THI CA (tt)
Dịch:
DƯỠNG CHÂN
Thân hình suy yếu kể đủ chăng?
Hạc lão tránh gà việc chẳng can.
Ngàn xanh muôn tía lầm hương quốc
Góc biển chân trời để dưỡng chân.
Giảng:
“Thân hình suy yếu kể đủ chăng?” Thân này tới tuổi già, mặt nhăn, má cóp,
gối mỏi, lưng còng, mắt mờ, tai điếc... cái suy yếu của thân này kể không
hết. Già rồi đủ thứ bệnh tật hiện ra, nên nói suy yếu kể không đủ. “Hạc
lão tránh gà việc chẳng can.” Câu này trích trong sách Nho, từ thành ngữ
“hạc lập kê quần” tức là chim hạc đứng giữa đàn gà; chim hạc ví cho người
cao thượng quân tử, gà ví cho kẻ thường tình tiểu nhân. Chim hạc trước
được loài gà quí trọng nể sợ, giờ đây hạc đã già, thời đã hết, nên phải
tránh bầy gà, không dám đứng giữa bầy gà nữa. Xưa, khi còn trẻ khỏe, hạc
uy nghi đứng giữa bầy gà, không có gà nào dám chọi, bây giờ hạc già yếu
thế rồi, phải tránh bầy gà không dám gần. Cũng vậy, người quân tử khi già
yếu thất thế rồi, phải tránh những kẻ tiểu nhân vì không ở gần họ được.
Thượng Sĩ lấy ý “hạc lão tránh gà việc chẳng can” ngầm nói Ngài già yếu ở
một chỗ để ẩn tu, chớ không giống như quan niệm của nhà Nho, người quân tử
khi già thất thế phải tránh kẻ tiểu nhân. Hai câu này nói, khi thân hình
già yếu suy kém thì có đủ thứ bệnh tật, vì vậy muốn tránh mọi người để tìm
chỗ an dưỡng tâm thần, chớ không giống như thái độ nhà Nho là người quân
tử khi thất thế, phải tránh kẻ tiểu nhân.
“Ngàn xanh muôn tía lầm hương quốc, góc biển chân trời để dưỡng chân.”
Ngàn xanh muôn tía là bao nhiêu thứ màu sắc xanh, tía, đỏ, vàng... làm lòa
mắt nguời đời, khiến cho người đời quên mất quê hương đất nước. Nhà Thiền
thường dùng chữ quê hương cũ để chỉ cho tâm thể chân thật có sẵn nơi mỗi
người. Quê hương cũ thì muôn đời không đổi thay, mới là cái chân thật của
người tu. Mắt đối diện với muôn ngàn màu sắc, phân biệt đẹp xấu, khởi lòng
ưa thích chọn lựa thì đâu còn nhớ đến quê hương nữa. Thượng Sĩ dùng chữ
ngàn xanh muôn tía để nói lên ý: người nào bị màu sắc chi phối cuốn lôi
thì không còn nhớ đến cố hương, tức là không thể nào nhận ra tâm thể chân
thật của mình. Vì vậy mà phải “góc biển chân trời để dưỡng chân”. Muốn
nuôi dưỡng tâm thể chân thật của mình, phải vào rừng lên núi ra đảo, để
tránh bớt duyên mà lo tu hành. Ở đây quí vị vào Thiền viện, tôi giới hạn
tối đa việc tiếp khách và đi lại là để cho quí vị dưỡng chân. Cả ngày chỉ
nhìn đồi thông và nhìn hồ nước Tuyền Lâm là cảnh thiên nhiên cho tâm hồn
nhẹ nhàng dễ nhớ cố hương.
Bài Dưỡng Chân hàm súc ý nghĩa thật hay. Theo Thượng Sĩ thì bây giờ Ngài
già yếu rồi, Ngài phải tránh mọi người để an dưỡng tinh thần; tránh không
phải vì sợ người ta khinh khi hiếp đáp, mà tránh vì muốn nhớ lại cố hương
của mình chớ không có gì lạ. Bởi vì ở giữa thành thị có bao nhiêu thứ nó
che lấp làm mờ mắt, khó nhớ lại cố hương, nên phải tìm chỗ thanh vắng,
tránh người tránh cảnh mà lo dưỡng chân. Dưỡng chân là không để trần cảnh
che lấp làm mờ tâm thể chân thật, mà luôn an tịnh để cho tâm thể chân thật
hiển lộ tròn sáng.
Dịch: VÀO
CÁT BỤI
Xăm xăm cất bước vào bụi đời
Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi.
Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa
Nhà đông cười nói nhập thai lừa.
Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy
Dây sắt lôi đầu cọp đá về.
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn xuân đài.
Giảng:
Vào cát bụi là vào cõi trần ai, tức là vào cõi đời nhiều bụi bặm nhớp nhơ.
“Xăm xăm cất bước vào bụi đời, vàng óng đầu mi, mở khơi khơi.” Đi nhanh
một mạch vào cõi đời nhiều cát bụi, không ngại ngùng e sợ. Tuy vào vòng
bụi bặm nhớp nhúa, mà đầu chân mày vẫn óng ả ánh sáng. Người đi vào đời mà
ánh sáng mở rộng như vậy thì không bị nghiệp lôi dẫn, nên nói “vàng óng
đầu mi, mở khơi khơi”. Cùng đi vào cõi trần mà người mê thì đi trong đen
tối, người tỉnh thì đi trong sáng suốt.
“Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa, nhà đông cười nói nhập thai lừa.” Hàng
Bồ-tát phát nguyện lợi sanh, đi vào xóm làng phía bắc thác sanh nhập vào
thai ngựa sanh ra thân ngựa, đi về phía đông vào nhà người cười nói, thác
sanh vào thai lừa sanh làm lừa. Bồ- tát sanh làm ngựa làm lừa là lăn lộn
trong trần ai, chấp nhận trầm luân trong sanh tử, nay nơi này mai chốn nọ.
Các Ngài đi vào cảnh giới xấu, nhưng các Ngài đi với bản nguyện lợi sanh,
đến với cuộc đời bằng mắt trí tuệ, chớ không phải đi theo nghiệp dẫn. Thế
nên, tuy có lăn lộn trong cõi trần ai, nhưng đến một ngày nào đó thức tỉnh
thì:
“Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy, dây sắt lôi đầu cọp đá về.” Khi ấy rất
trí dũng cầm roi vàng đánh trâu đất, trâu đất cũng phải chạy, dùng dây sắt
lôi cổ cọp đá, cọp đá cũng phải quay đầu. Để thấy rằng Bồ-tát vì hạnh
nguyện lợi sanh dù đi vào cõi trần, lăn lộn trong vòng bụi bặm. Khi thức
tỉnh, các Ngài vẫn có diệu dụng không thể nghĩ lường. Các Ngài có thể xoay
ngược lại tất cả những gì mà từ lâu nay người đời bị cuốn hút chao đảo.
“Rồi một ngày mai băng giá hết, trăm hoa như cũ rộn xuân đài.” Người tu
khi công hạnh tự lợi đã xong, phát nguyện độ đời, giáo hóa chúng sanh, kéo
họ ra khỏi dòng sanh tử xong rồi thì giá băng đông lạnh không còn nữa, bấy
giờ đứng trên đài xuân thấy trăm hoa đua nở đầy cả bầu trời, thật đẹp đẽ
vui tươi.
Mở
đầu bài thơ, Thượng Sĩ chống gậy đi vào đời đầy cát bụi với ánh sáng và từ
bi mở rộng. Đối lại, cuối bài thơ thì công hạnh lợi sanh viên mãn, tất cả
những tác nhân gây đau khổ, tới đây nó tan vỡ, không còn giá trị nữa,
chừng ấy mới thấy bầu trời mùa xuân, trăm hoa nở rộ, vui tươi đẹp đẽ vô
cùng. Đó là giờ phút công hạnh tự giác giác tha viên mãn của người tu, lúc
đó là lúc an nhàn tự tại.
Quí vị dám vào cát bụi không? - Thoạt đầu thấy đen tối quá! Nhưng ở đây đi
vào cõi đời cát bụi với ánh sáng óng ánh ở đầu mi mở rộng, nên không bị
cát bụi làm ô nhiễm. Nếu vào đời mà tối tăm không có ánh sáng thì sẽ bị
bụi trần làm nhiễm ô, không lợi ích gì. Bồ-tát hay Thiền sư có lúc các
ngài thị hiện ở những nơi rất lôi thôi để lợi sanh. Như ngài Huyền Sa Sư
Bị, trước khi tu cũng ở trong cảnh mê muội, thường hay giăng câu bắt cá.
Khi thức tỉnh, liền đem thuyền lên bãi cát bỏ, xuất gia tu hành. Kiểm lại,
lúc chúng ta còn nhỏ chưa hiểu đạo, đâu có hơn người thế tục chút nào.
Người đời ăn thịt mình cũng ăn thịt, người đời cười giỡn ca hát mình cũng
cười giỡn ca hát, cái gì quyến rũ mình đều ưa thích. Nhưng khi thức tỉnh
mình mới khác người đời. Đâu quí vị xét lại mình coi có khác người đời
chưa? Tất cả chúng ta phải đánh dấu hỏi chỗ này. Khi mê thì mình cũng như
ai, nhưng khi tỉnh thì phải khác. Nói tỉnh mà không khác thì chưa thật
tỉnh. Chỉ mang tiếng tỉnh mà không tỉnh. Vậy nên chúng ta phải tu cho thật
tỉnh, để xứng đáng với danh nghĩa mà mình đã mang. Và, nhớ tỉnh rồi thì
không được mê lại, mê lại là tội lỗi. Hai câu kết của bài này quá hay “rồi
một ngày mai băng giá hết, trăm hoa như cũ rộn xuân đài”.
Dịch: MUÔN VIỆC VỀ NHƯ
Từ không hiện có, có không thông
Có có không không rốt cuộc đồng.
Phiền não Bồ-đề vốn chẳng khác
Chân như vọng niệm thảy đều không.
Thân như cảnh huyễn, nghiệp như bóng
Tâm tợ gió đưa, tánh tợ bồng.
Đừng hỏi tử sanh, ma với Phật
Các sao hướng bắc, nước về đông.
Giảng:
Muôn việc về như là tất cả mọi sự mọi việc vốn dĩ là như vậy, chẳng có gì
phải nghĩ phải bàn.
“Từ không hiện có, có không thông, có có không không rốt cuộc đồng.” Tất
cả mọi vật trên đời này từ cái không rồi thành cái có, có một thời gian
hoại đi thành không, có và không nó thông nhau. Ví dụ cái nhà, trước đây
là không, sau do nhiều duyên hợp lại nên có cái nhà. Cái nhà có khoảng năm
bảy chục năm hư mục, không sửa chữa thì nó hoại mất không còn, trở lại
không. Vậy nên có không nó thông với nhau, nó không riêng thật có và cũng
không riêng thật không. Từ không, duyên hợp thành có; từ có duyên ly tán
thành không. Con người cũng vậy, trước kia là không, do duyên cha mẹ gặp
nhau mà có thân này, thân này sống năm bảy mươi năm thì gió lửa ly tán,
hoại diệt thành không. Thế nên cái có hiện giờ gốc từ cái không thuở
trước. Và, cái có hiện giờ một mai duyên ly tán cũng trở thành không. Cái
có cái không nó thông nhau, chớ không riêng không khác. Thấy dường như
hai, nhưng sự thật không hai. Vì trước không, sau có, có rồi lại không. Có
không không hai thể.
“Phiền não Bồ-đề vốn chẳng khác, chân như vọng niệm thảy đều không.” Đa số
người tu đều sợ phiền não, thích Bồ-đề. Bồ-đề là giác, phiền não là mê,
nên thích giác sợ mê. Nhưng sự thật mê không rời giác, giác không ngoài
mê. Tại sao? Vì giác là giác cái mê và mê là mê cái giác. Cũng như trong
cái nhà này, không có đèn, nói tối, mở đèn, hết tối, nói sáng. Hết tối nói
nhà sáng, hết sáng nói nhà tối. Sáng tối đổi thay chớ không gian cái nhà
không thay đổi. Sáng không thêm gì cho cái nhà, tối không làm mất gì trong
cái nhà. Cũng vậy, tâm thể chân như không phải là Bồ-đề, cũng không phải
là phiền não. Do dấy nghiệp sanh phiền não, hễ có phiền não thì che khuất
Bồ-đề. Thế nên phải giác, biết phiền não là nhân đau khổ cần phải xả bỏ.
Giác biết phiền não, gọi là Bồ- đề. Phiền não và giác biết phiền não dường
như hai. Nhưng thật sự thể nó không hai. Từ tâm thể chân như dấy khởi
phiền não và cũng từ tâm thể chân như khởi giác phiền não, phiền não hết,
giác (Bồ-đề) cũng không còn, chỉ là tâm thể chân như không hai, không
khác. Tôi lấy ví dụ này cho dễ hiểu: Tâm chúng ta đang bình an, thì không
có nhẫn, nhưng lúc chúng ta nổi sân mới có nhẫn để ức chế cơn sân cho lặng
xuống, khi sân lặng rồi thì nhẫn cũng hết. Như vậy sân và nhẫn không thật,
nó khởi lên từ tâm bình an rồi diệt mất. Thể nó không hai không khác. Cũng
vậy, chúng ta vì mê nên mới chạy theo ngũ dục thế gian, bây giờ cần phải
tỉnh giác để hết mê. Khi chúng ta hết mê rồi thì không cần tỉnh giác nữa,
lúc đó không nói mê cũng không nói giác. Như vậy phiền não và Bồ-đề không
phải hai. Và, “chân như vọng niệm thảy đều không.” Vọng niệm dấy khởi che
khuất chân như. Khi vọng niệm dấy khởi nói là động, muốn trở về cái tịnh
là chân như. Động và tịnh thấy như hai, vọng niệm là cái động lặng rồi đâu
còn muốn trở về với cái tịnh là chân như. Hết động không nói tịnh (chân
như) nữa, tự nó là như vậy thôi. Vậy, vọng niệm, chân như, phiền não,
Bồ-đề chỉ là chuyện đối trị nhau thôi; đối trị rồi buông hết. Đó mới là
chỗ chân thật cứu kính.
“Thân như cảnh huyễn, nghiệp như bóng.” Chúng ta mang thân này thấy nó là
thật là quí. Nhưng xét cho cùng thì nó chỉ là cái thân tạm bợ giả dối.
Nhìn lui về quá khứ, những người xưa như tổ tiên ông bà chúng ta, cũng
hoạt động, cũng sanh sống, bây giờ còn đâu? Người kế đó cũng hoạt động
cũng làm đủ thứ, bây giờ còn đâu? Người gần nhất là cha mẹ chúng ta cũng
một thời làm ra tiền của, bây giờ còn đâu? Giờ đến chúng ta cũng lăng xăng
hoạt động tạo tác, mai kia có còn không? Tất cả đều không còn. Như vậy
người xưa và người nay có thật không? Nếu thật thì không mất. Bây giờ
người trước mất, người kế mất, người sau cũng mất. Vậy thì cái gì là thật?
Thân này chỉ là huyễn có, có không thật. Thân đã huyễn thì nghiệp cũng như
bóng, vì nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý, mà thân khẩu ý tựa nơi thân này.
Thân không thật thì nghiệp cũng không thật, cũng như bóng như hình. Như
vậy chúng ta có sợ nghiệp không? Đâu quí vị nói một câu chí lý nghe coi,
sợ hay không?
Nếu đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng thấy thân này như huyễn, nghiệp như bóng
thì có gì sợ! Còn nếu lúc nào cũng thấy thân này thật thì có nghiệp thật
nên phải sợ. Nhớ, phải thấy hai chiều, đừng nhìn một chiều. Ở đây Thượng
Sĩ nói trong trường hợp của người tỉnh. Nếu chúng ta là người còn mê chưa
tỉnh thì phải sợ nghiệp. Vì tạo nghiệp dữ thì đọa địa ngục, thọ quả báo
khổ, tạo nghiệp lành thì sanh lên thiên đường được sung sướng. Như vậy,
nếu còn thấy thân thật cảnh thật thì nghiệp cũng thật, nếu thấy thân giả,
cảnh giả thì nghiệp như bóng như vang. Phật dạy rõ ràng như thế để chúng
ta đừng lầm chấp. Người không hiểu nghe đâu chấp đó làm những chuyện không
hợp đạo. Miệng nói thân không thật mà cứ tranh chấp quyền lợi hơn thua đủ
thứ. Hành động như vậy không hợp lý, vì còn thấy thân thật.
“Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng.” Ở đây Thượng Sĩ dùng chữ tâm chữ tánh đúng
ra nên dùng chữ chân tâm và vọng tưởng.
Chữ tâm chỉ cho vọng tưởng, chữ tánh chỉ cho chân tâm. Cỏ bồng khi khô,
bông nó nhẹ, gió thổi bay bổng lên. Bông cỏ bồng vốn không bay, vì gió
thổi nó mới bay. Cũng vậy tâm thể chân như vốn không động, nhưng vọng niệm
dấy khởi in tuồng như có động. Giống như bông cỏ bồng tự nó không bay
không động. Vì gió thổi đẩy nó bay lên; nó bay là do gió. Tâm thể chân như
vốn không động, do vọng niệm dấy khởi in tuồng như động.
“Đừng hỏi tử sanh ma với Phật, các sao hướng bắc, nước về đông.” Tử, sanh,
ma, Phật, tất cả những từ ngữ đó do đối đãi giả lập, không thật có nên
Thượng Sĩ bảo đừng có hỏi, đừng có thắc mắc. Vì tất cả pháp trên thế gian
này từ tâm dấy khởi, rồi lặng về như. Ví như (ở Việt Nam) sao trên trời
đầu hôm thì thấy ở hướng đông, đến khuya thì thấy ở hướng tây, vì trái đất
xoay nên đêm nào cũng như đêm nào đều thấy như thế không khác. Và, nước ở
sông đều chảy ra biển đông, chớ không chảy lên đồi núi.
Bài này Thượng Sĩ nói, tất cả muôn sự muôn vật trên thế gian này tuy có
sai biệt, nhưng đến chỗ rốt ráo chân thật đều hướng về chỗ như như, chớ
không chỗ nào khác, nên Ngài đề tựa là “Muôn việc về như”.
Dịch: THÓI ĐỜI HƯ DỐI
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha.
Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió mới mời xuân, mai đã hoa.
Trăng khuất núi tây, không còn bóng
Nước trôi đông hải, sóng đã qua.
Anh xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay đến làm thân với mọi nhà.
Giảng:
Thói đời hư dối là thói đời không thật, vì luôn luôn đổi thay, không cố
định.
“Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà.” Nhìn lên bầu trời chúng ta thấy những cụm
mây khi hiện hình này, khi hiện hình nọ, có lúc như hình con chó, có lúc
như hình con sấu, con cọp v.v... thay hình đổi dạng liền liền. Tại sao nó
đổi thay như thế? Vì mây không cố định, tụ tan tạm bợ nên luôn luôn thay
đổi hình dạng sắc tướng. Thượng Sĩ mượn hình ảnh mây để nói lên sự đổi dời
của muôn vật.
“Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha.” Giấc Nam Kha dẫn từ câu chuyện Thuần Vu
Phần nằm mộng thấy mình thi đỗ cao, được vua gả công chúa cho làm Thái thú
quận Nam Kha vô cùng vinh hiển. Sau đó Vu Phần đi dẹp giặc bị thua trận,
công chúa lâm bệnh nặng rồi mất. Nhà vua đem lòng nghi kỵ, cho về quê. Vu
Phần chợt thức giấc thấy mình nằm dưới gốc cây hòe bên ổ kiến. Vu Phần
ngẫm nghĩ mọi việc trong cuộc đời như ảo ảnh trong giấc mộng. Thượng Sĩ
dẫn câu chuyện này nói lên muôn sự muôn vật ở cõi đời đổi thay như những
cụm mây và cuộc sống mấy mươi năm của kiếp người như một giấc mộng.
“Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ.” Về đêm sương rơi xuống rửa sạch cái nóng
bức của mùa hạ. Hết tiết hạ sang tiết thu, nên hoa sen có nụ dưới hồ. “Gió
mới mời xuân mai đã hoa.” Gió đông báo hiệu đổi mùa, sắp sang xuân mai
cũng chuẩn bị nở hoa. Ở trước thất tôi chưa có gió đông mà thấy cây mai
bắt đầu chớm nụ. Như vậy chỉ cần thời tiết thay đổi thì sự vật cũng theo
đó đổi thay, nó luôn chuyển biến không dừng. Đây là những hình ảnh rất đẹp
diễn tả mùa hạ vừa qua, mùa thu lại đến, mùa đông sắp tàn và mùa xuân bước
sang. Nhờ sương rửa hết nóng bức của mùa hạ nên hoa sen nở, nhờ gió mới
mời xuân về nên hoa mai rộ nở đón xuân.
“Trăng khuất núi tây, không còn bóng”: Trên hư không mặt trăng vừa khuất
núi thì không còn một bóng trăng nào hiện ra và bầu trời tối mờ mịt. “Nước
trôi đông hải sóng đã qua”: Ở dưới biển nước chảy về đông tức là về biển,
thì các lượn sóng cũng tan. Như vậy trăng bị khuất núi không còn bóng,
nước chảy ra biển những lượn sóng cũng mất theo. Đó là những hình ảnh diễn
tả sự vật luôn luôn chuyển biến đổi dời rồi theo đó mà tan mất.
“Anh xem đàn én lầu Vương Tạ”: Họ Vương và họ Tạ là hai nhà quí tộc đời
Tống phong lưu phú quí không ai sánh bằng. Khi đó có đàn chim én bay đến
tụ tập trước lầu nhà họ chơi giỡn. Lúc cha mẹ họ Vương họ Tạ mất, con cháu
họ nghèo khổ, đàn én bay tới nhà khác đậu. Cho nên thơ Đường có hai câu:
“Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến, khí nhập tầm thường bách tính gia” tức
là khi xưa trước nhà họ Vương, họ Tạ có bầy chim én tới đậu, bây giờ nó
bay vào những nhà tầm thường của bá tánh. Thượng Sĩ dẫn ý này để nói lên
cái thói đời hư dối, khi giàu sang phú quí thì biết bao người tìm đến làm
thân, đến khi nghèo khổ hết thời thì bị mọi người coi rẻ và xa lánh. Giống
như đàn chim én khi họ Vương họ Tạ giàu sang phú quí thì nó tụ về, lúc
nghèo hèn khổ sở thì nó bay đi. Thói đời là như vậy, nên có câu “nghèo ở
giữa chợ không ai hỏi, giàu ở núi sâu lắm khách tầm” (Bần cư náo thị vô
nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu viễn thân). Như vậy có cái gì là thật vinh
thật nhục? Gặp thời thì mọi sự đều tốt, hết thời thì mọi sự đều xấu. Thói
đời là đổi thay, là không thật thì lấy cái gì làm chuẩn cho sự nhục vinh?
Bài thơ này nói lên sự tạm bợ đổi thay của sự vật và của lòng người. Hai
câu đầu nói lên cái tạm bợ của sự vật như mây nổi, như giấc mộng, không có
gì thật. Bốn câu giữa chứng minh sự tạm bợ đổi thay qua thời tiết, qua
ngoại cảnh trăng nước v.v... Hai câu cuối nói sự hư dối của thói đời, diễn
tả rõ ràng sự đổi trắng thay đen của lòng người. Lúc phú quí thì kẻ đón
người đưa, khi nghèo hèn thì người người xa lánh, đó là lẽ thường của thế
gian.
Dịch: HỌA
THƠ QUAN HUYỆN
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưa mến Y Vương với Quỉ Vương.
Trong chưa giác ngộ chân giác ngộ
Chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn.
Căn hèn muốn hỏi “trường sanh thuốc”
Tác giả (1) đâu cần “bất tử phương”.
Cá chẳng tìm mồi, nay nước lạnh
Đồng thời nơm, lưới thảy đều quên.
(1) Đáng lý là tác gia, chỉ cho người đạt đạo thì mới đúng ý của bài thơ.
Nhưng trong bản chữ Hán in là tác giả nên chúng tôi vẫn để tác giả.
Giảng:
“Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng”: “Tứ Minh Cuồng” là biệt hiệu của ông Hạ
Tri Chương, ông là người Vĩnh Hưng làm Thị Lang bộ Lễ đời vua Đường Huyền
Tông, tánh ông phóng đãng, lúc già xin về làm đạo sĩ ở Kinh Hồ lấy hiệu là
Tứ Minh Cuồng. Ngài dẫn câu chuyện này ý muốn nói nối gót theo ông Hạ Tri
Chương chán danh vọng từ quan để làm đạo sĩ tự do phóng khoáng.
“Ưa mến Y Vương với Quỉ Vương”: Y Vương là chỉ đức Phật, Ngài được tôn
xưng là Vô thượng Y Vương, tức là ông thầy thuốc không ai cao hơn được.
Đức Phật được tôn xưng như vậy có xứng đáng không? Ở thế gian ông thầy
thuốc giỏi nhất thì cứu được người bệnh sắp chết sống thêm năm, mười năm,
gọi là thầy thuốc đại tài. Chúng ta sống trong sanh tử tuổi thọ cao lắm
chỉ bảy mươi, tám mươi năm là chết. Ở đây đức Phật dạy chúng ta tu để
không còn bị chết chi phối, vậy Ngài không phải ông vua thầy thuốc là gì?
Ngài đưa chúng ta tới chỗ không còn sanh tử tức là vô sanh, nghĩa là sống
với cái sanh mạng không cùng không dứt. Sanh mạng đó không phải là sanh
mạng lăng xăng lộn xộn này, mà là bản thể thanh tịnh sáng suốt hiện có của
chính mình. Nhận ra sống được với bản thể thì muôn kiếp chúng ta không còn
bị sanh tử chi phối nên nói Phật là vị Y Vương. Lẽ ra chúng ta chỉ mến Y
Vương chớ không có ưa Quỉ Vương. Nhưng tại sao Ngài nói ưa Quỉ Vương? Thật
ra Quỉ Vương đáng sợ là khi nào chúng ta sợ nó, nếu chúng ta không sợ nó
thì nó không đáng sợ. Song vì người ta có cái bệnh hay đổ thừa, chẳng hạn
như một Thiền sinh tăng thấy một cô thiếu nữ đẹp, tâm xao xuyến bất an,
ngồi thiền không yên, đổ thừa tại cô thiếu nữ mà hôm nay tôi ngồi thiền
không yên. Có phải tại cô thiếu nữ đẹp nên Thiền sinh tăng ngồi thiền
không yên không? Cô thiếu nữ đẹp là do phước đời trước của cô nên cô đẹp,
đó là chuyện của cô, cô đi tới đi lui mặc kệ cô. Nếu vị ấy thấy cô thì
biết mình có cái hay thấy, thì đâu có can hệ gì? Do thấy rồi khởi tâm phân
biệt đẹp xấu rồi ưa thích nên xao xuyến bất an, đó là tại vị ấy, chớ đâu
phải tại cô. Tại vị ấy mà vị ấy đổ thừa cho người thật là vô lý. Nếu tâm
vị ấy không ưa thích xao xuyến bởi những hình sắc thì một trăm cô đi qua
cũng không dính dáng gì vị ấy. Thấy Phật tâm an nhiên, thấy cô thiếu nữ
tâm cũng an nhiên, thì Y Vương và Quỉ Vương đều thích có gì là tai họa?
Tai họa là do mình chớ không phải do người làm cho mình họa, nhưng vì
thiên hạ có cái bệnh đổ thừa, hễ có chuyện dở xảy ra là cứ đổ thừa tại
người này người kia chớ không ai can đảm nhận cái xấu cái dở đó là do
mình. Bây giờ biết rõ tất cả cái dở từ tâm mê nhiễm của mình mà ra, nếu
hết mê hết nhiễm thì ngoại cảnh tốt xấu cũng không có giá trị, không làm
hại được mình. Và, nhờ có Quỉ Vương nên chúng ta mới biết được tâm mình
còn ô nhiễm hay hết ô nhiễm. Gần Phật lạy Phật tâm thanh tịnh chuyện đó là
thường. Khi gặp duyên ô nhiễm mà tâm vẫn thanh tịnh thì Quỉ Vương rất hiền
và rất dễ mến. Thế nên Thượng Sĩ nói:
“Trong chưa giác ngộ chân giác ngộ, chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn.” Trong
chỗ chưa giác ngộ chúng ta phải thật giác ngộ, không thể lôi thôi lơ là
được. “Chỗ khó nghĩ bàn” là từ ngữ nhà Thiền, tông Qui Ngưỡng có dùng câu:
“Nan tư lương xứ diệu tư lương” nghĩa là “chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn”.
Trong chỗ đó không cho chúng ta suy nghĩ, phân biệt, mà chúng ta phải khéo
suy nghĩ phân biệt, đó là điểm đặc biệt của nhà Thiền. Chúng ta đọc qua
đoạn đối đáp giữa Lục Tổ và Thiền sư Huyền Giác sẽ rõ chỗ này.
Sư
Huyền Giác sau khi tham vấn Lục Tổ liền cáo từ ra về. Tổ bảo:
-
Sao trở về quá nhanh!
Sư
thưa:
-
Vốn tự không động thì đâu có nhanh.
Tổ
bảo:
-
Cái gì biết không động?
Sư
thưa:
-
Ngài tự phân biệt.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được ý vô sanh rất sâu!
Sư
thưa:
-
Vô sanh há có ý sao?
Tổ
bảo:
-
Không ý, cái gì biết phân biệt?
Sư
thưa:
-
Phân biệt cũng không phải ý.
Trong cái vô sanh không phải là không phân biệt, nhưng phân biệt mà không
phải ý. Vậy ý là tư lương, tư lương mà không phải ý, mới gọi là “Diệu tư
lương”.
“Căn hèn muốn hỏi trường sanh thuốc, tác giả đâu cần bất tử phương.” Người
căn cơ thấp vì còn yêu bản ngã nên họ ưa sống lâu, do đó muốn xin thuốc
trường sanh để uống cho được trường sanh bất tử. Tác giả là chỉ cho những
bậc đã đạt đạo, những vị đó không cần những phương thuốc bất tử. Tại sao?
Vì khi đã giác ngộ thì sống với cái thể bất sanh còn tìm cái vô sanh làm
gì nữa.
Thượng Sĩ nói, khi chúng ta chưa giác ngộ thì phải thật giác ngộ, ngay
trong cái khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn, nhưng cái nghĩ bàn không phải thuộc
ý, người căn cơ thấp thì muốn tìm thuốc để được sống lâu, còn người đạt
đạo không cầu sống lâu. Tại sao? Vì đạo tức vô sanh, vô sanh thì cầu bất
tử làm gì? Để thấy, người tu chân thật phải làm được những điều đó.
“Cá chẳng tìm mồi, nay nước lạnh, đồng thời nơm, lưới thảy đều quên.” Hai
câu này rất đẹp, mùa đông nước đóng băng, trời lạnh quá nên cá không đi
tìm mồi. Khi cá không đi tìm mồi thì phương tiện để bắt cá là nơm và lưới
cũng bỏ luôn. Đây nói lên cái ý khi chúng ta tu tới chỗ tâm nhất như rồi
thì giống như trời mùa đông lạnh, cá không đi tìm mồi. Thông thường cá tìm
mồi để nuôi sống. Cũng vậy, vọng tưởng luôn luôn chạy theo sáu trần để
nuôi lớn phiền não vô minh. Nhưng khi công phu tu hành tới chỗ tâm nhất
như thì giống như con cá lặng lẽ nằm yên không đi tìm mồi, nó không tìm
mồi thì phương tiện để bắt cá là nơm và lưới cũng bỏ luôn. Khi chúng ta tu
tới chỗ rốt ráo thì Bồ-đề Niết-bàn cũng không, phiền não vọng tưởng cũng
hết, nghĩa là năng sở đều quên. Năng là con cá, sở là nơm lưới cả hai đều
không còn.
Dịch:
CẢNH VẬT TỊNH BANG
Trại quê vừa dựng cảnh thanh tân
Đào lý xanh tươi bốn tiết xuân.
Tiếng sáo mục đồng, trăng gác lặng
Áo tơi mấy mảnh, mây ướt choàng.
Đường uốn ruột dê thông phố chợ
Khe chia đuôi én dứt hồng trần.
Quỉ thần trong tối cùng thầm bảo
Một giải phong quang anh ẩn thân.
Giảng:
Bài thơ này có chỗ nghi không phải của Thượng Sĩ, mà của Trần Quang Khải
tên là “Đề Dã Thự” (Dã thự là trại quê). Đọc bài này chúng ta thấy thuần
là tả cảnh đẹp, chớ không chứa đựng ý nghĩa đạo lý, đúng là của ông Trần
Quang Khải hơn là của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Vì bài này có bản chữ Hán nên
tôi phải dịch ra, ở đây khỏi cần giảng kỹ.
Dịch: HỌA
THƠ HƯNG TRÍ THƯỢNG VỊ HẦU
Thiền phong không trước cũng không sau
Bản thể như như sẵn vậy nào.
Thiếu Thất chín năm không một tiếng
Hoàng Mai đêm giữa tạm riêng truyền.
Tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm
Khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa lời.
Vì bảo Nguyên quân Trần Xử Sĩ
Nhạn khuya một tiếng, hết đêm mù.
Giảng:
Đây là bài thơ Thượng Sĩ họa lại để tặng Hưng Trí Thượng Vị Hầu [Hiệu của
Trần Quốc Nghiễn con thứ hai của Trần Quốc Tuấn.]. Trong sử ghi rằng khi
quân ta đánh với quân Nguyên, quân Nguyên thua bỏ chạy, nhà vua ra lệnh
đuổi theo chớ không giết. Trần Quốc Nghiễn quá hăng nên xua quân đuổi theo
giết quân địch rất nhiều. Khi làm lễ thưởng công tướng sĩ thì Trần Quốc
Nghiễn bị nhà vua chê là không tuân lệnh, và giặc thua chạy mà còn đuổi
theo giết là không có lợi. Vì sao? Vì Việt Nam là nước nhỏ dân ít, còn
quân Nguyên nước lớn dân đông, tướng tài của mình đánh thắng họ là mừng
rồi, họ thua để cho họ chạy về nước, đuổi theo giết họ chỉ gây thêm thù
oán. Quốc Nghiễn vì quá hăng không nghĩ đến cái lợi hại lâu dài, khi bị
quở và không được thưởng công, ông hơi buồn làm thơ than thở do đó Thượng
Sĩ họa lại với lý Thiền để khuyên ông. Mở đầu Ngài nói: “Thiền phong không
trước cũng không sau, bản thể như như sẵn vậy nào.” Sống Thiền là cốt trở
về với bản thể như như, bản thể như như đó không trước không sau. Trước
sau là chỉ cho không gian và thời gian, bản thể như như thì sẵn đó chớ
không phải mới có mới thành.
“Thiếu Thất chín năm không một tiếng, Hoàng Mai đêm giữa tạm riêng
truyền.” Tổ Đạt-ma chín năm ngồi xây mặt vào vách tại chùa Thiếu Lâm, lặng
im không một tiếng để nói lên thể như như. Sống với bản thể như như thì
không còn một tí vọng động. Và, ở Hoàng Mai giữa đêm Ngũ Tổ truyền ý bát
cho Lục Tổ là việc tạm thôi.
“Tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm, khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa lời.” Nếu tâm
mình chẳng dính một mảy tơ, không một niệm nhỏ nhiệm khởi lên thì lo gì
cái miệng mình nói bậy mà phải lựa lời. Sở dĩ miệng hay nói tào lao là tại
tâm lăng xăng lộn xộn, nếu tâm lặng lẽ thì miệng không còn nói bậy. Chúng
ta sở dĩ lựa lời nói cho khéo léo là tại tâm mình lộn xộn, khi thì nghĩ
tốt, khi thì nghĩ xấu, cho nên phải kềm chế bằng cách lựa lời hay khéo để
nói. Một khi tâm đã lặng lẽ không dấy niệm thì không còn lo sợ cái miệng
nói bậy. Hai câu này ý nói người ta hay sợ cái quả mà không sợ cái nhân,
lời nói phát ra là để diễn tả tâm tư của mình, tâm suy nghĩ tốt xấu thì
thốt ra lời nói có hay có dở, nếu tâm tư lặng lẽ thanh tịnh thì lời nào
thốt ra cũng thanh tịnh. Thế mà người đời cứ lựa lời nói cho hay cho khéo
mà không chịu gạn lọc phiền não cho tâm được thanh tịnh. Lo lựa lời nói
khéo là chúng ta chỉ lo tránh quả mà không sợ nhân. Thói thường chúng ta
không sợ tạo nghiệp mà chỉ sợ cái khổ sanh tử luân hồi. Luân hồi thọ khổ
là cái quả không đáng sợ, sợ là sợ tạo nghiệp, vì có nghiệp mới dẫn đi
luân hồi. Song, nghiệp cũng không đáng sợ mà phải sợ cái nhân đưa đến sự
tạo nghiệp là vọng tưởng. Như vậy muốn không tạo nghiệp, phải buông vọng
tưởng, nên nói “tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm, khẩu nghiệp nhọc gì chọn
lựa lời”. Nghĩa là nội tâm không còn vọng tưởng thì lo gì tạo ra khẩu
nghiệp. Vậy người tu Thiền muốn tránh cái quả luân hồi thì phải tránh cái
nhân tạo nghiệp, muốn không tạo nghiệp thì phải buông hết vọng tưởng, dứt
được manh mối ban đầu thì luân hồi làm sao có? Đó là cái gốc mà ai tu cũng
phải lo thực hiện cho tốt.
“Vì bảo Nguyên quân Trần Xử Sĩ, nhạn khuya một tiếng hết đêm mù.” Trần Xử
Sĩ cũng là hiệu của Trần Quốc Nghiễn. Về đêm trời khuya vắng lặng, một
tiếng nhạn kêu thì sương mù tan ngay. Đây muốn nói khi tâm chúng ta thanh
tịnh thì, mê mờ đau khổ đều sạch hết. Chỉ cần một phen ngộ thì mọi sự đều
yên, nếu còn mê còn lăng xăng lộn xộn mà muốn tránh những cái khen chê,
làm sao tránh khỏi? Chỉ khi nào tâm bừng sáng thì mọi cái mê mờ hết sạch,
đó là lời khuyên chí lý của Ngài. Qua bài thơ này chúng ta thấy Thượng Sĩ
khuyên Trần Quốc Nghiễn đừng buồn phiền vì đi đánh giặc có công mà không
được trọng thưởng. Ngài khuyên ông phải ráng tu để tâm thanh tịnh thì mọi
sự buồn phiền đau khổ đều hết.
* |