp cái suối tên Võ Lăng. Khi tới suối
Võ Lăng thấy dân cư đông đúc, hỏi ra ông mới biết là con cháu của những
người từ một ngàn năm về trước, tránh nạn bạo Tần vào ở đây, sống cách
biệt hẳn với người ở bên ngoài. Cảnh sống riêng biệt an nhàn của những
người này giống như cảnh tiên, họ không bận bịu buộc ràng với người thế
gian bên ngoài. Người câu cá nhờ say mê đi, càng đi mãi trên bờ lau mới
tới suối Võ Lăng. Nếu ông dè dặt không dám đi thì khó mà đến được. Để
thấy, người tu biết tịch diệt là vui, muốn hưởng được cái vui ấy thì phải
càn rừng lướt bụi, trải qua bao nhiêu khó cực, mà vẫn mải mê không chán
không mệt thì, mới tới được chỗ tịch diệt là vui của kinh Niết-bàn nói.
Bài tụng này cũng nhắc chúng ta tu để đến chỗ tịch diệt là vui.
3. Dịch:
Cử:
Kinh Duy-ma nói:
Quán thật tướng của thân
Quán Phật cũng như vậy.
Thầy: Nở nụ cười.
Tụng:
Quán thật tướng của thân
Quán Phật cũng như vậy.
Tìm kim rơi đất
Ngửa mặt xem trời.
Xưa kia không tấc dạ
Ngày nay lỗi bời bời.
Không trói lại cầu trói
Không ràng lại đến ràng.
Cọp ngồi thật cọp ngồi
Rồng ngủ là rồng ngủ.
Muốn biết thân cùng Phật
Trồng ngó nẩy sen hồng.
Gương ngọc tròn vành lên góc biển
Chỉ nhân ấn mắt có đổi dời.
Giảng:
“Quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như vậy.” Đối với thân, mỗi
người chúng ta phải quán cái gì là thật tướng, cái gì là giả tướng. Vậy
thân tứ đại này là thật hay giả? Nếu nó giả, ai động tới có la không? -
Động tới liền la, nếu nói giả thì ai la? Chẳng lẽ cái giả biết la. Ở đây
Ngài dạy chúng ta quán thật tướng của thân, phân tích để thấy thân này cái
gì là tướng giả, cái gì là tướng thật. Theo kinh Niết-bàn tướng giả là chỉ
cho sắc thân, tướng thật là chỉ cho Pháp thân, gọi đó là thật tướng của
thân. Vậy, thật tướng của thân là Pháp thân của mỗi người. Và, quán thân
Phật cũng giống như vậy.
“Tìm kim rơi đất, ngửa mặt xem trời. Xưa kia không tấc dạ, ngày nay lỗi
bời bời.” Ý bốn câu này quá hay. Thượng Sĩ nói chúng ta phải quán sát thân
này cho thấy cái nào là giả, để nhận ra cái thật. Chẳng khác nào cây kim
rơi xuống đất, chúng ta muốn tìm kim mà ngửa mặt lên trời để tìm, làm sao
thấy được? Tại sao? Vì cội nguồn “xưa kia không tấc dạ” tức là không có
một niệm dấy động mà bây giờ bảo quán thì lỗi bời bời, vô số lỗi. Quán
chiếu thì phải khởi niệm phân tích để thấy tướng giả, càng thêm rối rắm,
vì Thể chân thật vốn lặng lẽ không chút động niệm, mà bây giờ khởi động
niệm để quán nên có lỗi. Chúng ta muốn nhận ra Thể chân thật mà phải tìm
trong cái giả tạm, chẳng khác nào ngửa mặt lên trời để tìm cây kim rơi ở
dưới đất. Đó là chuyện không đâu. Thượng Sĩ hơi trách pháp quán.
“Không trói lại cầu trói, không ràng lại đến ràng.” Theo Thượng Sĩ thì cái
chân thật thản nhiên tự tại, không bị trói không bị buộc. Bây giờ bắt phải
quán chiếu, chẳng khác nào không trói lại cầu trói, không bị ràng buộc lại
chịu ràng buộc.
“Cọp ngồi thật cọp ngồi, rồng ngủ là rồng ngủ. Muốn biết thân cùng Phật,
trồng ngó nẩy sen hồng.” Mọi người chúng ta đối với các pháp hiện tại như
thế nào thì thấy như thế ấy. Chẳng hạn cọp ngồi thì thấy là cọp ngồi, rồng
ngủ thì thấy là rồng ngủ, cần gì phải xét phải quán chi cho nhọc. Vậy muốn
biết thân mình và thân Phật đồng nhau, phải thấy hoa sen trổ hồng gốc từ
ngó sen mà ra, có hoa sen nào trổ mà không từ ngó sen ở dưới bùn chui lên
đâu? Vậy thì thấy thân Phật là thân chân thật và, báo thân Phật cũng như
thân mình cũng có thân chân thật, không cần phải quán thân Phật rồi đối
chiếu lại thân mình, hay quán thân mình rồi đối chiếu thân Phật, thêm dài
dòng. Đó là ý Thượng Sĩ không chấp nhận lối quán chiếu.
“Gương ngọc tròn vành lên góc biển, chỉ nhân ấn mắt có đổi dời.” Mặt trời
từ từ lên tỏa ánh sáng từ phía biển đông, chỉ có một mặt trời thôi, nhưng
nếu chúng ta dụi mắt thì thấy vô số bóng mặt trời khác. Sở dĩ chúng ta
thấy nhiều bóng mặt trời khác như thế là tại chúng ta dụi mắt. Kỳ thật chỉ
có một mặt trời mọc lên ở phía biển đông mà thôi. Thượng Sĩ nói nơi mỗi
người có sẵn Thể chân thật, chỉ cần buông hết mọi kiến chấp mọi phân biệt
thì Thể chân thật hiện tiền, không cần phải quán chiếu so sánh mới thấy
được. Giống như mặt trời lên từ phía biển đông, chúng ta nhìn thì thấy mặt
trời là mặt trời, nhược bằng dụi mắt thì thấy nhiều bóng mặt trời khác, đó
là lỗi tại dụi mắt, chớ một mặt trời vẫn là một mặt trời. Thượng Sĩ dạy
chúng ta tu phải thấy đúng như thật, sự việc như thế nào thấy như thế ấy,
đừng quán chiếu so sánh làm rối thêm không có lợi.
4. Dịch:
Cử:
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền.
Thầy nói:
-
Xem ! Xem!
Lại nói:
Lớn giọng bảo im
Bỏ bánh ăn bột.
Hét!
Tụng:
Đầu vàng (Phật) khua lưỡi gạt chúng sanh
Chốn chốn ngủ say, dạo một mình.
Chẳng quản đêm tàn còn mộng mị
Đinh, đông cửa phượng giục tàn canh.
Giảng:
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt, nếu
hay hiểu như thế, chư Phật thường hiện tiền.” Đức Phật nói: Tất cả pháp
không sanh, tất cả pháp không diệt, nếu chúng ta hằng thấy như vậy thì
Phật thường hiện tiền ở nơi ta. Thượng Sĩ nói: “Xem! Xem!” Xem! Xem! Để
chi? Thấy chư Phật hiện tiền không? Nếu chư Phật hiện tiền thì cứ nhìn sẽ
thấy.
“Lớn giọng bảo im, bỏ bánh ăn bột.” Ở đây nói tất cả pháp chẳng sanh tất
cả pháp chẳng diệt; vậy pháp chẳng sanh pháp chẳng diệt là pháp ở ngoài
hay ở nơi mình? Nếu thấy tất cả pháp chẳng sanh tất cả pháp chẳng diệt hay
hiểu như thế chư Phật thường hiện tiền, mà thấy ở bên ngoài thì chẳng khác
nào chúng ta bảo người khác đừng nói chuyện mà mình lớn tiếng la lên: “Im,
đừng nói chuyện!” Bảo người đừng nói chuyện mà mình lại la to. Giống như
muốn ăn bánh mà bỏ bánh lấy bột. Ý Ngài nói, tại sao chúng ta không thấy
mình là chẳng sanh chẳng diệt, mà phải thấy tất cả pháp chẳng sanh chẳng
diệt, mới thấy được Phật hiện tiền? Nếu tâm mình chẳng sanh chẳng diệt thì
Phật hiện tiền nơi mình, đâu có xa. Ngài cho rằng thấy các pháp chẳng sanh
chẳng diệt như vậy là quanh co. Đó là bỏ cái này để cầu cái kia.
“Đầu vàng khua lưỡi gạt chúng sanh, chốn chốn ngủ say, dạo một mình.” Đầu
vàng là chỉ cho đức Phật, khua lưỡi gạt chúng sanh là lời Phật nói trong
kinh gạt chúng ta. Gạt như thế nào? Vì chúng sanh còn đang say mê, Phật
dạy quán tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt. Như vậy, bảo họ
quán là chỉ cho họ còn những cái say mê, nên nói chốn chốn ngủ say dạo một
mình. Ai dạo? Thiên hạ thì đang ngủ say còn Phật thì đi có một mình thành
ra Ngài đánh lừa mình đi một cách tự do.
“Chẳng quản đêm tàn còn mộng mị, đinh, đông cửa phượng giục tàn canh.” Đêm
đã mãn rồi mà vẫn còn mê ngủ, tiếng kiểng ở đền vua báo sáng rồi mà vẫn
còn nằm ngủ. Ý nói Phật nói tất cả chẳng sanh tất cả chẳng diệt, nếu hay
hiểu như thế, chư Phật thường hiện tiền, đó là Phật nói lừa chúng ta.
Thượng Sĩ nói nếu tâm chẳng sanh chẳng diệt thì ngay đó là Phật rồi, cần
gì phải thấy các pháp chẳng sanh chẳng diệt chi cho lòng vòng. Nhưng, sở
dĩ Phật nói như thế, vì chúng sanh mê chấp các pháp là sanh là diệt, nên
Ngài dạy đừng chấp các pháp. Đa số chúng ta thấy các pháp không sanh không
diệt là thấy Phật hiện tiền, tức là thấy Phật ở ngoài mình, sự thật thì
Phật hiển hiện nơi tự tâm mình, thế nên Thượng Sĩ nói Phật khua lưỡi gạt
chúng sanh. Tại sao Phật gạt chúng sanh? Vì chúng sanh đang mê ngủ, mặc dù
đã tàn canh, tiếng kiểng đánh thức mà vẫn cứ ngủ. Chỉ có một mình Phật là
người tỉnh mới dùng phương tiện đánh lừa bảo phải thấy tất cả pháp không
sanh không diệt là thấy Phật hiện tiền, tức là nhận ra Phật ngay nơi mình.
5.
Dịch:
Cử:
Tăng hỏi Thiền sư Vạn Tuế: Đại chúng nhóm họp, cùng bàn việc gì? Sư đáp:
Phẩm tựa thứ nhất.
Thầy nói:
-
Thứ nhì cũng được.
Tụng:
Nói phẩm tựa thứ nhất
Trên dưới không đồng bậc.
Người trí không thật hư
Kẻ mê sanh được mất.
Người gỗ múa thác chi
Gái đá thổi tất lật.
Muốn tìm rõ ý này
Bát-nhã ba-la-mật.
Giảng:
Ở
Trung Hoa cũng như ở Việt Nam đối với các bậc đức cao đạo cả, để tỏ lòng
tôn kính, chúng ta không dám gọi pháp hiệu của các Ngài mà chỉ gọi tên
chùa. Ví dụ Hòa thượng ở chùa Phước Hậu thì gọi Hòa thượng Phước Hậu. Cũng
vậy, Vạn Tuế là tên ngôi chùa ở núi Cửu Tuyên, Phước Châu, tỉnh Phước Kiến
Trung Hoa. Đời nhà Lương, Thiền sư Huệ Cầu trụ trì tại đây nên người đời
gọi Ngài là Thiền sư Vạn Tuế.
Tăng hỏi Thiền sư Vạn Tuế: “Đại chúng nhóm họp, cùng bàn việc gì?” Sư đáp:
“Phẩm tựa thứ nhất.” Thượng Sĩ nói: “Thứ nhì cũng được.” Tại sao Thượng Sĩ
nói vậy? Vì có thứ nhất thì có thứ nhì đối đãi nhau. Cho nên: “Nói phẩm
tựa thứ nhất, trên dưới không đồng bậc.” Tức là có trên có dưới, có thứ
nhất có thứ hai có thứ ba... có phân biệt sai khác.
“Người trí không thật hư, kẻ mê sanh được mất.” Người trí thấy không thật
không hư thì nói gì có một, có hai, có ba... Kẻ mê thấy có được có mất hai
bên đối đãi, nên mới thấy có phẩm này phẩm nọ.
“Người gỗ múa thác chi, gái đá thổi tất lật.” Thác chi là điệu múa; điệu
múa này trang bị bằng hai hoa sen lớn bằng giấy, hai cô gái đứng trong hoa
sen, tới giờ múa hai hoa sen nở ra, hai cô gái đứng trong hoa sen múa. Tất
lật là một loại kèn, thổi lên âm thanh nghe rất buồn thảm. Hai câu này ý
nói khi chúng ta không còn phân biệt đây là đệ nhất kia là đệ nhị, hoặc
đây thật kia hư thì lúc đó giống như người gỗ, giống như gái đá. Người gỗ
gái đá không có niệm phân biệt, nhưng vũ múa thổi kèn được. Đó là diệu
dụng không thể nghĩ lường của người vô niệm, không còn thức phân biệt.
“Muốn tìm rõ ý này, Bát- nhã ba-la-mật.” Người nào muốn tìm hiểu tột cùng
chỗ này là Bát-nhã ba-la-mật. Chỗ đó là chỗ vô phân biệt, là chỗ vô niệm.
* |