TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỰ LỤC GIẢNG GIẢI

H.T THÍCH THANH TỪ

TỤNG CỔ (tt)

            6. Dịch:

            Cử:

            Tăng hỏi Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường Sa: “Con trùn chặt làm hai đoạn, đoạn nào cũng cử động, vậy Phật tánh ở đoạn nào?” Trường Sa đáp: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?”

            Thầy nói:

                        Hai bên không động,

                        Động ở bên ông.

            Tụng:

                        Con trùn chặt đứt làm hai khúc

                        Mỗi khúc lăng quăng, có ai biết.     

                        Hỏi ra Phật tánh toàn khó thay

                        Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa.

            Giảng:

            Có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm: Con trùn chặt làm hai đoạn, đoạn nào cũng cử động lăng quăng. Vậy lúc đó Phật tánh ở đầu nào? Phật tánh là cái biết, có động tức là có biết, hai bên đều động, vậy Phật tánh ở bên nào? Câu hỏi này thật khó trả lời, thế mà Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm đáp: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?”

            Thiền sư Trường Sa là đệ tử của Thiền sư Nam Tuyền, ban đầu Ngài trụ trì ở chùa Lộc Uyển rồi tùy duyên giáo hóa không nhất định. Về sau Ngài trụ trên núi Trường Sa ở Hồ Nam, giáo hóa đồ chúng rất hưng thạnh. Người đương thời gọi Ngài là Hòa thượng Trường Sa.

            Ngưỡng Sơn đến hỏi:

            - Mỗi người trọn có việc ấy chỉ là dùng không được.

            Ngài bảo:

            - Mời ông dùng.

            - Làm sao dùng?

            Ngài liền đạp Ngưỡng Sơn té nhào. Ngưỡng Sơn nói:

            - Thật là con cọp to.

            Qua lối khai ngộ này chúng ta thấy Ngài quá đặc biệt, thuộc hạng người bạo, Ngài mời Ngưỡng Sơn dùng mà Ngưỡng Sơn không biết dùng, Ngài liền dùng bằng cách đạp Ngưỡng Sơn một đạp té nhào. Không bạo là gì? Và, Ngưỡng Sơn cũng là tay cự phách, bị ăn đạp té nhào, liền nói “thật là con cọp to”. Người đời sau gọi Ngài là Sầm Đại Trùng. Chúng ta thấy lối đối đáp của Ngài quá kỳ đặc. Con trùn đứt làm hai, bên nào cũng giãy giụa, hỏi Phật tánh ở bên nào, Ngài đáp bằng câu hỏi: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?” Có phải ông nghĩ cái động là Phật tánh, còn cái không động là không Phật tánh chăng? - Động cùng không động đâu ngoài Phật tánh, sanh diệt và tịch diệt không ngoài Phật tánh. Đa số chúng ta đều nghĩ Phật tánh chỉ là cái cục cựa nhúc nhích, không ngờ Phật tánh trùm tất cả, nên mới hỏi Phật tánh ở đầu nào? Đây là lối trả lời khéo của Ngài.

            Thiền sư Trường Sa trả lời như thế, còn Thượng Sĩ thì nói: “Hai bên không động, động ở bên ông.” Nghĩa là hai khúc trùn đứt giãy giụa tự nó không động, tại người khởi niệm hỏi nên người đó động. Cũng giống như gió và phướn tự nó không động, mà động ở nơi tâm người khởi niệm tranh cãi gió động hay là phướn động. Thượng Sĩ làm tụng:

                        Con trùn chặt đứt làm hai khúc

                        Mỗi khúc lăng quăng, có ai biết.

                        Hai câu này rất dễ hiểu tôi không giảng.

                        Hỏi ra Phật tánh toàn khó thay

                        Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa.

            “Phanh lòng” là mổ bụng. “Giấu sáu rùa”, từ ngữ này lấy từ điển tích Phật dạy tu sĩ đối với sáu trần nên giống như con rùa. Thường khi dã can gặp rùa, nếu dã can cắn cái đầu thì rùa thụt đầu vào cái mai, nếu dã can cắn chân thì rùa rút chân vào cái mai... Như vậy thì dã can không hại được rùa. Cũng vậy, người tu chúng ta sáu căn vừa chạy theo sáu trần thì phải dừng lại, không để cho sáu căn dính với sáu trần thì được bình an giải thoát. Nếu để sáu căn chạy theo sáu trần thì bất an đau khổ. “Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa” là cô phụ người mổ bụng mình để giấu sáu bộ phận con rùa vào trong, tức là cô phụ lời Phật dạy. Vậy, muốn nhận ra Phật tánh, đừng có chạy theo tướng động và tịnh, mà phải biết hướng sáu căn trở vào, không chạy theo trần cảnh bên ngoài thì không cô phụ lời Phật dạy, còn nếu để sáu căn chạy theo sáu trần thì cô phụ lời Phật dạy.

            7. Dịch:

            Cử:

            Thiền sư Tùng Thẩm ở Triệu Châu. Có vị Tăng vẽ bức chân dung của Sư đem đến trình. Sư bảo: Hãy nói giống tôi không giống tôi? Nếu giống tôi thì đánh chết lão Tăng đi. Nếu không giống tôi thì đốt quách bức họa đi. Vị Tăng lặng câm.

            Thầy nói:

            - Đều là phí công.

            Tụng:

                        Mũi nhọn bút lông khuôn giấy báu

                        Thầm vẽ như nhiên thân bản lai.

                        Dù cho đánh chết, đem thiêu rụi

                        Thượng giới trần gian có mấy ai.

            Giảng:

            Một vị Tăng vẽ chân dung ngài Triệu Châu đem đến trình. Ngài bảo, hãy nói giống Ngài hay không giống Ngài, nếu giống Ngài thì đánh chết Ngài đi, nếu không giống Ngài thì đốt quách bức họa. Vị Tăng không trả lời được. Thượng Sĩ nói, đều là phí công. Tại sao Ngài nói như thế? Vì nói đốt hay nói giết cũng đều là nói hai bên chỉ uổng công thôi.

            “Mũi nhọn bút lông khuôn giấy báu, thầm vẽ như nhiên thân bản lai.” Thường họa sĩ dùng bút lông mũi nhọn vẽ hình người trên giấy gọi là tả chân (chân dung). Song, muốn vẽ cho ra cái chân thật chẳng có mấy người dù trên thượng giới hay dưới trần gian, thấy cái chân thật không qua hình thức vẽ hay tướng mạo, thật là ít có. Cho nên Ngài nói “dù cho đánh chết đem thiêu rụi”. Đánh chết thân tứ đại này hay thiêu rụi bức họa đều là giả tướng, còn thân chân thật như nhiên chẳng mấy người nhận được. Ý Thượng Sĩ nói dù cho thân tứ đại này hay bức họa cả hai đều là giả tướng, chỉ có thân chân thật như nhiên của mình mới là quí, nhưng ít người biết được.

            8. Dịch:

            Cử:

            Qui Sơn gói một tấm gương gởi Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn thượng đường đưa lên bảo: “Hãy nói, đây là gương Qui Sơn, là gương Ngưỡng Sơn? Có người nói được thì không đập bể.” Chúng không nói được. Ngưỡng Sơn đập nát tấm gương.

            Thầy nói:

            - Chưa khỏi cái họa Qui Sơn.

            Lại tiếp:

            - Theo hạnh nhỏ mà bỏ thừa lớn.

            Tụng:

                        Gương báu gói niêm mặt hướng tiền

                        Đưa lên đẹp xấu tự hiện nguyên.

                        Đập đi nỡ phụ ý nung nấu

                        Chỉ nhận sáng trong treo tự nhiên.

            Giảng:

            Ngài Ngưỡng Sơn được thầy là Thiền sư Qui Sơn gởi cho tấm gương; gởi gương là ngầm ý truyền trao hay thọ ký. Khi nhận tấm gương Ngài đối trước chúng nói: “Gương này là của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn? Có người nói được thì để, nói không được thì đập.” Bây giờ quí vị nói coi! Nói của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn cũng là lối nói hai bên, nên không ai mở miệng được. Thế nên Thượng Sĩ bình: “Chưa khỏi cái họa Qui Sơn.” Họa Qui Sơn là họa gì? - Dù cho đem cái gương đập đi cũng không khỏi họa, đó là việc truyền trao hay thọ ký của Qui Sơn.

            Lại tiếp: “Theo hạnh nhỏ mà bỏ thừa lớn.” Ngài Ngưỡng Sơn nêu lên cho mọi người thấy để ngộ, mà trong chúng không ai ngộ, đó là Ngài nghĩ cái nhỏ mà bỏ cái lớn, vì sự truyền thừa là việc lớn. Thế nên Thượng Sĩ làm tụng:

                        Gương báu gói niêm mặt hướng tiền

                        Đưa lên đẹp xấu tự hiện nguyện.

                        Đập đi nỡ phụ ý nung nấu

                        Chỉ nhận sáng trong treo tự nhiên.

            Ý Thượng Sĩ nói gương báu gói lại để mặt gương hướng ra trước, đưa cái gương lên mọi vật hiện trong gương rõ ràng, vật đẹp hiện đẹp, vật xấu hiện xấu không sai lệch. Gương này biểu trưng cho Đại viên cảnh trí, nếu đem gương đập đi là phụ công nung nấu của thầy tổ, đã bao nhiêu năm rèn luyện cho mình, nên đập bỏ không đành. Cứ tự nhiên nhận đi rồi treo cho sáng không hơn sao? Tâm thể chân thật của mỗi chúng ta cũng giống như cái gương không có niệm phân biệt, nhưng đối trước mọi người mọi vật, thấy biết rõ ràng đúng như thật.

            9. Dịch:

            Cử:

            Lão Tử nói: Vinh nhục đều sợ.

            Niêm:

                        Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật

                        Tâm này nẩy nở muôn mối sầu.

            Tụng:

                        Lạnh thì mặc áo, nực cởi ra

                        Không lạnh không nực, ai biết mà.

                        Chỉ xem liễu ngự hoa cung sắc

                        Đâu chỉ tìm xuân bỏ bốn mùa.

            Giảng:

            Lão Tử nói gọn có bốn chữ “vinh nhục đều sợ”. Người ta tán tụng mình như thế nào là vinh? Người ta phỉ báng mình như thế nào là nhục? Xưa Lão Tử sợ cả vinh lẫn nhục, bây giờ chúng ta chỉ sợ thiên hạ phỉ báng, còn tán tụng thì rất thích. Sở dĩ Lão Tử sợ cả vinh lẫn nhục là vì cả hai đều đưa con người đến tâm bệnh. Được tán tụng thì con người khởi tâm ngã mạn, bị làm nhục thì khởi tâm sân hận, bị cái nào cũng bệnh, nên cả hai đều đáng sợ, vì thế mà Thượng Sĩ niêm: “Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật, tâm này nẩy nở muôn mối sầu.” Nếu tay chúng ta khéo vẽ ra hàng ngàn bức ảnh đẹp hoặc làm ra hàng ngàn vật dùng tốt, đều do từ tâm dấy khởi nên sanh ra muôn mối sầu, đủ thứ bệnh.

            “Lạnh thì mặc áo, nực cởi ra, không lạnh không nực ai biết mà.” Nếu lạnh thì mặc áo, nếu nóng thì cởi áo, đó là lẽ đương nhiên, lạnh nực ngầm nói đến vinh nhục. Theo Thượng Sĩ sống là tùy duyên, vinh thì sống theo vinh, nhục thì sống theo nhục có gì mà phải sợ! Không lạnh không nực lúc đó thế nào? “Chỉ xem liễu ngự hoa cung sắc”, câu này dẫn ý từ hai câu thơ của Hàn Duy đề bên thành tây: “Ngự liễu sơ trường giá cẩu trĩ, cung hoa vị thức hãi du nhân” nghĩa là cành liễu ở vườn ngự mới già che con chim trĩ, hoa ở trong cung chưa thức làm du khách sợ hãi. Ý nói chúng ta chỉ nhìn vẻ đẹp của cây liễu trong vườn ngự, và chỉ nhìn sắc đẹp của đóa hoa trong cung vua thì không có lâm vào tình huống “đâu chỉ tìm xuân bỏ bốn mùa”. Nghĩa là thời tiết có xuân, hạ, thu, đông, chúng ta không thể chấp nhận có mùa xuân mà phủ nhận mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Theo Thượng Sĩ thì người tu hiểu đạo lúc nào thấy cảnh cũng đẹp, chớ không phải cảnh chỉ đẹp ở mùa xuân mà mùa hạ, mùa thu, mùa đông cảnh không đẹp. Ý Ngài dạy chúng ta đừng có tâm mong cầu, tìm cái này bỏ cái kia. Đối với người tu, sự vinh nhục không có gì phải sợ, nếu không khởi niệm phân biệt tốt xấu, vinh nhục thì tâm trong sáng bình lặng, tâm đã trong sáng bình lặng thì đâu còn sợ cái gì.

            10. Dịch:

            Cử:

            Thiền sư Lâm Tế đến thăm chủ tháp. Chủ tháp hỏi: “Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?” Lâm Tế đáp: “Tổ Phật đều chẳng lễ.” Chủ tháp hỏi: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oán thù gì mà chẳng lễ?” Lâm Tế liền phủi áo đi ra.

            Thầy nói:

                        Được cỡi đầu cọp

                        Chẳng vuốt râu hùm.

            Tụng:

                        Một lần phủi áo thong thả đi

                        Chủ tháp trợn trừng chẳng liễu tri.

                        Phật, Tổ cùng đều không lễ

                        Thu quang khe sáng ngọc rạng ngời.

            Giảng:

            Thiền sư Lâm Tế đến viếng một cái tháp to, người giữ tháp ra tiếp Ngài, hỏi: “Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?” Nếu là chúng ta thì trả lời “vô lễ Tổ rồi lên lễ Phật”. Nhưng ngài Lâm Tế nói: “Tổ Phật đều chẳng lễ.” Nghe Ngài nói ngang ngược quá, nên chủ tháp nói: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oán thù gì mà chẳng lễ?” Ngài Lâm Tế phủi áo đi ra. Như thế là sao? - Trong nhà Thiền còn thấy Phật khác Tổ khác là chưa thấy đến nơi đến chốn, Ngài khai thị ông chủ tháp nên nói “Tổ Phật đều chẳng lễ”. Ông chủ tháp nghe chẳng hội, mà còn khó chịu hỏi lại: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oan gia gì mà chẳng lễ?” Khai thị cho, chẳng hội mà còn khó chịu thì phủi áo đi chớ còn nói gì nữa? Thế nên Thượng Sĩ nói “được cỡi đầu cọp chẳng vuốt râu hùm”. Ngài ví lời nói không kẹt hai bên của ngài Lâm Tế khai ngộ cho chủ tháp là cỡi đầu cọp, nhưng chủ tháp không hội, ngài Lâm Tế không làm sao cho chủ tháp thức tỉnh được, bỏ đi, nên nói chẳng vuốt râu hùm. Tức là cỡi đầu được mà chưa vuốt râu được.

            “Một lần phủi áo, thong thả đi, chủ tháp trợn trừng chẳng liễu tri.” Ngài Lâm Tế phủi áo đi một cách thong dong tự tại, còn chủ tháp thì bực tức nhìn theo chẳng hiểu gì ý của Ngài chỉ dạy. “Phật, Tổ rốt cùng đều không lễ, thu quang khe sáng ngọc rạng ngời.” Không lễ Tổ, không lễ Phật ví như ánh sáng mùa thu rọi xuống dưới khe nước, nhìn xuống khe như có hòn ngọc rạng ngời. Nói không lễ Tổ không lễ Phật là nói đến tâm thanh tịnh sáng suốt giống như ngọc quí, mà ông chủ tháp không biết, không nhận ra.

            11. Dịch:

            Cử:

            Trần Tôn Túc hỏi vị Tăng: Ở đâu đến? Vị Tăng trợn mắt nhìn Sư. Sư nói:

                        Kẻ lừa trước ngựa sau

                        Nói thử một câu xem?

                        Vị Tăng lặng câm.

            Tụng:

                        Ngựa sau lừa trước chớ ngược ngang

                        Lừa đá ngựa giày lại thế nào?

                        Đêm trước trong mơ người ướm hỏi

                        Hai thây chôn dưới một mồ sâu.

            Giảng:

            Ông Tăng này tỏ ra oai, được hỏi ở đâu đến chỉ trừng mắt nhìn lại mà không trả lời. Nếu không phải là Thiền sư chánh hiệu thì cho ông Tăng này ngộ rồi, nên mới có thái độ kỳ đặc như thế. Nhưng ngài Trần Tôn Túc là một Thiền sư chánh hiệu biết rõ người, nên hỏi: “Kẻ lừa trước ngựa sau, nói thử một câu xem?” Vị Tăng không trả lời được nên làm thinh. Như vậy là bị Ngài phá vỡ. Trần Tôn Túc chỗ khác gọi là Trần Bồ Hài, hiệu Đạo Minh, thủ tọa của hội Hoàng Bá, là sư huynh của Thiền sư Lâm Tế.

            Ngài Trần Tôn Túc nói “lừa trước ngựa sau”, bây giờ Thượng Sĩ nói: “Lừa sau ngựa trước chớ ngược ngang, lừa đá ngựa giày lại thế nào?” Tăng bị hỏi một câu, trả lời không trôi, làm sao đây? “Đêm trước trong mơ người ướm hỏi, hai thây chôn dưới một mồ sâu.” Ý nói vị Tăng này giống như người mơ bắt chước. Thấy các Thiền sư có khi trừng mắt có khi làm thinh, tưởng đâu làm như thế là hay nên bắt chước, nhưng rốt cuộc rồi thì “hai thây chôn dưới một mồ sâu”. Hai thây là thây trợn mắt, thây lặng câm nói không được, nên chôn dưới mồ sâu. Đây là chỉ cho người dốt mà làm cao tưởng như mình giỏi lắm, không ngờ bị các Ngài bẻ lại, điên đầu đáp không được.

            12. Dịch:

            Cử:

            Thiền sư Cảnh Thông về sau trụ trì ở Hoắc Sơn có cư sĩ đến hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư liền lễ bái. Cư sĩ nói: “Hòa thượng vì sao lễ người thế tục?” Sư nói: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?”

            Thầy nói:

                        Vâng, dạ và ừ

                        Cách nhau bao nhiêu?

            Lại Cảnh Thông hỏi vị Tăng: “Từ đâu đến?” Vị Tăng đưa tọa cụ lên. Sư nói: “Đầu rồng đuôi rắn.”

            Thầy nói: “Bóng trăng không phải là sanh kế một nhà.”

            Lại vị Tăng hỏi Cảnh Thông: “Thế nào là Phật?” Sư liền đánh. Vị Tăng đánh lại. Sư nói: “Ông đánh ta có đạo lý, ta đánh ông không đạo lý.” Vị Tăng lặng câm. Sư liền đuổi ra.

            Thầy nói:

                        Một bên dùng bạo binh, sẽ vô nghĩa vậy,

                        Một bên đem gà bẫy chồn, chó con chạm cọp.

            Tụng:

                        Tướng quân ba trận chẳng thành công

                        Hoàng đế lệnh truyền sáu nước xong.

                        Vừa buông ngàn giáo trận chiến dứt

                        Lại nghe muôn ngựa tiếng thu vang.

            Giảng:

            Ngài Cảnh Thông là đệ tử của Thiền sư Ngưỡng Sơn. Một hôm Ngài đến tham vấn, Thiền sư Ngưỡng Sơn ngồi nhắm mắt. Sư nói:

            - Như thế, như thế! Hai mươi tám vị Tổ ở Tây thiên cũng như thế! Sáu vị Tổ ở Trung Hoa cũng như thế! Hòa thượng cũng như thế! Cảnh Thông cũng như thế!

            Nói xong, Ngài đến bên phải đứng một chân, Thiền sư Ngưỡng Sơn đứng dậy lấy gậy mây đánh cho bốn gậy. Nhân đây, Ngài tự xưng Tập Vân Phong Hạ Tứ Đằng Điều Thiên Hạ Đại Thiền Phật.

            Có một lần Ngài đến Thiền sư Bí Ma (Bí Ma có cây gậy trên đầu gậy có cái nạng. Thiền khách đến tham vấn, Bí Ma lấy gậy đè cổ, Thiền khách nói được hay không được cũng đều bị ông đập, thành ra ai cũng ngán) trụ trên ngọn núi ở Ngũ Đài Sơn. Bí Ma thấy Ngài liền nói:

            - Ma quỉ nào dạy ông đi xuất gia? Ma quỉ nào dạy ông đi hành cước? Nói không được cũng bị nạng đập chết, nói được cũng bị nạng đập chết. Nói mau! Nói mau!

            Ngài Cảnh Thông nhảy vào lòng Bí Ma ngồi, Bí Ma vỗ vào lưng Cảnh Thông ba cái. Cảnh Thông chạy ra nói:

            - Lừa dối tôi cách ba chục ngàn dặm.

            Đó là cái kỳ đặc của ngài Cảnh Thông. Vì thế mà Thiền tông đời Tống gọi Ngài và Trí Thông là hai Đại Thiền Phật. - Ngài Trí Thông ở trong hội Thiền sư Trí Thường, bỗng một hôm, giữa đêm Ngài la lên: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!” Hôm sau Thiền sư Trí Thường gọi lên hỏi: “Hôm qua ông nói ông ngộ là ông ngộ cái gì?” Ngài đáp: “Ni cô nguyên là cô gái.” Thiền sư Trí Thường gật đầu. Vì lý do đó mà ngài Trí Thông có biệt hiệu là Đại Thiền Phật. -Ngài Cảnh Thông có phong độ mà người đời không lường nổi. Khi Ngài trụ ở Hoắc Sơn có cư sĩ đến hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Ngài không nói gì hết, sụp xuống lạy cư sĩ. Cư sĩ thắc mắc hỏi: “Hòa thượng vì sao lễ bái người thế tục?” Ngài nói: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?” Câu nói của Ngài là câu nói qua lề. Nếu là Thiền sư Hoàng Bá thì đánh bằng gậy. Thay vì đánh bằng gậy thì Ngài lạy. Đó là cái đặc biệt của Ngài. Ông cư sĩ không lãnh hội được ý chỉ, tưởng Ngài lạy ông, nên ông hoảng sợ, hỏi lại: “Hòa thượng vì sao lễ bái người thế tục?” Hỏi thì Ngài đáp: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?” Kỳ thật cái lạy của Ngài không mang ý nghĩa tôn trọng đệ tử, mà có ý nghĩa như tôi đã nói ở trên.

            Thượng Sĩ bình: “Vâng, dạ và ừ, cách nhau bao nhiêu?” Vâng, dạ và ừ là ba từ cùng một ý nghĩa. Nhưng, thông thường người đời thích đáp vâng hay dạ chớ không thích đáp ừ. Vì vâng, dạ thì cung kính, còn ừ thì ngang ngược. Ý Thượng Sĩ nói cung kính và ngang ngược cách nhau bao nhiêu? Cũng như đứng thẳng người hay lễ bái chỉ là hình tướng tạm bợ thôi.

            Cảnh Thông hỏi vị Tăng: “Từ đâu đến?” Vị Tăng đưa tọa cụ lên. Sư nói: “Đầu rồng đuôi rắn.” Thượng Sĩ bình: “Bóng trăng không phải là sanh kế một nhà.” Về đêm, nhà không có đèn mà muốn ăn cơm, người ta phải dọn cơm ở ngoài sân, nếu mặt trăng thật hiện trên không thì mới thấy để gắp thức ăn mà ăn. Nếu là bóng trăng trong gương hay bóng trăng trong nước thì không phải là chỗ để chúng ta dọn cơm ăn, vì không có ánh sáng. Ý nói vị Tăng đưa tọa cụ lên giống như bóng trăng chớ không phải mặt trăng thật, đó là hành động bắt chước.

            Tăng hỏi Cảnh Thông: “Thế nào là Phật?” Sư liền đánh, Tăng đánh lại. Sư nói: “Ông đánh ta có đạo lý, ta đánh ông không đạo lý.” Tăng lặng câm. Tăng hỏi thế nào là Phật, Ngài đánh để khai ngộ là có đạo lý, tại sao Ngài nói không đạo lý? Còn vị Tăng đánh Sư là vô lễ sao Sư nói có đạo lý? Trong nhà Thiền nói để cho người suy gẫm đạo lý là câu nói chết là tử ngữ. Nói không để cho người suy nghĩ gì được là câu nói sống, là hoạt ngữ. Ngài đánh cốt để khai ngộ cho vị Tăng, mà vị Tăng này không ngộ, lại suy lường đánh lại Ngài, nên Ngài nói “ta đánh ông không đạo lý, ông đánh ta có đạo lý” vị Tăng không đáp được nên bị đuổi ra.

            Thượng Sĩ bình: “Một bên dùng bạo binh, sẽ vô nghĩa vậy, một bên đem gà bẫy chồn, chó con chạm cọp.” Vị Tăng không thông lý Thiền được khai ngộ bằng cái đánh, đánh trả lại Thiền sư là dùng bạo binh nên vô nghĩa. Còn Thiền sư Cảnh Thông thì nói lừa: Ông đánh ta có đạo lý. Ví như đem gà bẫy chồn chó, song vì chó nhỏ không biết nguy hiểm nên chạm phải cọp, đó là vị Tăng vấp phải lỗi với Ngài.

            “Tướng quân ba trận chẳng thành công.” Tướng quân chỉ cho vị Tăng, ba trận: trận thứ nhất hỏi đại ý Phật pháp, trận thứ hai đánh lại ngài Cảnh Thông, trận thứ ba lặng câm không đáp được. Hành động, nói, nín của vị Tăng đều không hợp đạo, nên nói ba trận không thành công. “Hoàng đế lệnh truyền sáu nước xong.” Ngài Cảnh Thông chỉ ra lệnh một chút là muôn việc đều yên ổn. “Vừa buông ngàn giáo trận chiến dứt.” Nghĩa là hai bên đối đáp. “Lại nghe muôn ngựa tiếng thu vang.” Vào mùa thu nghe tiếng muôn ngàn con ngựa nó ré vang, biểu hiện quang cảnh thanh bình. Thượng Sĩ ca ngợi tán thán Thiền sư Cảnh Thông.

            13. Dịch:

            Cử:

            Hòa thượng Đàm Không có vị Ni đến xin phép khai đường thuyết pháp. Ngài nói: “Hàng Ni phụ nữ không nên khai đường.” Ni thưa: “Long nữ tám tuổi thành Phật, là sao?” Sư bảo: “Long nữ có mười tám pháp biến hóa, ngươi biến một pháp cho lão tăng xem?” Ni thưa: “Biến được chỉ là loài chồn thành tinh.” Sư liền đánh đuổi ra.

            Thầy nói:

            - Phải thì phải, còn kẹt một mối.

            Tụng:

                        Thương thay diệu pháp muốn bàn huyền

                        Đâu chỉ cầm lan (giỏ) hay buông lan (giỏ)

                        Đánh đuổi hồ tinh là chỉ yếu

                        Trước ba ba sau lại ba ba.

            Giảng:

            Tôi không có tài liệu về lịch sử của Hòa thượng Đàm Không. Thượng Sĩ nêu lên, có một cô Ni đến xin Ngài khai đường thuyết pháp, Ngài ngăn không cho Ni giới khai đường thuyết pháp, nên cô Ni mới nhắc Long nữ tám tuổi thành Phật và hỏi tại sao Ngài không cho cô thuyết pháp. Ngài nói Long nữ có mười tám pháp biến hóa, bảo cô hãy biến một pháp cho Ngài xem. Cô Ni này bắt chước lời của Thiền sư, cô nói: “biến được chỉ là loài chồn thành tinh”, nên bị Hòa thượng đánh đuổi đi. Sự việc này Thượng Sĩ bình: “Phải thì phải còn kẹt một mối.” Đánh đuổi thì phải, nhưng kẹt một mối là thấy nam thấy nữ. Thượng Sĩ mới làm tụng: “Thương thay diệu pháp muốn bàn huyền, đâu chỉ cầm lan hay buông lan.” Diệu pháp muốn giảng giải đâu phải chỉ có người cầm giỏ hay bỏ giỏ mới làm được. Ý nói không phải chỉ có người nam mới làm được, người nữ làm không được. “Đánh đuổi hồ tinh là chỉ yếu.” Nói biến hóa hay nói hồ tinh, bị đánh là phải, nhưng “trước ba ba sau lại ba ba”. Tới chỗ tuyệt đối không thể dùng lời để diễn tả. Thượng Sĩ nói Hòa thượng Đàm Không còn thấy có tướng nam tướng nữ nên còn kẹt chút đó.

            Đối với tất cả Thiền sư mà chúng ta được đọc qua thấy vị nào đã thâm nhập được bản thể chân thật thì chỗ nhắm không khác. Nhưng sở dĩ thấy có sai biệt là tùy cơ người hỏi cao hay thấp, các Ngài dùng phương tiện khác nhau. Vì vậy mà những lời đối đáp có lúc thấy rất bạo, có lúc thấy rất từ bi nhẹ nhàng. Các Thiền sư Việt Nam  thường thì đối đáp nhẹ nhàng, lâu lâu mới có vài câu bạo như “đạp lão Cồ-đàm cóng lạnh”. Nhưng đó chỉ bạo trên ngôn ngữ, chớ không bạo ở hành động như các Thiền sư Trung Hoa đấm đá... Phương tiện các ngài dùng cốt làm sao cho người đương cơ tỏ ngộ là mục đích chánh.

]

     
 

THIỀN TÔNG VIỆT NAM