THI CA (tt)
Dịch:
TỤNG ĐẠO HỌC TRẦN THÁNH TÔNG
Thánh học cao minh tột cổ kim
Kho rồng xâu suốt tận hoa tim.
Thích phong đã được mở tay báu
Tổ ý đâu không thấu kim chìm.
Trí vượt cửa thiền thông Thiếu Thất
Tình siêu biển giáo thấu Oai Âm.
Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp,
Ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.
Giảng:
Trần Thánh Tông là vị vua không xuất gia mà thấy được lý thật qua kinh
điển, qua ngữ lục của các Thiền sư. Nhà vua thấy rất sâu, tột cùng lý đạo,
nên Thượng Sĩ tán thán.
“Thánh học cao minh tột cổ kim, kho rồng xâu suốt tận hoa tim.” Về thánh
điển thì nhà vua thông suốt cả sách vở xưa nay, nhất là kinh Phật. “Kho
rồng” dựa theo huyền sử kể rằng Bồ-tát Long Thọ có một lần được Long vương
mời xuống Long cung thuyết pháp, Long vương mở kho tàng chứa kinh Phật cho
Ngài xem. Vì trên nhân gian bị giặc cướp thiêu đốt cho nên kinh sách không
còn đủ, Long vương đã thỉnh hết kinh Phật đem về chứa vào kho ở Long cung.
Sau khi xem, ngài Long Thọ xin thỉnh những bộ kinh như Hoa Nghiêm,
Niết-bàn v.v... để đem về nhân gian dịch ra và truyền bá cho người sau
biết. Bốn bộ A-hàm của hệ Nguyên thủy không có những kinh đó. Đứng về lịch
sử thì kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn v.v... ra đời sau khi Phật niết-bàn
khoảng sáu trăm năm, tức là nhằm vào thời ngài Long Thọ. Nên đây nói “kho
rồng xâu suốt tận hoa tim”. Nghĩa là kho kinh ở Long cung vua Trần Thánh
Tông thông suốt hết.
“Thích phong đã được mở tay báu, Tổ ý đâu không thấu kim chìm.” Hai câu
này ý muốn nhắc đến hai sự tích:
1.
“Thích phong đã được mở tay báu” nghĩa là mở tay ra có hòn ngọc quí trong
đó. Một hôm Tổ Sư Tử đi hoằng hóa đến nước Kế-tân có ông trưởng giả dẫn
đứa con đến yết kiến Ngài, thưa rằng:
-
Thằng con tôi tên là Tư-đa hai mươi tuổi, từ khi sanh ra đến giờ bàn tay
trái nó nắm chặt lại chưa từng mở ra. Xin Tôn giả từ bi nói rõ nhân đời
trước của nó cho tôi hiểu.
Tổ
nhìn thẳng vào mặt Tư-đa, rồi đưa tay bảo:
-
Trả hạt châu lại cho ta!
Tư-đa liền xòe tay dâng hạt châu cho Tổ. Tổ giải thích:
-
“Đời trước, ta là một Tỳ-kheo thường được Long vương thỉnh xuống Long cung
tụng kinh. Một hôm sau khi tụng kinh xong, Long vương cúng ta một hạt
châu, ta nhận châu rồi trao cho chú thị giả tên Bà-xá (tức là thân đời
trước của Tư-đa) giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhân duyên thầy
trò chưa hết nên gặp lại nhau tại hội này.”
Trưởng giả nghe được tiền duyên của con mình hoan hỉ cho Tư-đa theo Ngài
xuất gia. Tổ xét duyên xưa và nay, hợp hai tên đặt là Bà-xá-tư-đa.
Ý
câu này Thượng Sĩ tán thán vua Trần Thánh Tông giống như Bà-xá-tư-đa mở
tay ra liền thấy hòn ngọc báu. Đó là cái duyên thầy trò ngày xưa bây giờ
gặp lại.
2.
“Tổ ý đâu không thấu kim chìm.” Ngài Ca- na-đề- bà là Tổ thứ mười lăm đệ
tử của Tổ Long Thọ. Khi Tổ Long Thọ đến Nam Ấn, Ngài đến yết kiến. Tổ muốn
thử Ngài, nên sai đồ đệ múc một thau nước đầy để trước lối vào. Ngài đi
qua lấy một cây kim bỏ vào thau nước rồi thẳng đến yết kiến Tổ. Tổ rất
hoan hỉ, thầy trò đã hợp duyên. Việc Long Thọ sai để thau nước không phải
chỉ ngầm ý cho ngài Đề-bà bỏ kim vào, mà còn muốn nói lên cái ý khó tìm. Ở
đời cái gì khó tìm thì người ta nói mò kim đáy giếng. Kim rớt xuống đáy
giếng tìm rất khó. Cũng vậy, duyên thầy trò ngày xưa mà nay gặp lại không
phải là chuyện dễ, rất khó, khó như việc mò kim đáy giếng. Cái thau nước
tượng trưng cho cái giếng, cây kim bỏ trong thau chìm xuống đáy, dụ như
cây kim rớt chìm dưới đáy giếng tìm rất khó khăn. Ý của Tổ Long Thọ ngài
Ca-na- đề-bà hiểu thấu, nên bỏ cây kim vào thau. Thượng Sĩ dẫn tích này để
tán thán vua Trần Thánh Tông thấu suốt lý Thiền, giống như ngài
Ca-na-đề-bà hội được ý Tổ Long Thọ nên bỏ kim vào thau.
“Trí vượt cửa Thiền thông Thiếu Thất.” Trí tuệ của vua Trần Thánh Tông
vượt khỏi cửa Thiền và thông suốt được ý nghĩa của Tổ Đạt-ma ở Thiếu Thất.
“Tình siêu biển giáo thấu Oai Âm.” Vua Trần Thánh Tông thấu suốt được giáo
lý của Phật Thích-ca trong đời hiện tại cho đến đức Phật Oai Âm Vương ở
đời quá khứ. Trong kinh có câu: “Oai Âm Vương dĩ tiền vô Phật danh vô
chúng sanh danh.” Nghĩa là từ đức Phật Oai Âm Vương về trước không có tên
Phật và tên chúng sanh. Phật Oai Âm Vương là đức Phật đầu của tất cảz chư
Phật. Ý câu này tán thán vua Trần Thánh Tông thấu suốt được giáo lý của
chư Phật một cách tường tận.
“Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp, ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.” Nguời
thế gian chỉ thích thấy những cảnh đẹp của núi non mây nước, ít ai chịu
lắng nghe tiếng con vượn kêu trong hang sâu. Ở đời này có mấy người chịu
ngồi im lìm để lắng nghe tiếng khỉ vượn nhảy nhót kêu ở trong lồng, mà đa
số chỉ thích chạy tìm những thanh sắc tầm thường ở bên ngoài. Nhưng tất cả
cái bên ngoài là tướng sanh diệt, thế mà người ta lại mê say đuổi theo.
Rất ít người chịu lắng lòng nhìn lại mình thật kỹ, để nhận ra cái chân
thật của mình. Tuy quí vị có lắng ở hang sâu mà chưa nghe tiếng vượn, biết
đâu hôm nào đó nghe rồi bật cười và tất cả sương mù trên thế gian đều tan
vỡ hết. Chúng ta thấy những bài thơ của Thượng Sĩ, hai câu kết thường nhắc
đến việc quan trọng của người tu là nhận cho ra cái chân thật của
mình.
Dịch:
CHĂN TRÂU ĐẤT
Một con trâu đất, một mình chăn
Xỏ mũi lôi về chẳng khó khăn.
Đem đến Tào Khê buông thả quách
Mênh mông nước chảy đánh cầu tròn.
Giảng:
Theo chữ Hán con trâu và con bò viết cùng một chữ ngưu ( ) nhưng chữ ngưu
thường chỉ con bò, còn chữ thủy ngưu ( ) thường chỉ con trâu. Còn bò thì
màu vàng sừng ngắn, ở trên khô không lội nước, con trâu màu đen sừng dài
và cong lội nước được, nên nói trâu nước.
Ở
đây Thượng Sĩ nói chăn con trâu đất. Vậy trâu đất là trâu hay bò? Đúng ra
là trâu chớ không phải bò. Vì ở Việt Nam trâu hay nằm ở vũng bùn tẩm đất
đầy mình nên gọi là trâu đất, thay vì ở Trung Hoa gọi là trâu nước. Vậy
nói theo Việt Nam là chăn trâu chớ không phải chăn bò. Chúng ta đừng hiểu
lầm con trâu đất là con trâu làm bằng đất, trâu bằng đất thì vô tri làm
sao chăn? Như vậy con trâu đất là con trâu dính bùn đầy mình, vì chữ Nê
( ) là bùn chớ không phải đất.
“Một con trâu đất một mình chăn.” Một con trâu đất một mình chăn thì dễ
quá, chăn con trâu của mình chớ không phải của ai. Nhưng chăn bằng cách
nào? “Xỏ mũi lôi về chẳng khó khăn.” Xỏ mũi lôi đầu nó chuyện đó không
khó. Như vậy muốn con trâu thuần thục và qui thuận thì phải xỏ mũi lôi đầu
nó mới đi, chớ chăn mà không xỏ mũi thì không được. Cũng vậy, những vọng
tưởng của chúng ta nhà Thiền tạm gọi con trâu, nó không có hình tướng
chợt sanh chợt diệt. Nếu chăn mà không có phương tiện thì làm sao chăn? Vì
vậy phải dùng phương tiện. Phương tiện ở đây dùng cho người sơ cơ là quán
hơi thở, người thuần thục thì vọng tưởng khởi nhìn cho nó lặng xuống,
không để nó tự do hoạt động. Nếu chúng ta chăn thật kỹ thì con trâu dễ
điều phục. Con trâu chúng ta đang chăn có ai biết hình dáng nó thế nào
không? Nó có bốn chân hai sừng phải không? - Thật ra, con trâu Thượng Sĩ
nói không có hình dáng cụ thể, chẳng qua do người xưa nương lời dạy của
đức Phật trong kinh Di Giáo về việc kềm chế năm căn không cho buông lung
chạy theo năm dục. Ví như người chăn trâu coi chừng trâu không cho nó xâm
phạm lúa mạ của người. Mượn hình ảnh con trâu để soạn ra mười bức tranh
với ý chỉ hàng phục những vọng tưởng loạn động của mình gọi là chăn trâu.
“Đem đến Tào Khê buông thả quách.” Thả quách là buông tay chớ không còn
nắm mũi, không còn kềm chế, nghĩa là để cho nó tự do. Nhưng muốn thả thì
phải chăn cho thuần thục rồi mới thả. Chừng nào chúng ta được nhất hạnh
tam-muội và nhất tướng tam-muội, như lời Lục Tổ dạy trong kinh Pháp Bảo
Đàn thì mới thả cho con trâu tự do. Nhất tướng tam-muội là đối với tất cả
tướng dù đẹp dù xấu, dù lớn dù nhỏ, chúng ta đều không dính mắc, tức là
nhìn thấy tất cả tướng tâm không dấy động, luôn luôn ở trong chánh định.
Nhất hạnh tam-muội là trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm, khi tiếp duyên
xúc cảnh tâm vẫn an nhiên tự tại, không dính không kẹt với sáu trần bên
ngoài. Như vậy nếu người tu hành đạt được hai tam-muội này thì không còn
phải chăn trâu, nên nói đem đến Tào Khê buông thả quách. “Mênh mông nước
chảy đánh cầu tròn.” Câu kết hơi khó. Ở trong dòng nước chảy xiết mà đánh
cầu. Để dễ hiểu tôi dẫn câu chuyện mang ý này:
Có
vị Tăng đến hỏi ngài Triệu Châu: “Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức chăng?”
Triệu Châu đáp: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu.” Sau vị Tăng ấy đến hỏi
ngài Đại Đồng Đầu Tử: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu, ý nghĩa thế nào?”
Sư đáp: “Niệm niệm chẳng tạm dừng.”
Chúng ta thường nghĩ người lớn có ý thức phân biệt thế này thế kia, còn
con nít thì ý thức nó còn non nớt nên không phân biệt. Ở đây, vị Tăng này
hỏi: “Con nít có đủ sáu thức không?” Ngài Triệu Châu trả lời: “Trên dòng
nước chảy xiết đá cầu.” Nghe qua vị Tăng không hiểu mới đến hỏi Thiền sư
Đại Đồng, Ngài đáp: “Niệm niệm chẳng tạm dừng.” Qua câu đáp của Thiền sư
Đại Đồng chúng ta mới hiểu câu trả lời của ngài Triệu Châu “trên dòng nước
chảy xiết đá cầu”. Ý nói sáu thức nơi con nít đang trên dòng phát triển
liên tục từ sơ sanh dần dần lớn lên. Như khi còn bé chúng ta cũng thấy
nghe mà chưa khởi phân biệt đẹp xấu hay dở. Tuy nói chưa khởi phân biệt,
chớ đứa bé thấy cái gì có màu sắc nó cũng đưa tay chụp, cái gì không thích
thì nó giẫy nẩy không chịu, nghe tiếng nói ngọt ngào nó cười vui vẻ, nghe
tiếng nói nặng nề mắng mỏ nó cũng biết tủi biết buồn. Như vậy tuy nó có
cái biết phân biệt nhưng rất sơ khai chưa rõ ràng. Từ từ lớn lên cái thấy
nghe hiểu biết nó càng rõ ràng hơn. Ngài Triệu Châu nói đứa bé vẫn có đủ
sáu thức, nhưng phát triển dần dần từ sơ khai đến trưởng thành, liên tục
như dòng nước chảy xiết, hạt nước này tiếp nối hạt nước kia chảy liên tục.
Chúng ta thấy như một dòng nước nhưng thật ra nó biến chuyển không dừng.
Ngài Triệu Châu nói con nít cũng có sáu thức, song nó biến chuyển dần và
không dừng như dòng nước chảy xiết. Còn đá cầu, nghĩa là sao? Chính nhờ
Thượng Sĩ mà chúng ta hiểu được ý này. Xin nhắc lại hai câu “đem đến Tào
Khê buông thả quách, mênh mông nước chảy đánh cầu tròn”. Nếu chúng ta tu
điều phục được con trâu của mình rồi, nó không còn kéo lôi chống trả nữa,
lúc đó chúng ta được tự do. Như vậy là trong dòng biến chuyển của sáu thức
chúng ta được tự tại. Giống như người đánh cầu trên dòng nước chảy xiết.
Đánh cầu hay đá cầu của ngài Triệu Châu, ý nói người tu Thiền thì không bị
sự biến chuyển của sáu thức lôi kéo nhận chìm. Giống như người đứng trên
dòng nước chảy xiết mà đánh cầu một cách tự do, việc này ngoài sức tưởng
tượng của con người. Vì người thế gian luôn luôn bị sáu thức kéo lôi nhận
chìm. Hiểu được ý này chúng ta mới thấy giá trị của bài thơ. Bài thơ chỉ
có bốn câu mà Ngài nói lên được tiến trình tu tập từ khi bắt đầu dụng tâm
tu cho đến khi đạt được kết quả.
Tôi xin nhắc lại toàn bài để quí vị nắm cho vững: “Một con trâu đất một
mình chăn.” Mấy hôm rồi quí vị chăn một mình hay có ai phụ không? “Xỏ mũi
lôi về chẳng khó khăn.” Quí vị xỏ mũi được chưa hay vẫn còn cay đắng gian
nan? Và, tuy đã xỏ mũi rồi có khi lôi nó không chịu đi, vì sức mình yếu
nên lắm lúc cũng bị nó lôi lại. Như vậy đối với quí vị thì “xỏ mũi lôi về
rất khó khăn”. Nếu “chẳng khó khăn” thì sẽ “đem đến Tào Khê buông thả
quách”. Khi trâu thuần thục thì mình nằm ngủ khò chẳng còn lo lắng gì nữa,
bấy giờ thì “mênh mông nước chảy đánh cầu tròn”. Tuy ở trong dòng sanh
diệt mà chúng ta an nhiên, không lo sợ không dính mắc gì cả. Chỉ tóm gọn
trong bốn câu thơ mà Ngài nói lên được tiến trình tu tập của một hành giả
từ khi bắt đầu cho đến khi viên mãn. Chúng ta nên ghi nhớ để mà tu tập.
Dịch: VUI
THÍCH GIANG HỒ
Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây
Ngày tháng như tên dường tợ thoi.
Gió mát trăng thanh sanh kế đủ
Non xanh nước biếc nếp sống đầy.
Sáng sớm giương buồm băng nước thẳm
Chiều nâng sáo thổi cợt khói mây.
Tạ Tam nay đã không tin tức
Để chiếc thuyền trơ bãi cát này.
Giảng:
Bài thơ này diễn tả cái thú giang hồ của những người có tinh thần hào
phóng, tâm hồn thích tự do rày đây mai đó.
“Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây.” Hồ hải chỉ cho ngũ hồ tứ hải. Lúc nhỏ đã
có tâm hào phóng, nay tuy già mà vẫn còn thích đi đây đi kia chớ không
chịu ở một nơi. “Ngày tháng như tên dường tợ thoi.” Ngày tháng trôi qua
nhanh như tên bắn như thoi đưa, không chờ đợi ai cả. Hai câu này ý nói tâm
hồn của Thượng Sĩ lúc nào cũng muốn dạo chơi hồ hải, nhưng bây giờ nhìn
lại thì ngày tháng trôi qua nhanh và tuổi đã già. Tuy nhiên:
“Gió mát trăng thanh sanh kế đủ, non xanh nước biếc nếp sống đầy.” Sanh kế
của Thượng Sĩ là gió mát trăng thanh. Có gió mát trăng thanh là đủ sống
rồi, không cần phải ăn ngon mặc đẹp. Nếp sống của Ngài là phải gần gũi
thiên nhiên, cho nên non xanh nước biếc làm cho đời sống của Thượng Sĩ
thêm đầy đủ. Đó là phong độ sống của Ngài. Chúng ta bây giờ ở Thiền viện
Trúc Lâm có đủ những điều kiện về sanh kế như Ngài nói chưa? Ở đây cũng có
rừng thông xanh mướt, gió thổi vi vu, hồ nước Tuyền Lâm trong vắt, mỗi đêm
trăng sáng soi bóng xuống hồ... Chúng ta có đủ cả, có thể nói là dư thừa.
Vậy có ai là người có tâm hồn giang hồ muốn tìm non xanh nước biếc gió mát
trăng thanh nữa không? Hay đã an lòng ở đây vừa tu vừa thưởng thức cảnh
đẹp?
“Sáng sớm giương buồm băng nước thẳm, chiều nâng sáo thổi cợt khói mây.”
Sáng thả buồm rong chơi, chiều nâng sáo thổi cợt đùa với mây gió. Thượng
Sĩ là một cư sĩ thì sống như thế được. Chúng ta là Thiền sinh thì phải sửa
hai câu này lại cho phù hợp: “Sáng sớm vác cuốc ra làm cỏ, chiều ôm tọa cụ
đến Thiền đường.”
“Tạ Tam nay đã không tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này.” Tạ Tam tức
là Tạ Tam Lang, tên cũ của Thiền sư Huyền Sa Sư Bị, lúc còn cư sĩ ông là
một người thả thuyền câu dưới sông, vui thú giang hồ nay đầu ghềnh mai
cuối bãi, lúc ba mươi tuổi ông đem thuyền lên bãi để rồi bỏ đi tu, sau trở
thành một Thiền sư nổi tiếng. Do đó nên Thượng Sĩ so sánh Tạ Tam trước là
một chú chèo thuyền câu cá, bây giờ không còn nghe tin tức, mà chỉ thấy
chiếc thuyền nằm trơ trên bãi cát cạn. Ý muốn nói tuy tâm hồn hồ hải, là
tâm hồn của những người thích phóng khoáng tự do, nhưng không phải chỉ
thỏa mãn cái tâm yêu thích non xanh nước biếc, gió mát trăng thanh của thi
sĩ, hoặc của kẻ thường tình hướng về cõi hồng trần để lụy thân, mà là tinh
thần tự do phóng khoáng của người hướng về với đạo. Vì người ưa thích
thiên nhiên tâm hồn phóng khoáng dễ phù hợp với Thiền, nên Thượng Sĩ nói
“Tạ Tam nay đã không tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này”. Ai là
chàng Tạ Tam Lang bỏ thuyền trên bãi cát đi tu? Ai có tâm hồn hồ hải thì
hãy bắt chước Tạ Tam Lang!
Dịch: VẬT
KHÔNG TÙY NGƯỜI
Ở xứ lõa thân cởi áo đi
Phải đâu bỏ lễ, chỉ tùy nghi.
Trâm vàng mụ sói treo làm móc
Gương báu lão mù lấy đậy ly.
Trâu chẳng thèm nghe đàn ngọc tháo
Hoa trang anh lạc, voi biết gì.
Hỡi ôi! Một khúc đàn huyền diệu
Nên lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ.
Giảng:
Đồ
vật nếu người dùng đúng nhu cầu thì vật đó có ích, ngược lại tuy có vật
quí trong tay mà dùng không đúng chỗ thì nó trở thành vô nghĩa, nên vật
không tùy người mà chính nhu cầu người sử dụng vật. Vật trở thành quí là
do người cần dùng nó, rồi cho nó là quí, chớ nó không quí đối với tất cả.
“Ở
xứ lõa thân cởi áo đi, phải đâu bỏ lễ chỉ tùy nghi.” Nếu chúng ta đến nước
lõa thể thì họ sao mình vậy, họ ở trần thì chúng ta cũng phải cởi áo, như
vậy mới hợp với họ. Cởi áo để hòa hợp với họ chớ không phải bỏ lễ phép, mà
chỉ tùy nghi, sống ở đâu thì phải thích hợp với phong tục tập quán ở đó.
Cũng vậy, người tu muốn làm lợi ích cho người thì phải biết thích ứng với
thời cơ. Chữ Kinh trong nhà Phật hàm chứa nghĩa khế lý và khế cơ. Người tu
muốn đem giáo lý của Phật dạy cho người khác tu thì phải có đủ hai điều
kiện: một là đúng với chân lý, hai là hợp với căn cơ người nghe. Dù lời
nói của chúng ta phù hợp với chân lý, mà không hợp với căn cơ người nghe
họ không lãnh hội được, thì lời nói của chúng ta trở thành vô ích. Ngược
lại hợp với căn cơ mà sai chân lý thì cũng thành vô nghĩa. Ví dụ người
thích tu bố thí để cầu phước mà chúng ta đem lý Thiền nói với họ, họ chẳng
hiểu gì, hoặc người căn cơ thích hợp với pháp tu Thiền mà chúng ta dạy họ
pháp tu của ngoại đạo thì sai với chân lý của Phật dạy. Thế nên chúng ta
muốn làm lợi ích cho người thì người đang ở trong hoàn cảnh nào, chúng ta
phải tùy theo hoàn cảnh nấy của họ mà giúp đỡ. Có khi việc làm thấy như
trái với nghi quỹ của người tu, nhưng vì người nên chúng ta phải làm để
người được lợi ích. Đó là khế lý và khế cơ.
“Trâm vàng mụ sói treo làm móc, gương báu lão mù lấy đậy ly.” Người sói
đầu có cây trâm vàng họ không biết làm gì, nên gắn trên tường làm cái móc
treo đồ. Với Ni cô thì trâm vàng cũng treo làm móc luôn! Có tóc đâu mà
cài? Và, cái gương dù có quí báu, nhưng đối với người mù, gương xài không
được. Vì mù có thấy đâu mà soi gương, nên dùng cái gương đậy ly. Ý Thượng
Sĩ muốn nói, dù vật quí nhưng với người không cần thì nó trở thành vô
dụng.
“Trâu chẳng thèm nghe đàn ngọc tháo, hoa trang anh lạc voi biết gì.” Đối
với trâu dù chúng ta có đem đàn bằng ngọc khảy lên tiếng thanh tao bên tai
nó cũng chẳng biết gì. Hoặc đem đồ trang sức bằng anh lạc máng vô cổ con
voi nó cũng không biết quí. Những vật quí mà không thích hợp với con vật
thì cũng trở thành vô dụng. Ý Thượng Sĩ nói, phàm làm việc gì không hợp
thời, không thích nghi với hoàn cảnh, không đúng với căn cơ của người thì
dù có cố gắng làm cho nó đẹp cũng trở thành vô nghĩa, và không có kết quả.
“Hỡi ôi! Một khúc đàn huyền diệu, nên lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ.” Khúc đàn
hay của Bá Nha nếu không có người tri kỷ như Tử Kỳ nghe thì có ai biết
thưởng thức? Cho nên có khúc đàn hay thì phải có người tri kỷ biết nghe
đàn thì khúc đàn mới có giá trị. Vì có giá trị nên quí. Và “nên lấy vàng
ròng đúc Tử Kỳ”. Phải đúc tượng Tử Kỳ bằng vàng mới xứng đáng, vì là người
tri kỷ biết được khúc đàn hay. Đó là Thượng Sĩ lấy việc thế gian để nói
việc trong đạo. Pháp của Phật rất là cao siêu, pháp tu Thiền rất là đơn
giản nhưng giúp người được giải thoát. Song, không phải ai nghe cũng hiểu
cũng thấm nhuần. Chỉ có người đủ duyên nghe, mới biết được những điều Phật
dạy là cao siêu mầu nhiệm, đưa con người đến chỗ an vui giải thoát. Người
nhận được lý sâu xa của Thiền thì người đó mới quí. Thượng Sĩ bảo Tử Kỳ
nghe được khúc đàn hay của Bá Nha, nếu Tử Kỳ chết nên lấy vàng đúc tượng
để thờ. Như vậy đứng trước người hiểu được Phật pháp, nhận được lý Thiền,
chúng ta nên trân trọng họ. Đó là nói về ý nghĩa vật không tùy người.
Dịch:
VIẾNG ĐẠI SƯ TĂNG ĐIỀN
Chẳng cần cửa tía, chẳng cần rừng
Rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm.
Thế nhân trọn thấy ngàn non sáng
Mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.
Giảng:
Chữ viếng khác chữ thăm, người Nam thì dùng chữ thăm, còn người Bắc thì
dùng chữ viếng. Nếu là người bình thường thì người Bắc nói đi thăm, nếu là
người lớn hơn hay quí hơn thì nói đi viếng. Ví dụ như nói đi viếng đền
Hùng chớ không nói đi thăm.
“Chẳng cần cửa tía chẳng cần rừng.” Cửa tía là chỉ cho những nơi thành thị
giàu sang, “chẳng cần rừng” là chẳng cần vào nơi rừng rậm xa vắng. Vậy chỗ
thành thị ồn náo và nơi rừng vắng đều không cần. “Rốt cuộc chỗ nào chẳng
an tâm.” Nếu tâm chúng ta không động không rong ruổi theo ngoại cảnh thì ở
giữa thành thị hay trong rừng vắng đều như nhau. Nếu tâm còn dính mắc với
cảnh thì ở thành thị thua ở rừng. Vậy Tăng Ni và Phật tử hiện có mặt cần
cái nào? Chẳng cần cửa tía chẳng cần rừng hay chẳng cần cửa tía mà rất cần
rừng? Vì ở ngoài cửa tía lộn xộn quá bất an khó tu, ở rừng vắng vẻ dễ tu
hơn. Người tu nếu tâm nhất như thì không cần chọn cảnh tịnh hay cảnh động,
nếu chưa nhất như thì phải tránh chỗ động tìm chỗ tịnh.
“Thế nhân trọn thấy ngàn non sáng, mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.”
Người đời chỉ thích nhìn cảnh trời mây non nước đẹp đẽ, mà ít ai chịu lắng
nghe tiếng vượn trầm. Ý Ngài muốn nói người đời thích chạy theo ngoại cảnh
mà ít chịu quay về lắng nghe tiếng dấy động của nội tâm. Tiếng con vượn là
chỉ cho tâm viên ý mã của mình, ít ai để ý nhìn lại nội tâm mình, nghe
tiếng đang réo gọi trong tầng sâu thẳm nhất, mà chỉ hướng ra ngoài khen
cái này, chê cái nọ v.v... Chỉ có những ai ngồi lặng yên gạt bỏ sáu trần,
mới nghe được tiếng con vượn của mình kêu, nghe nó nói đủ thứ, nào chuyện
của mình của người, chuyện năm trước năm sau. Chuyện không ra gì nó cứ kể
hoài không chịu dừng.
Tóm lại, Thượng Sĩ muốn nói rằng: Nếu người tu tâm thuần thục rồi thì
không cần tránh cảnh, ở chốn phồn hoa hay nơi rừng vắng đều là chỗ an tâm.
Đa số người thế tục thì chỉ hướng ra ngoài chạy theo trần cảnh, mà không
chịu quay về nhìn kỹ mình để lắng nghe những dấy động của nội tâm mình.
Chỉ bốn câu thơ mà Thượng Sĩ diễn tả được người tu thoát tục không vướng
mắc và người thế tục không tu nên luôn luôn bị vướng mắc với sáu trần.
Dịch:
THĂM BỆNH ĐẠI SƯ PHƯỚC ĐƯỜNG
Gió, nước gặp nhau sóng dấy lên
Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.
Mới hay bốn đại không ranh giới
Núi kiếm mặc tình men theo dòng.
Giảng:
Phước Đường là tên Tinh xá, Đại sư là chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao, Ngài ở
Tinh xá Phước Đường, vì kính trọng thầy nên Thượng Sĩ không dám gọi tên mà
chỉ gọi hiệu của Tinh xá.
“Gió nước gặp nhau sóng dấy lên.” Gió, nước là phong đại và thủy đại, hai
đại đó mà không hòa thì chống nhau làm dấy động khiến cho thân sanh ra
bệnh hoạn. Khi nào thân chúng ta khỏe mạnh thì lúc đó bốn đại hòa thuận.
Lúc nào gió mạnh nước yếu thì nghe trong mình ê ẩm nhức nhối khó chịu.
“Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.” Lửa và cây gặp nhau thì lửa bùng cháy.
Cây thuộc về đất là địa đại, lửa là hỏa đại. Hai đại đó bất hòa thì làm
cho lửa trong người của chúng ta tăng thêm. Khi nào trong người chúng ta
nóng, mà ăn uống những thứ nóng thì nó hừng hừng nổi nóng lên. Khi đó muốn
kiếm thứ gì mát uống vô cho hạ nhiệt xuống. Như vậy đất nước gió lửa bốn
đại chống chọi nhau làm cho chúng ta sanh bệnh. Thượng Sĩ đi thăm bệnh nên
phải truy nguyên bệnh từ đâu ra? - Bệnh là do bốn đại bất hòa. Nếu gió
nhiều nước ít thì sanh ra đau nhức, lửa nhiều thì nóng hừng hực đỏ cả mặt
mày...
“Mới hay bốn đại không ranh giới. Núi kiếm mặc tình nương theo dòng.” Nếu
chúng ta nhìn cho tột cùng thì bốn đại vốn không có ranh giới. Thủy đại
giới hạn của nó ở đâu? Lâu nay hễ nói tới nước là chúng ta nghĩ nước chỉ ở
trong ao, hồ, sông, biển chớ đâu nghĩ trong hư không có nước. Nếu hư không
không nước thì làm gì có mưa? Như vậy thủy đại không có giới hạn, nước
không chỉ có ở ao, hồ, sông, biển... mà nước còn ở trong hư không. Lửa
cũng không có giới hạn, nếu đủ duyên thì nó xẹt ra, gió cũng vậy đủ duyên
thì gió nổi lên. Còn đất? Lâu nay chúng ta cứ tưởng cái gì cứng ở trên quả
địa cầu này là đất, chớ đâu nghĩ rằng trong hư không cũng có đất. Mỗi sáng
mặt trời vừa lên tia nắng rọi qua cửa sổ, chúng ta thấy bụi bay lăng xăng
đầy trong hư không. Vậy, bụi cũng là đất; đất cứng chúng ta đạp dưới chân
và đất nhỏ thành bụi bay trong hư không không có giới hạn. Đất nước gió
lửa không giới hạn, khi nó hợp lại thành thân này thì thân này đâu có
thường còn. Và thân này bại hoại đâu phải là mất, nó luôn luôn mênh mông
cùng khắp. Biết được như vậy thì “núi kiếm mặc tình men theo dòng”. Chữ
“núi kiếm” dịch từ chữ “Kiếm Các” là tên dãy núi ở huyện Kiếm Các tỉnh Tứ
Xuyên bên Trung Hoa, còn gọi là Đại Kiếm Sơn và Tiểu Kiếm Sơn, vì núi có
nhiều đá bén nhọn nên gọi là núi kiếm. Ở đây dùng chữ núi kiếm hàm ý diễn
tả những cảnh hiểm nguy trong địa ngục, như ngục tốt bắt trèo lên cây có
đao nhọn, leo lên núi có kiếm bén làm cho thân người tội phải tan nát. Khi
biết rõ thân này do bốn đại hợp thành, bốn đại không giới hạn ở trong thân
mà trùm khắp. Thế thì thân mình là một bộ phận nhỏ của cái trùm khắp, khi
tan rã nó trở về bốn đại. Vậy thân này mất nhưng bốn đại không mất! Nói
chết mà có chết đâu! Sanh là bốn đại tạm hợp; hợp thì thấy có thân. Chết
là bốn đại tan; tan thì thấy như mất thân, nhưng bốn đại có mất bao giờ?
Vậy chúng ta còn sợ chết không? Nếu ai hiểu tường tận như vậy thì dù cho
đứng trước cảnh núi kiếm rừng đao nguy hiểm cũng không lo sợ. Chúng ta
thường sợ chết, sợ chết là sợ mất thân, mà thân là bốn đại; bốn đại nơi
thân tan rã hòa cùng bốn đại bên ngoài đầy khắp hư không; thân mất mà bốn
đại không mất thì sợ cái gì? Nếu bốn đại tan rã mất hết thì chúng ta tiếc
công mình nuôi dưỡng mấy chục năm bây giờ không còn. Sự thật nó không mất
vậy mà sợ chết, vô lý làm sao! Đây là chỗ mà chúng ta phải để ý cho kỹ!
Giá trị của người tu không phải ở ngoài hình thức làm việc này việc nọ, mà
phải tu cho giác ngộ, dùng trí tuệ quán sát tường tận bản chất của bốn
đại. Khi thấy được bản chất của bốn đại trùm khắp và không mất thì, đối
với sự còn mất của thân này không nghĩa lý gì hết, nên chúng ta không còn
sợ chết, sợ khổ. Thường khi thân này đau thì chúng ta sợ chết; vì đau rồi
tới chết. Nhưng chết không sợ vậy đau có sợ không? - Nếu nhớ đau là do bốn
đại bất hòa nó xô xát lẫn nhau không phải mình. Thấy vậy chỉ cười thôi!
Bây giờ tứ đại đang nóng chăng, đang lạnh chăng? Đó là tứ đại nóng tứ đại
lạnh chớ tôi đâu có nóng có lạnh; nóng lạnh là do bốn đại bất hòa!
Giả sử chúng ta là người lớn ngồi thấy mấy đứa nhỏ múa võ vật lộn với nhau
đứa này quật đứa kia ngã, đứa kia quật đứa nọ ngã, chúng ta chỉ cười thôi.
Bọn nó giỡn với nhau chớ đâu phải chúng ta. Thế nên chúng ta thản nhiên
cười trước cái thắng bại của chúng. Cũng vậy bốn đại bất hòa thì nó lộn
xộn, chớ tâm thể đâu có lộn xộn. Quí vị có thấy như vậy không? Hay khi
thân suy yếu cũng ảo não theo, bốn đại bất hòa sanh ra đau bệnh mình cũng
nhăn nhó theo? Có khi còn thối tâm Bồ-đề. Nghĩ: tu gì mà bệnh hoài về nhà
dưỡng cho khỏe, có người thân lo lắng chu đáo hơn ở chùa! Bệnh quá tu
không được v.v... Song, quí vị không phải là con nít, sao thấy chúng giỡn
chơi đứa này đuổi đứa kia té, lại nhăn nhó khổ sở theo nó làm gì? Như vậy
quí vị đồng hóa mình là mấy đứa con nít rồi! Chúng ta phải là người lớn có
trí nhìn bọn con nít đùa, chớ không phải là con nít. Tóm lại người thấy
bốn đại không ranh giới thì, dù có núi kiếm rừng đao cũng mặc tình leo lên
chơi không sợ sệt gì cả, đó mới là người thật hiểu đạo.
* |