THI CA (tt)
Dịch: BÀI NGÂM PHÓNG CUỒNG
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.
Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao.
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang.
Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị
Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng.
Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi
Năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.
Đi càn chừ đường quan hiểm trở
Chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.
Sâu thì xắn chừ cạn thì vén.
Dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.
Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt
Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.
Thỏa nguyện ta chừ được sở thích
Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì?
Giảng:
Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ mà thấy tột cùng được giáo lý Phật. Cuộc
sống của Ngài là một cuộc sống thênh thang không bị cột trói gò bó bởi
danh lợi quyền thế ở thế gian. Đọc Bài Ngâm Phóng Cuồng này, chúng ta thấy
được tâm hồn của Ngài một cách rõ ràng. Trước hết tôi giảng tựa Bài Ngâm
Phóng Cuồng này. Phóng là phóng khoáng phóng đạt, rộng thênh thang, tự do
không giới hạn, không gò bó trong một khuôn khổ nào. Cuồng là cuồng loạn
hay điên cuồng, nhưng cuồng còn có nghĩa là cuồng nhiệt, là ý khí mạnh mẽ.
Hiểu theo nghĩa Thượng Sĩ dùng trong bài thì không có nghĩa là điên mà là
ý khí mạnh mẽ như cuồng nhiệt.
“Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang, chống gậy rong chơi chừ phương
ngoại phương.” Thượng Sĩ thấy trời đất thênh thang không giới hạn, Ngài
chống gậy rong chơi ngoài nơi chốn không chỗ nơi. Ngài thong thả tự tại
như thế.
“Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi, hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.” Nhìn
lên thì thấy mây ấp chót núi, phủ đảnh núi. Đó là chỗ cao. Nếu nhìn xuống
thì thấy biển cả mênh mông không giới hạn. Đó là chỗ sâu. Cao như mây trên
đảnh núi, sâu như nước mênh mông đầy biển cả.
“Đói thì ăn chừ cơm tùy ý, mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.” Cơm tùy ý
nguyên chữ là hòa la phạn, nghĩa là cơm do tùy ý thí chủ mười phương đóng
góp, nên gọi là cơm tùy ý. Các vị Tỳ-kheo đi khất thực đúng pháp là ôm
bình bát đi tuần tự từ nhà này đến nhà kia, tùy ý ai phát tâm cúng dường
thì cúng chớ không nài ép. Thức ăn này gọi là hòa la phạn. Thượng Sĩ không
phải là người xuất gia sao nói ăn cơm của mười phương thí chủ góp? Và, mệt
thì cứ ngủ, hoặc dưới gốc cây, hoặc trên bãi cỏ, hoặc trong sân chùa...
tùy lúc mệt thì cứ ngủ, không định trước nơi chốn xứ sở. Ý này Ngài dẫn từ
câu “hà hữu hương” trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
“Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ, chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.”
Thường thường người đời thổi sáo có lỗ và đốt hương trầm hoặc hương quế. Ở
đây Thượng Sĩ thổi sáo không lỗ, đốt hương giải thoát. Vậy sáo không lỗ là
sáo gì và hương giải thoát là hương gì? Khi hứng lên là lúc tâm thanh tịnh
sáng rực là thổi sáo không lỗ; khi tỉnh lặng thì nằm chơi hoặc ngồi nghỉ
lòng không vướng mắc, cảnh nào cũng là cảnh giải thoát, đó là đốt giải
thoát hương. Như vậy, hứng thì hiện tướng thanh tịnh sáng suốt của Thiền,
khi lặng yên thì hiện cả tâm trạng giải thoát.
“Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ, khát uống no chừ thang tiêu dao.” Nếu
nhọc mà nghỉ thì nghỉ đất hoan hỉ; nghỉ ở đâu cũng là đất hoan hỉ; vườn
cây, đồng trống, núi rừng... đối với Ngài đều là đất hoan hỉ, Ngài nghỉ ở
đâu cũng thấy vui cả. Nếu khát thì uống nước tiêu dao đến no thôi. Giả sử
nước lấy từ giếng, Ngài uống cũng thành nước thuốc tiêu dao. Còn chúng ta
dù có được uống thang thuốc bổ, song chưa chắc tâm hồn đã được tiêu dao
thanh thản, vẫn còn rối loạn nặng nề.
Từ
câu đầu đến câu này nói lên phong độ sống của Thượng Sĩ, Ngài thảnh thơi
tự tại, không có gì giới hạn ngăn ngại, ở đâu đi đâu, ăn, uống, ngủ,
nghỉ... đều ở trong tư thái nhàn nhã thong dong, không hề thấy khó khăn
vướng bận. Đối với Thượng Sĩ trời đất thênh thang nơi nào cũng là quê
hương xứ sở, dù có xin cơm của ngàn nhà Ngài ăn cũng thấy vui, chỗ nào
Ngài ngồi cũng thấy thoải mái, uống nước giếng nước suối Ngài cũng thấy
tâm hồn thanh thản giải thoát, không có gì chướng ngại. Tóm lại, tất cả
mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, nghỉ... bất cứ ở đâu Ngài
cũng đều ở trong tư thái tự do tự tại, phong thái này mới hàm nghĩa chữ
Phóng. Chúng ta ngày nay ở chỗ này đi tới chỗ khác là đã thấy chướng rồi,
lạ nơi lạ chỗ khó ngủ, khó ăn, khó chịu đủ thứ.
“Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước.” Qui Sơn nào chăn trâu? Qui
Sơn Linh Hựu khi sắp tịch Ngài nói: “Sau khi lão Tăng trăm tuổi đến dưới
núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ ‘Qui Sơn Tăng Linh Hựu’. Khi
ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn
Tăng? Gọi thế nào mới đúng?” Và, người kế thừa trụ trì núi Qui sau khi
Thiền sư Linh Hựu tịch là Thiền sư Đại An cũng nói: “Đại An này ở tại núi
Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui, mà không học thiền núi
Qui, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ, liền lôi
nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó. Đáng
thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng đứng
trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.” Chẳng biết Thượng Sĩ
làm bạn với Qui Sơn Linh Hựu hay Qui Sơn Đại An? Thượng Sĩ nói chăn trâu
thì chắc là làm bạn láng giềng với Qui Sơn Đại An.
“Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang.” Tạ Tam gọi đủ là Tạ Tam
Lang, chỉ cho Thiền sư Tông Nhất pháp danh là Sư Bị ở Huyền Sa. Người đời
thường gọi là Huyền Sa Sư Bị. Sư con nhà họ Tạ, mà là con thứ ba nên gọi
là Tạ Tam. Ngài quê ở huyện Mân, Phước Châu, thuở nhỏ thích câu cá, Sư sắm
một chiếc thuyền nhỏ thường thả câu trên sông Nam Đài. Năm ba mươi tuổi Sư
phát tâm cầu giải thoát, liền bỏ thuyền câu, lên núi xuất gia. Sau ngộ
đạo, nổi tiếng cả hai mặt đức hạnh và trí tuệ. Thượng Sĩ sánh mình là bạn
đồng thuyền với Huyền Sa Sư Bị nên nói Tạ Tam đồng thuyền. Tức là Ngài đi
đồng thuyền câu với chàng Tạ Tam, thuyền nổi lênh đênh trên mặt nước, Ngài
hát khúc nhạc Thương Lang là khúc nhạc của ông chài. (Thương Lang còn là
tên một đoạn sông Hán Thủy). Thượng Sĩ sánh mình là bạn của Qui Sơn Đại
An, Ngài cũng chăn trâu nước như Qui Sơn Đại An. Và, Ngài cũng sánh mình
là bạn của Huyền Sa Sư Bị cũng đi câu cá như Tạ Tam hát khúc hát ông chài
trên khúc sông Thương Lang.
“Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị, viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.” Thượng
Sĩ oai quá! Ngài đi Tào Khê thăm cư sĩ họ Lư, là Lư Hành Giả tức Lục tổ
Huệ Năng. Và, Ngài tự sánh mình như cư sĩ Bàng Long Uẩn tới Thạch Đầu hỏi
đạo, được Hy Thiên Thạch Đầu khai ngộ tỉnh ra.
“Vui ta vui chừ Bố Đại vui, Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng.” Thượng Sĩ
có cái vui như cái vui của Bố Đại. Bố Đại là một vị Tăng đời nhà Lương
trong thời Ngũ Đại, quê ở Minh Châu, Chiết Giang, Thuận Hóa. Trong Cảnh
Đức Truyền Đăng Lục chép Hòa thượng Bố Đại mập mạp, mày rộng, bụng to, nói
năng không chừng, ngủ nghỉ tùy ý, vai vác cây gậy, trên đầu gậy quảy một
cái đãy, mọi đồ tùy thân đều chứa trong đãy. Người đời gọi là Trường Đinh
Tử Bố Đại Sư. Hòa thượng hay nói trước chuyện kiết hung cho người, và hay
dự biết mưa nắng. Hòa thượng ngồi trên bàn thạch đông lang chùa Nhạc Long
nói kệ:
Di-lặc chân Di-lặc
Phân thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân tự bất thức.
Tạm dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Phân thân ngàn trăm ức
Luôn luôn chỉ người đời
Người đời tự chẳng biết.
Nói kệ xong Ngài ngồi an nhiên thị tịch.
Như vậy là Hòa thượng Bố Đại vui lắm, lúc nào và ở đâu Ngài cũng cười.
Hiện tại chúng ta thấy tượng Ngài ngồi cười toe toét, người đời cho là
tượng Bồ-tát Di- lặc. Thực tế thì Ngài mới là con người lịch sử còn Bồ-tát
Di- lặc chỉ là hình ảnh biểu trưng. Trước khi tịch Ngài nói bài kệ này thì
biết đó là hóa thân của đức Di-lặc, nên người sau tạc tượng thờ Ngài lấy
theo hình ảnh hóa thân đó. Thượng Sĩ có cái vui giống như cái vui của Hòa
thượng Bố Đại. Và, nếu Thượng Sĩ có nổi cuồng lên thì cuồng như Phổ Hóa
cuồng. Phổ Hóa là đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Tích, núi Bàn Sơn ở U
Châu. Bàn Sơn sắp tịch bảo chúng:
-
Ai vẽ được chân dung ta?
Phổ Hóa thưa:
-
Con vẽ được.
-
Sao chẳng trình ta xem?
Phổ Hóa bèn nhào ngược thân rồi đi. Bàn Sơn bảo:
-
Gã này về sau như khùng điên tế độ người.
Lúc Thiền sư Nghĩa Huyền đến giáo hóa ở đất Lâm Tế, nơi đây Phổ Hóa đã ở
trước, Ngài giúp Thiền sư Lâm Tế giáo hóa ở đây với cái hạnh như điên như
tỉnh.
Thượng Sĩ sánh mình là bạn của Qui Sơn Đại An, của Huyền Sa Sư Bị, Thượng
Sĩ là người đi viếng Lục Tổ ở Tào Khê, là người đồng chí với Bàng Long
Uẩn, Ngài luôn luôn vui cười như Hòa thượng Bố Đại, và có cái cuồng như
Phổ Hóa. Vậy trong bài này có phải tỏ ý khí mãnh liệt không? Nếu ý khí
không mãnh liệt đâu dám sánh mình với các Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa,
kể cả Lục Tổ. Ngài tự thấy mình có phần trong những vị ấy nên mới nói như
thế.
“Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi, năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.” Những
cái sang giàu ở thế gian này đối với Thượng Sĩ giống như đám mây tụ rồi
tan, không bền lâu, thế mà người đời ai cũng đuổi tìm tranh nhau nắm bắt.
Ngài thấy thương mới than “Chao! Chao! Chừ...”. Còn năm tháng đối với
Thượng Sĩ mau chớp nhoáng như ngựa chạy qua cửa sổ. Người đứng trong nhà
nhìn ra cửa sổ, bỗng thấy ngựa sải chân chạy qua, vừa thoáng thấy dáng
ngựa chạy qua là mất hút. Ngày tháng qua nhanh như ngựa chạy, thế mà người
đời không tỉnh; sự giàu sang như mây tụ rồi tan, thế mà người đời không
biết. Ngài tỉnh, thấy rõ ràng, cảm thương người đời mê muội nên mới có lời
than như thế.
“Đi càn chừ đường quan hiểm trở, chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.” Đường
quan là đường đi tới cửa quan, nói rõ hơn là ra làm quan, là con đường rất
hiểm trở, mà người đời đua nhau giành nhau để đi. Đường hiểm trở mà vẫn
đua nhau đi càn đi bướng không ngại khó khổ. Chính vì người đời ai cũng
chen nhau đi trên quan lộ để được lợi danh, nên mới có xảy ra tình đời khi
ấm khi lạnh. Gặp nhau vui vẻ tay bắt mặt mừng là ấm, gặp nhau không nhìn
không chào là lạnh. Trong mối quan hệ giữa bạn bè, giữa láng giềng, giữa
anh em thân thuộc... Khi làm ăn phát đạt giàu sang, đi tới đâu ai cũng
mừng rỡ đón tiếp đó là ấm, khi làm ăn thất bại cảnh nhà sa sút, nghèo
thiếu thì bị bỏ rơi không chào hỏi đó là lạnh. Hoặc giả ở trong đường quan
được thăng quan lên cấp thì được nể trọng cúc cung, đó là ấm; nếu bị hất
ra hay bị giáng cấp thì bị khinh thường xem nhẹ, đó là lạnh. Quí vị chắc
đã từng trải qua những ấm lạnh này rồi, chắc cũng thấm thía lắm. Đừng chen
vào, chỉ khổ thôi! Qua bốn câu này, chúng ta thấy Thượng Sĩ có vẻ bi quan,
nhìn đời với con mắt chán ngán. Nhưng không, Ngài có thái độ tùy thời rất
hay.
“Sâu thì xắn chừ cạn thì vén, dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.” Gặp chỗ nước
sâu thì xắn quần xắn áo lên cao cho gọn để đi qua khỏi ướt. Nếu gặp chỗ
nước cạn chỉ vén quần là qua được. Ý nói khi gặp tình đời ấm lạnh, tùy
duyên tùy thời xử sự sao cho ổn thôi, không cố chấp. Khi thiên hạ cần thì
đem hết khả năng ra làm mọi việc để giúp. Lúc thiên hạ không dùng, xã hội
không ngó ngàng tới thì ẩn tu dưỡng thần dưỡng trí, có gì đâu mà buồn! Đó
là sống tùy thời trong vòng tương đối. Ở đây thái độ sống của Thượng Sĩ
còn vượt cao hơn nữa!
“Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt, tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.” Người
đời mắc kẹt với bao thứ: được, mất, khổ, vui, gốc từ chấp thân này mà ra.
Bởi chấp thân nên mới có phiền não. Bây giờ đối với thân tứ đại này buông
bỏ đi, không bám chặt không chấp giữ nó nữa thì tỉnh táo sáng suốt, sống
đời an nhàn tự tại, không còn điên đảo chạy ngược chạy xuôi nữa.
“Thỏa nguyện ta chừ được sở thích. Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì?”
Sống giữa thiên hạ, Thượng Sĩ tự thấy mình đã được thỏa nguyện, vì những
sở thích ước muốn Ngài đã đạt được. Giữa trời đất thênh thang núi cao biển
rộng Ngài đã dạo khắp. Ăn uống ngủ nghỉ lúc nào Ngài cũng tự tại, Ngài
thấy nơi nào cũng là quê hương. Ngài thảnh thơi đi thăm viếng các Thiền sư
lỗi lạc ở Trung Hoa. Thái độ vui hay cuồng của Ngài chẳng khác Bố Đại hay
Phổ Hóa ở Trung Hoa. Và, việc sống chết đối với Ngài, Ngài không ngại.
Kiếp người nay sống tạo nghiệp, mai chết theo nghiệp sanh ra; sanh ra rồi
chết, chết rồi sanh. Sống chết cứ đuổi nhau bức ngặt con người không dừng.
Song, sống chết không làm ngại Thượng Sĩ. Thượng Sĩ là một cư sĩ mà dõng
dạc tuyên bố một câu mạnh mẽ như vậy, chúng ta là hàng tu sĩ xuất gia thấy
sao? Đa số chúng ta ở đây đều là những người tu từ mười năm, hai mươi năm
trở lên, đối với việc sanh tử có dám tuyên bố câu nào không? Hay tâm còn
lo nghĩ về cái chết của mình, không biết mai kia chết rồi sẽ đi về đâu? Sở
dĩ chúng ta sợ là vì mình chưa làm chủ được mình nên mới sợ chết sợ sanh.
Thượng Sĩ vì đã làm chủ được mình nên Ngài không sợ sanh tử.
Qua Bài Ngâm Phóng Cuồng này, tuy Thượng Sĩ nói Thượng Sĩ điên, nhưng Ngài
điên trong tỉnh, chúng ta cũng nên điên như Ngài. Nhưng rất tiếc, đa số
chúng ta đều điên trong mê loạn, những cái không đáng quí trọng mà cứ đuổi
theo để nắm bắt, rốt cuộc rồi vẫn tay không. Điên mà không biết mình điên,
cứ nghĩ mình sáng. Còn Ngài nói Ngài điên mà thật sự Ngài không điên. Đó
là hình ảnh đẹp của Thượng Sĩ qua bài ca trên.
Dịch:
SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI
Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh
Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.
Sanh tử xưa nay tự tánh không
Thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.
Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Lò lửa dầu sôi chóng mát lành
Cây kiếm núi đao liền gãy hết.
Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ-tát nói pháp, ta nói thật.
Sống tự dối sống, chết dối chết
Bốn đại vốn không, từ đâu khởi.
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải cũng không quấy.
Đến nhà, nên biết thôi hỏi đường
Thấy trăng, đâu nhọc tìm tay ấy.
Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết
Người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.
Giảng:
Đa
số tu sĩ chúng ta từ lâu chịu ảnh hưởng câu “sanh tử sự đại” nên ai cũng
sợ, thấy sanh tử là vấn đề lớn cần phải giải quyết. Nhưng đối với Thượng
Sĩ vấn đề sanh tử chỉ là một việc nhàn mà thôi. Vậy “sanh tử sự đại” là
đúng hay “sanh tử nhàn nhi dĩ” là đúng? Phật Tổ nói “sanh tử sự đại vô
thường tấn tốc” nhằm sách tấn chúng ta tu. Hàng tu sĩ xuất gia cũng như
tại gia tuy đã phát nguyện tu theo Phật, nhưng lâu ngày hay sanh bệnh lười
mỏi, tu lừng chừng, tu lai rai. Sợ chúng ta thoái bộ không tiến, nên Phật
Tổ mới nói sống chết là việc lớn, vô thường nhanh chóng lắm phải gấp rút
mà tu, không thể chần chờ, nếu chần chờ thì chết đến tu không kịp luống
uổng một đời tu. Đó là Phật Tổ khuyến khích thúc giục chúng ta tiến tu.
Đây Thượng Sĩ nói sống chết là việc nhàn có trái với ý của Phật Tổ dạy
không? - Thượng Sĩ là người thấy được chỗ tột cùng, thấy rõ sống chết là
tướng sanh diệt không thật, nên không lo sợ mới nói như thế. Nếu chúng ta
chưa phải là người đạt đạo, chưa sáng mắt thì phải thấy sanh tử là việc
lớn cần phải giải quyết phải lo tu, kẻo chết đến tu không kịp thì bị
nghiệp dẫn đi trong luân hồi thọ quả báo. Vậy, ai là người trí sáng mắt
thì thấy sanh tử nhàn mà thôi, còn ai chưa phải là người trí thì phải thấy
sanh tử là sự đại để lo tu. Quí vị ở đây là hạng nào?
“Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh, tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.” Vọng tâm mà
sanh thì sanh tử từ đó phát sanh, vọng tâm diệt thì sanh tử từ đó mà diệt.
Vậy, sanh tử sanh là do vọng tâm dấy khởi tạo nghiệp, nghiệp mới dẫn đi
trong sanh tử. Đó là sanh tử sanh. Nếu vọng tâm lặng, không tạo nghiệp,
nghiệp dừng thì sanh tử ngang đó dứt. Vọng tâm là tâm hư dối, tâm hư dối
dấy lên thì tạo ra nghiệp hư dối, rồi có sanh hư dối có tử hư dối. Nếu tâm
hư dối dừng không khởi nữa, nghiệp hư dối hết thì sanh tử cũng hết. Trọng
tâm của chúng ta tu là gì? Tất cả chúng ta tu ai cũng mong thoát khỏi sanh
tử. Cái nhân tạo ra nghiệp sanh tử là vọng tâm. Nếu vọng tâm dấy lên chúng
ta theo thì có tham có sân rồi tạo nghiệp lành hay dữ, đã tạo nghiệp rồi
thì nghiệp dẫn đi trong sanh tử. Nếu vọng tâm dấy lên không theo thì vọng
tâm lặng xuống, vọng tâm lặng thì đâu có tham sân, không tham sân đâu có
tạo nghiệp, như vậy là nghiệp dừng, nghiệp dừng thì đâu có sanh tử. Hai
câu này chỉ rất rõ trọng tâm tu hành của chúng ta.
“Sanh tử xưa nay tự tánh không, thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.” Sanh tử
do nghiệp, nghiệp có là do vọng tâm khởi. Vọng tâm là nhân mà sanh tử là
quả. Vọng tâm đã không thật, quả làm sao thật được. Ngài nói sanh tử xưa
nay tự tánh không thật thì, cái thân tứ đại huyễn hóa này, sớm muộn gì
cũng hoại diệt không còn. Thương cho chúng ta ai cũng mang thân sanh tử
tạm bợ huyễn hóa chợt sanh chợt diệt không bền lâu, mà cứ lo cho nó bảo vệ
nó, rốt cuộc rồi nó cũng hoại đi, thật là phí công mà kết quả không được
như ý. Người mà đeo đuổi làm một việc không có kết quả, người như thế có
khôn không? Biết thân này cố giữ nó cũng mất, thế mà vẫn cứ giữ, thật đáng
thương! Gìn giữ để được còn hoài thì mới giữ, giữ cái sẽ mất là tạo cái
nhân không đâu, vậy mà cứ cố giữ, người như thế có phải là người trí sáng
suốt không? Biết sanh tử tự tánh là không, cái thân huyễn hóa này sớm muộn
gì cũng diệt là biết được nguồn gốc của thân.
“Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn, địa ngục thiên đường tự khô kiệt.” Thân
này là huyễn hóa không thật thì phiền não là mê lầm khổ đau và Bồ-đề là
giác ngộ an vui cũng không thật. Thân đã không thật thì khổ vui làm sao
thật được? Thế nên nói phiền não Bồ-đề rồi cũng mất. Phiền não đã mất thì
địa ngục đâu còn và Bồ-đề mất thì thiên đường cũng khô kiệt. Thượng Sĩ nói
như vậy có trái với lời Phật dạy trong kinh: “chúng sanh đi trong lục đạo
luân hồi là do nghiệp dẫn” không? Nghiệp do vọng tâm phát khởi mà ra. Vậy
vọng tâm không thật, nghiệp không thật, tất cả quả của nghiệp tạo cũng
không thật thì quả dữ của nghiệp dữ là đọa địa ngục, quả lành của nghiệp
lành là lên thiên đường cũng không thật. Thiên đường và địa ngục là quả
của nghiệp lành và nghiệp dữ; mà nghiệp thì từ vọng tưởng tạo nên, vọng
tưởng đã không thật thì nghiệp đâu có thật. Nghiệp không thật thì thiên
đường địa ngục cũng không thật. Song, thấy như thế là khi thấy thân này là
giả không thật, nếu còn thấy thân này là thật thì thiên đường địa ngục
cũng thật. Chỉ khi nào thấy thân này là huyễn hóa, cõi đời này là huyễn
hóa, chừng đó nghiệp mới huyễn hóa và thiên đường địa ngục mới huyễn hóa.
Chớ còn thấy thân mình là thật thấy sự vật hiện tại là thật, mà nghe nói
thiên đường địa ngục không thật rồi chấp thiên đường địa ngục không thật,
làm nhiều điều ác hại để mình được hưởng khoái lạc. Thấy có mình hưởng
khoái lạc thì nghiệp thiện ác cũng có và thiên đường địa ngục cũng thật.
Phải hiểu cho thật rõ chỗ này, kẻo hiểu lầm tu sai.
“Lò lửa dầu sôi chóng mát lành, cây kiếm núi đao liền gãy hết.” Kinh A-hàm
có bài kể cảnh địa ngục, ngục tốt hành hình tội nhân bằng cách đốt lửa nấu
dầu cho sôi, ai có tội thì bỏ vào trong chảo dầu sôi nóng nên nói: “Lò lửa
chảo dầu chóng mát lành.” Nếu còn thấy thân mình thật, lò lửa dầu sôi là
thật thì vào đó bị nát thây. Nếu đã thấy thân này không thật thì lò lửa
chảo dầu cũng không thật. Tôi đơn cử chuyện rất gần cho quí vị thấy. Nếu
chúng ta thấy mình không thật ngoại cảnh không thật, thì khi nghe những
lời mắng chửi nặng nề, thấy như cơn gió thổi qua tai, lòng bình thản mát
mẻ không chút bực bội, tất cả lò lửa dầu sôi ở địa ngục đều mát lạnh. Việc
tu hành của chúng ta không có xa rời thực tế, mà ngay ở mình ở vật trong
thực tại. Nếu đã thấy mình không thật thì người, cảnh, Niết-bàn, địa ngục
đều không thật. Ngược lại, thấy mình thật, thì tất cả đều thật. Thượng Sĩ
thấy thân mình không thật, nên thấy địa ngục lửa đỏ dầu sôi mát lạnh.
“Cây kiếm núi đao liền gãy hết.” Ở địa ngục có núi đao núi kiếm, người có
tội bị ngục tốt bắt leo lên núi ấy; leo lên núi đao núi kiếm thì bị đao
kiếm đâm chém nát thân. Song, nếu người tu thấy thân này không thật, vọng
tưởng không thật, không sống với vọng tưởng thì mọi cảnh bức hại nguy hiểm
của địa ngục đều tan nát hết. Đây Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta biết, nguồn
gốc của sự sanh khởi chấp trước, đều do nơi vọng tưởng dấy khởi, rồi tạo
nghiệp, từ nghiệp mà có tất cả khổ vui của chúng sanh ở thế gian, ở địa
ngục hay ở thiên đường. Chúng ta đã biết gốc khổ vui của kiếp người là
vọng tưởng hư dối không thật, nên tu để dừng vọng tưởng. Vọng tưởng hết
nghiệp theo đó mới dứt sạch. Vậy muốn giải thoát phải làm sao? - Không
cách nào khác hơn là đưa mấy chú vọng tưởng vào Vô dư y Niết-bàn. Vọng
tưởng vào Niết-bàn rồi thì tất cả được an ổn.
“Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi, Bồ-tát nói pháp ta nói thật.” Thượng
Sĩ thấy hàng Thanh văn tu thiền đặt nặng Tứ thiền Bát định và định cuối
cùng là Diệt thọ tưởng định. Người nhập Diệt thọ tưởng định thân ngồi trơ
trơ, không còn thở, chỉ còn chút hơi ấm, không có tri giác, mọi sanh hoạt
chung quanh đều không biết. Người nhập Diệt thọ tưởng định ngồi trơ như đá
như gỗ dù có sống lâu cũng không làm lợi ích cho người, nên Ngài không
thích lối tu thiền này. Theo Ngài, đã làm lợi ích cho mình rồi, phải làm
lợi ích cho người là đem pháp Phật giáo hóa chỉ dạy cho chúng sanh biết
được lẽ thật, để họ tu cùng được giác ngộ giải thoát. Còn ngồi thiền nhập
Diệt thọ tưởng định vô tri vô giác thì Ngài không ngồi.
“Sống tự dối sống, chết dối chết, bốn đại vốn không, từ đâu khởi?” Đối với
người giác ngộ thấy kiếp sống của con người không thật, nó tạm bợ giả dối.
Ngày nay duyên hợp còn sống đây thì biết còn, ngày mai duyên tan thân hoại
đi thì biết nó hoại. Thấy rõ thân này giòn bở không có gì bảo đảm chắc
chắn. Sự sống là dối tạm thì chết cũng dối tạm. Vì thân này do bốn đại giả
hợp tạm có, có không thật có. Phân tích kỹ thì đất do nhiều phần tử bụi
kết hợp lại thành, chớ không có thật thể. Nước cũng do những phân tử H2O
hợp lại thành, không có thể cố định chân thật. Gió lửa cũng vậy, do duyên
mà thành. Cả bốn thứ đất, nước, gió, lửa không có tự tánh cố định, nên
không thật. Bốn đại đã không thật thì thân này làm sao có thật được? Thấy
rõ thân này vốn không thật nên Thượng Sĩ khuyên chúng ta:
“Chớ như nai khát đuổi sóng nắng, chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.” Ở
những sa mạc lớn, mùa hè trời nắng, từ xa nhìn trên bãi cát thấy như có
những vũng nước đọng. Nai khát nước thấy sóng nắng như vũng nước, chạy tới
để uống, nhưng tới nơi không có nước. Lại thấy vũng nước ở xa xa, nó chạy
tới nơi cũng không có nước. Nó chạy hoài vẫn không có nước uống. Càng chạy
càng khát, ngày qua ngày, nai vẫn không có nước uống. Cũng vậy, tứ đại
không thật thì thân mình và cảnh vật đâu có thật. Thế mà lúc nào chúng ta
cũng yêu mến thân và lúc nào chúng ta cũng thấy cái này đẹp cái kia ngon
cái nọ quí... Cứ chạy theo đuổi bắt chẳng biết dừng, đến ngày ngã ra chết
cũng chưa thỏa mãn. Con người chúng ta chẳng khác nào con nai khát nước,
cứ đuổi theo sóng nắng rốt cuộc rồi vẫn chết khát. Tất cả những món ngon,
đẹp, quí... chúng ta tạo sắm cất chứa đầy nhà, ngày tắt thở chúng ta có
hưởng và có mang theo được không? Tất cả phải bỏ lại trần gian, thế mà có
ai dừng lại đâu? Cứ chạy đua tìm cầu cho đến ngày ngã ra chết.
“Pháp thân không đến cũng không đi, chân tánh không phải cũng không quấy.”
Đứng về mặt Pháp thân mà nói thì Pháp thân tuy hiện tiền nhưng không hình
không tướng cho nên không đến không đi. Thí dụ như ngôi chùa trước đây
không có, nay chúng ta xây dựng thành, nói có đến. Lâu ngày ngôi chùa hư
hoại mất, nói có đi. Vậy, cái gì có hình tướng thì có đến có đi. Còn cái
không hình tướng thì không đến không đi. Cũng vậy, thân này có hình tướng
cho nên có sanh có diệt, còn Pháp thân thì vô tướng nên không sanh không
diệt. Nếu chúng ta bám vào cái thân có hình tướng thì thấy có đến có đi,
nếu chúng ta nhận được Pháp thân vô tướng hằng hữu ngay nơi thân ngũ uẩn
thì Pháp thân không đến không đi, không phải không quấy, hằng thanh tịnh
hằng liễu tri, cũng gọi là chân tánh. Quí vị chớ hiểu lầm Pháp thân là cái
không ngơ như hư không.
“Đến nhà nên biết thôi hỏi đường.” Chúng ta rời xa quê hương một hai mươi
năm, nay trở về thăm cha mẹ anh em... Trên đường về cảnh cũ đổi thay, nên
chúng ta không biết lối về, phải hỏi thăm nhờ người chỉ đường. Khi chúng
ta đi về tới nhà gặp cha mẹ, anh em... thì không còn hỏi đường nữa. Còn
hỏi đường là đi chưa tới nhà, khi đã tới nhà thì không còn hỏi đường nữa.
Cho nên Thiền khách tới các Thiền sư mà còn thăm dò thưa hỏi, các Ngài
nghe qua câu hỏi là biết họ tới đâu rồi. Và, có nhiều người ngộ đạo rồi,
ông thầy nói thêm một câu, liền bịt tai bỏ đi, không nghe, vì không cần
nữa, có nghe cũng dư. Tới nhà rồi mà còn hỏi đường là dư. Thiền sư Hoàng
Long thường hỏi Tăng:
-
Người người trọn có sanh duyên, Thượng tọa sanh duyên tại chỗ nào?
Chính lúc vấn đáp qua lại, Sư duỗi tay nói:
-
Tay tôi sao giống tay Phật?
Hỏi chỗ sở đắc của tông sư các vị đến thăm thỉnh, Sư liền duỗi chân nói:
-
Chân tôi sao giống chân lừa?
Hơn ba mươi năm lấy ba câu này hỏi, học giả khó khế ngộ huyền chỉ. Khắp
các tùng lâm gọi là tam quan (ba cửa). Nếu có ai đáp thì Sư không nói phải
chẳng phải, vẫn khép mắt ngồi thẳng, không ai lường được ý ấy.
Phan Hưng Từ thường hỏi lý do ấy. Sư bảo:
-
Đã ra khỏi cửa thì vung tay đi thẳng chẳng cần biết có kẻ gác cửa.
Từ
người gác cửa hỏi phải chẳng phải ấy là người chưa qua khỏi cửa. Câu
chuyện này giống hệt việc tới nhà rồi thôi hỏi đường vậy.
“Thấy trăng đâu nhọc tìm tay ấy.” Đầu tháng, vào khoảng mùng năm mùng sáu
âm lịch có trăng lưỡi liềm mọc ở phía tây, người mắt sáng thấy trăng, kêu
bạn bè nói:
-
Hôm nay có trăng rồi.
Những người bạn hỏi:
-
Ở đâu?
Người mắt sáng đưa tay chỉ mặt trăng trên không ở hướng tây. Những người
bạn nương ngón tay chỉ, thấy mặt trăng rồi thì ngón tay không cần nữa. Nếu
cứ nhìn ngón tay mãi mà không nhìn chỗ chỉ thì không bao giờ thấy được mặt
trăng. Ý Thượng Sĩ nói người đã ngộ đạo rồi thì không còn thắc mắc không
còn tìm kiếm nữa.
“Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết, người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.” Chúng
ta xét lại coi mình là kẻ ngu hay người trí? Vì còn thấy thân này thật,
nên thấy sống là vui, chết là khổ. Do đó ham sống sợ chết, ấy là kẻ ngu.
Người trí thấy thân này không thật thì sự sống chết là chuyện nhàn thôi;
sống không thật thì chết đâu có thật, chết không thật có gì mà sợ? Thế nên
sống cười chết cũng cười. Thấy suốt được lẽ sống chết thì ở giữa cõi đời
này chúng ta an nhàn tự tại, không có gì bận tâm. Đọc hai câu này rồi quí
vị tự hỏi mình ngu hay trí? Nếu còn sợ chết là ngu và nếu có ai chỉ mặt
mình nói: “anh là đồ ngu”, mình cười, đáp: “Phải, tôi ngu, vì tôi còn ham
sống sợ chết.” Còn ham sống sợ chết là còn ngu, vậy mà ai đó nói ngu là
giận. Ngu chồng thêm một lớp ngu mà không biết, thật đáng thương!
Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy rõ sự sống chết không thật. Vì sống chết
của thân này không thật, nên địa ngục, thiên đường, phiền não, Bồ-đề
v.v... đều không thật. Thấy tất cả không thật, nên an nhàn trước sống
chết. Khi đã nhận ra Pháp thân là Thể chân thật không hình tướng không
sanh không diệt, không đến không đi, không phải không quấy, giống như
người tới nhà, người thấy mặt trăng, không còn quan ngại, thấy việc sống
chết chỉ là việc nhàn thôi.
* |