THI CA (tt)
Dịch: LỄ
THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Hằng xa phong thái,
Ở chốn hoang thôn.
Thân tuy ngoài cõi Sâm với Thương
Ý vẫn trong gương loan và phượng.
Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh
Hầu đáp ơn thầy mớm sữa.
Trộm có lời thơ tụng
Cúi dâng lên pháp tòa:
Thân tuy quê kịch ngụ nơi này
Bốn trọng ân nào dám lãng khuây.
Ý
vụng sớm nhờ thêm ý khí
Lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.
Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở
Gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.
Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết
Không dây nay thỉnh dạo cung đàn.
Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền
Tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.
Huệ Khả thân buồn, da tủy ký
Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.
Nên biết thế gian người có Phật
Lạ gì lò lửa nở hoa sen.
Trân trọng dâng lên lời tụng hứng
Chớ từ chút ít lễ vật hèn.
Giảng:
Thượng Sĩ tuy ngộ lý Thiền, sống tự do tự tại, không còn kiến chấp hai
bên, nhưng với tinh thần của người học đạo, Ngài không bao giờ lơ là bổn
phận của người đệ tử đối với thầy.
“Hằng xa phong thái, ở chốn hoang thôn.” Thượng Sĩ nói về phong cách và
thái độ của Thiền sư Tiêu Dao thầy của Ngài. Ngài thường ở xa không được
thân cận với thầy Ngài, vì thầy Ngài ở trong thôn vắng.
“Thân tuy ngoài cõi Sâm với Thương, ý vẫn trong gương loan và phượng.” Sao
Sâm thì ở phương tây, sao Thương thì ở phương đông, hai sao này không bao
giờ gặp nhau. Ý nói thân Ngài tuy xa cách ít được gặp thầy Ngài như sao
Sâm và sao Thương, nhưng tâm của Ngài lúc nào cũng kề cận thầy, như nhìn
vào gương thấy chim loan và chim phượng luôn luôn quấn quít bên nhau không
xa cách. Ý hai câu này nói đạo tình của Thượng Sĩ đối với thầy của Ngài là
Thiền sư Tiêu Dao. Thân Ngài tuy xa cách không được gặp thầy, nhưng tâm
hồn Ngài lúc nào cũng hướng về thầy ở bên cạnh thầy.
“Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh, hầu đáp ơn thầy mớm sữa.” Giờ đây muốn đền ơn
pháp nhũ của thầy thì trò phải ngâm khúc vô sanh cho mọi người thưởng
thức. Ngài là một cư sĩ mà có ý nghĩ rất hợp với đạo lý của người xuất
gia. Đức Phật dạy chúng ta muốn đền ơn Phật thì phải giáo hóa chúng sanh.
Bản nhạc vô sanh là bản nhạc giải thoát sanh tử. Người học trò học được
rồi, phải ngâm cho người khác nghe, tức là đem giáo lý giải thoát sanh tử
dạy cho mọi người được học và tu, đó là đền đáp ơn thầy đã giáo dưỡng
mình. Như vậy, dù là tại gia hay xuất gia, một khi đã thừa hưởng lời chỉ
dạy của bậc thầy, được lợi ích cho bản thân, được an nhàn tự tại, chúng ta
phải đem ra chỉ dạy cho người khác cũng được lợi ích như mình. Đừng nghĩ
rằng chúng ta mang ơn thầy phải làm sao cho có nhiều tiền để cúng dường
thầy, có chùa to để thầy an dưỡng v.v... Đó chỉ là hình thức không quan
trọng bằng đem pháp vô sanh mà hướng dẫn chỉ dạy cho người. Qua hai câu
này chúng ta nắm vững được phương cách đền ơn thầy và đền ơn Phật của
người xuất gia cũng như tại gia tu giải thoát.
“Trộm có lời thơ tụng, cúi dâng lên pháp tòa.” Thượng Sĩ mạn phép làm thơ
tụng dâng lên thầy, tỏ chút lòng biết ơn giáo hóa của thầy. Nhờ sự giáo
hóa của thầy mà Ngài được lợi ích.
“Thân tuy quê kịch ngụ nơi này, bốn trọng ân nào dám lãng khuây.” Thượng
Sĩ tự nhận mình là người quê mùa ở thôn hoang vắng. Mặc dù quê, nhưng phần
đạo đức ơn nghĩa Ngài không dám lơ là; bốn ơn: ơn cha mẹ, ơn Thầy Tổ hay
ơn Tam Bảo, ơn đàn-na thí chủ, ơn quốc gia xã hội, Ngài không dám lãng
quên. Những người lãnh đạo quốc gia xã hội là ân nhân của người tu, vì họ
có trách nhiệm giữ cho đất nước được thanh bình, để người tu được yên tu
nên cũng là một trọng ân. Trong bốn trọng ân Thượng Sĩ chỉ mang có ba ân
vì Ngài là cư sĩ không thọ ân đàn-na, nhưng Ngài luôn luôn không quên.
“Ý
vụng sớm nhờ thêm ý khí, lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.” Hai câu này
thấm thía làm sao! Thượng Sĩ nói Thượng Sĩ dốt nát khờ khạo, nhờ Thiền sư
Tiêu Dao thầy của Ngài giúp cho tăng trưởng ý chí để tiến đạo. Hôm qua tôi
có nhắc, Tăng Ni tu ý chí phải vững mạnh, mới vượt qua những chướng ngại
thử thách trên đường tu. Bởi vì quí vị tu lâu ngày mệt mỏi ý chí cùn lụt,
nên tôi phải nhắc quí vị phấn phát nỗ lực mạnh lên. Đó là nhờ thầy nhắc
nhở thúc đẩy làm cho mình tăng trưởng ý chí thêm vững mạnh. Tuy tâm Thượng
Sĩ không còn những vọng niệm lăng xăng, những tình cảm nồng nhiệt bi lụy
như người thế tục, nhưng đối với Thầy Tổ Ngài riêng giữ tấc lòng son.
Người cư sĩ mà nói lên được điều này thật là hi hữu, đáng tôn quí. Ngài
nói lên được cái đạo tình cao cả giữa thầy trò. Người xuất gia chúng ta
nhiều khi tu lâu, lớn tuổi đạo có đệ tử, bận lo cho đệ tử nên quên mất bổn
phận làm trò! Còn Ngài thì nguội lạnh với thế tình mà đạo tình vẫn một tấm
lòng son sắt.
“Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở, gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.” Trước kia
còn vọng niệm nên xuân về hoa đào nở lòng Ngài cũng rộn rực. Giờ đây xuân
về hoa đào nở, lòng lặng rồi nên Ngài xem hoa một cách nhẹ nhàng, thấy hoa
nở chỉ cười thôi chớ lòng không rộn rực như thuở nào. Gió thổi tiếng trúc
chạm nhau cọt kẹt, chỉ nghe một cách hững hờ, không còn để tâm dính mắc
như thuở trước. Tâm hồn của Ngài bây giờ rất nhẹ nhàng thảnh thơi, đối
duyên xúc cảnh thấy nghe hay biết mà không bị dính mắc.
“Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết, không dây nay thỉnh dạo cung đàn.” Ngày
trước đến chùa thăm hỏi từ thầy cho tới các chú điệu, bây giờ không muốn
thăm hỏi từng người nữa, mà chỉ xin thầy dạo cho một cung đàn không dây.
Nghĩa là bây giờ không muốn thăm hỏi từng người, mà chỉ xin thầy dạy cho
giáo lý giải thoát không kẹt hai bên, không còn đối đãi, đó là dạo cung
đàn không dây.
“Tạm qua thăm hỏi cổ chùy Thiền, tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.” Cổ
chùy Thiền chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao thầy của Thượng Sĩ. Nhà Thiền ví
Thiền sư như cái chùy. Thuở xưa hay dùng từ ngữ mũi dùi ở trong đãy, mũi
dùi đó gọi là cổ chùy, dù cho có đãy bao bọc mà mũi dùi luôn cứng và nhọn,
nên lúc nào cũng ló đầu ra khỏi bọc, bao không nổi. Ý muốn nói rằng các vị
đạo cao đức trọng dù có ai cố ý che đậy, đức độ các ngài vẫn tỏa sáng,
không ai ngăn che giấu giếm nổi, giống như cây dùi để trong đãy mà vẫn ló
đầu ra. Thượng Sĩ ví thầy mình như cái chùy xưa và mong thầy luôn luôn
được khỏe mạnh sống lâu dài.
“Huệ Khả thân buồn da tủy ký, Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.” Thượng
Sĩ nói thầy mình giống như Tổ Huệ Khả “thân buồn da tủy ký” (buồn là thẹn,
chữ thẹn không hợp vận nên phải dùng chữ buồn). Nghĩa là Tổ Huệ Khả được
Tổ Bồ-đề-đạt-ma thọ ký: “ngươi được phần tủy của ta”. Thiền sư Tiêu Dao
thầy của Thượng Sĩ bấy giờ không được thọ ký như Tổ Huệ Khả, nên Ngài thấy
buồn. Xưa khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sắp tịch bảo đệ tử trình sở ngộ. Ngài Đạo
Phó thưa:
-
Theo chỗ thấy của con chẳng chấp văn tự chẳng lìa văn tự, đây là dụng của
đạo.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được phần da của ta.
Theo ngài Đạo Phó, dụng của đạo là không dính hai bên, vậy mà Tổ bảo là
chỉ thấy phần da. Chúng ta bây giờ chắc chỉ thấy được sợi lông của Tổ.
Ni
Tổng Trì ra thưa:
-
Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-nan thấy nước Phật A-súc, chỉ thấy một lần,
không còn thấy lại.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được phần thịt của ta.
Đoạn này Ni Tổng Trì dẫn đức Phật dạy Tôn giả A- nan về cõi Phật A-súc,
Tôn giả A-nan muốn thấy, nhưng không biết làm sao để thấy, đức Phật liền
vận dụng thần thông cho Tôn giả A-nan thấy. Sau đó đức Phật thâu thần
thông, Tôn giả A-nan hết thấy. Câu chuyện này ngầm ý nói người tu dụng
công miên mật, tâm thanh tịnh, lúc nào đó hốt nhiên nhận ra Thể chân thật
có sẵn nơi mình. Song, chỉ nhận ra một lần mà không hằng sống được, giống
như Tôn giả A-nan thấy cõi Phật A-súc chỉ có một lần. Ở trước ngài Đạo Phó
nói không chấp văn tự không lìa văn tự là việc bên ngoài, nên Tổ nói thấy
da của ta. Ni Tổng Trì nói thấy cái chân thật của mình mà chỉ thấy có một
lần, nên Tổ nói được phần thịt của ta, sâu hơn một chút.
Ngài Đạo Dục ra thưa:
-
Bốn đại vốn không năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể
được.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được phần xương của ta.
Đến ngài Huệ Khả bước ra đảnh lễ Tổ, rồi lui lại đứng yên lặng.
Tổ
bảo:
-
Ngươi được phần tủy của ta.
Tổ
truyền y bát cho ngài Huệ Khả.
Chỗ cuối cùng của đạo là chỗ không ngôn ngữ, vì còn ngôn ngữ là còn đối
đãi, nên ngài Huệ Khả không nói, chỉ xá, lui ra đứng khoanh tay. Chỗ ngôn
ngữ không diễn tả được là chỗ rốt ráo. Dễ quá! Nhưng, xin đừng bắt chước.
Nếu hôm nào quí vị lên trình sở ngộ với tôi, tôi hỏi, quí vị xá lui đứng
khoanh tay, sẽ bị tôi nạt: “Chú chưa được phần tủy đâu nghe!” Đó chỉ là
hành động bắt chước, chớ chưa thật ngộ. Thời nay người ta hay bắt chước mà
làm trật. Thượng Sĩ buồn vì Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài chưa được thọ ký
như Tổ Huệ Khả được Tổ Bồ-đề-đạt-ma thọ ký thấy phần tủy của Ngài. Nhớ ơn
thầy, Thượng Sĩ mong ước và chúc thầy mình sống lâu như Thiền sư Triệu
Châu sống đến một trăm hai mươi tuổi.
“Nên biết thế gian người có Phật, lạ gì lò lửa nở hoa sen.” Thượng Sĩ nhắc
cho mọi người biết, ở thế gian tất cả chúng ta ai cũng có sẵn ông Phật,
nên không lạ gì khi nghe Thiền sư nói trong lò lửa nở hoa sen. Lò lửa chỉ
cho thân vô thường, hoa sen chỉ cho tánh Phật có sẵn nơi mỗi người. Ngọn
lửa vô thường đốt cháy từng giờ từng phút. Tuy nhiên, trong thân vô thường
này có Tánh Phật chưa bao giờ bị vô thường chi phối, chẳng khác nào trong
lò lửa cháy hừng hừng mà có hoa sen nở tươi thắm. Biết rõ như vậy chúng ta
mới thấy được giá trị thật của người tu. Chúng ta tu là phải nhận ra cái
chân thật của mình đang bị vùi lấp phủ che, bởi những tướng vô thường sanh
diệt. Và, cũng là cốt lõi của nhà Thiền mà thầy dạy trò tu chủ yếu là phải
nhận ra ông Phật của chính mình, chớ không phải tìm ông Phật ở nơi nào
khác, Phật ở ngay trong cái thân vô thường giống như trong lò lửa nở hoa
sen vậy.
“Trân trọng dâng lên lời tụng hứng, chớ từ chút ít lễ vật hèn.” Thượng Sĩ
hứng làm bài tụng dâng lên cúng dường thầy và mong thầy không từ chối.
Thượng Sĩ là một cư sĩ mà lòng quí kính của Ngài đối với bậc thầy hết sức
thiết tha, biết rõ trọng trách của mình đối với bậc thầy, phải cúng dường
như thế nào mới là đền ơn thầy, phải tu như thế nào để khỏi phụ lòng thầy.
Đây là điều rất hiếm có ở nơi người cư sĩ. Thượng Sĩ còn biết rõ vì sao
mình mang ơn thầy. Vì thầy là người dạy mình tu, giúp cho mình thêm ý chí.
Sau cùng Thượng Sĩ khuyên mọi người tu, phải nhận ra nơi mình có sẵn tánh
Phật như trong lò lửa có hoa sen.
Dịch:
CẢNH VẬT PHƯỚC ĐƯỜNG
Phước Đường cảnh trí chính là đây
Nương ngọn gió thiền mát mẻ thay.
Dậu đổ tiêu sơ măng mọc ốm
Cổng sân tịch mịch rặng tùng gầy.
Chưa gặp thời lành, hiền thánh hiện
Khá vui thú quí ẩn rừng này.
Sớm muộn trời già khai Phật nhật
Cửa vào đào lý cợt xuân quang.
Giảng:
Thượng Sĩ làm thơ tả cảnh Tinh xá Phước Đường của Thiền sư Tiêu Dao thầy
Ngài.
“Phước Đường cảnh trí chính là đây, nương ngọn gió thiền mát mẻ thay.”
Ngài nói mọi người tới Tinh xá Phước Đường nghe thầy Ngài dạy thiền, ai
cũng được vui vẻ mát mẻ.
“Dậu đổ tiêu sơ măng mọc ốm, cổng sân tịch mịch rặng tùng gầy.” Đây tả
cảnh vật quanh Tinh xá Phước Đường, nào là rào xiêu, nào là măng mọc không
người cho phân, không người săn sóc nên nó gầy ốm. Từ cổng đi vào Tinh xá
chỉ có một rặng tùng gầy, sân thì cỏ cây mọc chằng chịt. Cảnh vật Tinh xá
Phước Đường thật vắng vẻ tiêu sơ, không có vẻ gì phồn thịnh. Tại sao vậy?
- Vì “chưa gặp thời lành hiền thánh hiện, khá vui thú quí ẩn rừng này”. Sở
dĩ cảnh vật Phước Đường tiêu sơ tịch mịch, vì chưa gặp thời nên hiền thánh
có đó mà còn ẩn chưa hiện. Thú quí ẩn trong rừng tiêu sơ tịch mịch, ngầm
chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao đang ẩn ở chốn này chưa gặp thời mở mang truyền
bá.
“Sớm muộn trời già khai Phật nhật, cửa vào đào lý cợt xuân quang.” Thượng
Sĩ ước mơ thời cơ xoay chuyển mặt trời Phật bừng sáng. Chừng đó cảnh Phước
Đường sẽ có đào nở hoa, lý có trái, đùa cợt với ánh sáng mùa xuân. Thiền
sư Tiêu Dao thầy Ngài, một ngày nào đó sẽ mở mang truyền bá Thiền, mọi
người thấm nhuần lý Thiền trở thành người giác ngộ sáng suốt.
Dịch:
TẶNG PHÁP SƯ THUẦN NHẤT
Pháp thân tịch diệt, sắc thân còn
Đêm lặng canh ba vào mộng hồn.
Ví chửa rong chơi Thiền Tổ Vực
Cũng từng qua lại Pháp vương môn.
Vô sanh đường Thánh lười tiến bước
Hữu lậu trời người cam kết tròn.
Nếu gặp tác gia bàn diệu chỉ
Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn.
Giảng:
“Pháp thân tịch diệt, sắc thân còn, đêm lặng canh ba vào mộng hồn.” Pháp
thân thì tịch diệt lặng lẽ, sắc thân do tứ đại duyên hợp tạm có và hóa
thân thì ý thức đang dạo nơi này nơi kia. Đó là ba thân: pháp thân, báo
thân và hóa thân.
“Vì chửa rong chơi Thiền Tổ Vực, cũng từng qua lại Pháp vương môn.” Thượng
Sĩ nói ngài Thuần Nhất là một vị Pháp sư đã từng học giáo lý ở các trường,
hay trong những pháp hội giảng pháp. Tuy Ngài thông giáo lý, nhưng chưa
thâm nhập lý Thiền, nên nói chửa rong chơi Thiền Tổ Vực mà từng qua lại
Pháp Vương môn.
“Vô sanh đường Thánh lười tiến bước, hữu lậu trời người cam kết tròn.”
Lười đi trên đường vô sanh của Thánh Hiền, mải ở trong cõi trời cõi người
sanh tới sanh lui. Hai câu này trớ trêu, ngầm ý nói mỉa mai Pháp sư Thuần
Nhất. Tuy Pháp sư giảng kinh hay nhưng chưa sống được với thể bất sanh bất
diệt, đối với đường vô sanh không chịu tiến bước, thì bảo đảm sẽ đi mãi
trong đường sanh tử luân hồi ở cõi trời cõi người.
“Nếu gặp tác gia bàn diệu chỉ, Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn.” Tác gia là
chỉ cho những bậc tu hành đã ngộ đạo. Nếu gặp những vị ấy bàn diệu chỉ
Thiền thì Pháp sư sẽ bí, giống như trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn. Nghĩa
là tâm còn lăng xăng chạy hết chỗ này tới chỗ kia chớ chưa im bặt. Ý này
Thượng Sĩ dẫn từ câu chuyện:
Một hôm có Đại Nhĩ Tam Tạng người Ấn Độ sang Trung Hoa nhằm đời Đường,
xưng là đã được ngũ thông, vua muốn trắc nghiệm nên mời ông ra mắt Quốc sư
Huệ Trung. Vừa đến thấy Quốc sư ông khoanh tay đứng hầu bên hữu.
Quốc sư hỏi:
-
Ông được tha tâm thông chăng?
Tam Tạng đáp:
-
Chẳng dám.
Quốc sư hỏi:
-
Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào?
Tam Tạng đáp:
-
Hòa thượng là thầy của một nước sao lại đến Tây Xuyên xem đò đua.
Quốc sư hỏi:
-
Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào?
Tam Tạng đáp:
-
Hòa thượng là thầy một nước sao lại đứng trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn.
Lần thứ ba Sư cũng hỏi như trước, Tam Tạng lặng thinh không biết Ngài ở
chỗ nào!
Thượng Sĩ nói “Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn” ngầm nhắc Pháp sư Thuần Nhất:
ông thông hiểu giáo lý, mà chưa ngộ được lý Thiền thì tâm ông vẫn lăng
xăng, chưa đến chỗ vô tâm. Bài thơ này tặng Pháp sư mà cũng muốn nhắc khéo
người có học mà thiếu tu.
Dịch: ĐÙA THIỀN SƯ TRÍ VIỄN XEM KINH GIẢI NGHĨA
Mực mồi thơm ngát, bút làm cần
Biển học sóng đùa, lý là thuyền.
Khen ngợi Viễn Công từng câu thả
Rồng to bắt được, phải năm lừa.
Giảng:
“Mực mồi thơm ngát, bút làm cần, biển học sóng đùa, lý là thuyền.” Thượng
Sĩ nói Thiền sư Trí Viễn dùng bút mực để giải thích kinh điển, giống như
dùng thuyền câu đi trong biển giáo lý, thả mồi bằng mực cần bằng bút để
giải thích giáo lý của Phật.
“Khen ngợi Viễn Công từng câu thả, rồng to bắt được phải năm lừa.” Thượng
Sĩ khen Viễn Công từng thả câu, câu rồng to ở dưới biển. Nhưng mà ngày bắt
được rồng, còn xa thăm thẳm, đến năm con lừa mới bắt được. Trong mười hai
con giáp, không có con giáp nào là lừa cả. Như vậy, Trí Viễn câu suốt đời
cũng không bắt được rồng. Ý Thượng Sĩ nói Trí Viễn thông hiểu kinh Phật,
dùng bút mực để giải thích giáo nghĩa. Tuy vậy, suốt đời vẫn không thấu
suốt lý Thiền thâm sâu, giống như người muốn thả mồi câu rồng to ở dưới
biển, suốt đời vẫn không câu được.
Dịch:
ĐIỆU TIÊN SƯ
Một khúc vô sanh hát vừa im
Vác ngang cây gậy về cố hương.
Đầu trên qua khỏi nơi nào có
Trâu đất tha hồ cỡi ngược lên.
Giảng:
“Điệu” là truy điệu, tức là nói lên công hạnh của người đã mất. Điệu Tiên
Sư là nhắc đến công hạnh của thầy sau khi tịch.
“Một khúc vô sanh hát vừa im.” Thầy không còn hát khúc vô sanh, tức là
thầy đã tịch rồi, không còn giáo hóa nữa. Vậy thầy đi đâu? “Vác ngang cây
gậy về cố hương.” Câu này Thượng Sĩ dẫn câu chuyện đi ở tự tại, của một vị
đệ tử tông Vân Môn là Am chủ Tường ở Liên Hoa Phong. Khi sắp tịch Ngài cầm
cây gậy để ngang vai nói “vai vác cây gậy tức lật chẳng đoái đến người, đi
thẳng vào ngàn đảnh núi muôn đảnh núi”. Nói xong Ngài tịch. Người xưa ra
đi rất là tự tại, muốn tịch thì tịch, ngồi nằm đi đứng gì cũng được. Bây
giờ hỏi thầy đi đâu? - Trả lời: Thầy cũng giống như Am chủ Tường vác cây
gậy đi qua ngàn núi muôn núi, chớ không dừng ở nơi nào. “Đầu trên qua khỏi
nơi nào có, trâu đất tha hồ cỡi ngược lên.” “Nơi nào có” nguyên chữ Hán là
“hà hữu hương”. Ở đoạn trước Ngài nói chỗ cuối cùng là đạt đạo hay giải
thoát sanh tử. Chỗ đó là chỗ tha hồ cỡi ngược con trâu đất, chỗ đó là chỗ
rốt ráo. Thầy của Thượng Sĩ đi về chỗ tột cùng của đạo, Ngài có diệu dụng
không lường nổi. Đó là lời tán thán của Thượng Sĩ đối với Thiền sư Phước
Đường thầy Ngài.
Dịch:
KHUYÊN ĐỜI VÀO ĐẠO
Thời tiết xoay vần xuân lại thu
Xăm xăm tuổi trẻ đã bạc đầu.
Giàu sang nhìn lại một trường mộng
Năm tháng ôm suông muôn hộc sầu.
Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh
Sông yêu chìm nổi tợ bọt chùm.
Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi
Muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi.
Giảng:
Khuyên đời vào đạo là khuyên người đời nên bước vào đường đạo để tu hành,
chớ để qua luống uổng một đời.
“Thời tiết xoay vần xuân đến thu, xăm xăm tuổi trẻ đã bạc đầu.” Thời tiết
xoay vần hết xuân rồi tới hạ, hết thu rồi tới đông. Thời tiết cứ đi qua
đều đều, con người thì từ đầu xanh trở thành đầu bạc, vì nó biến chuyển
theo sự xoay vần của năm tháng, chúng ta nhìn lại đầu của mình mới năm nào
tóc còn đen mướt, bây giờ đã hoa râm bạc trắng. Như vậy thời tiết tháng
năm luôn luôn xoay vần biến chuyển, kiếp người cũng chịu ảnh hưởng của sự
biến chuyển vô thường ấy, nên thân từ trẻ biến thành già chớ không trẻ
mãi. Đa số chúng ta đều có bệnh mâu thuẫn, mong cho ngày tháng qua mau mà
không muốn mình già. Công nhân đi làm sở thì muốn cho mau tới cuối tháng
để lãnh lương, trông mau tới dịp hè để được nghỉ, nhưng quên rằng mỗi lần
lãnh lương thì cái đầu mình sẽ điểm thêm vài sợi tóc bạc, lãnh lương nhiều
chừng nào thì đầu mình bạc nhiều chừng nấy. Muốn cho ngày tháng qua nhanh
mà muốn thân mình trẻ mãi, vậy có mâu thuẫn không? Muốn ngày tháng qua
nhanh thì phải chấp nhận thân mình mau già, đầu mình mau bạc!
“Giàu sang nhìn lại một trường mộng, năm tháng ôm suông muôn hộc sầu.”
Biết bao kẻ phú quí sống đời sang cả, nhưng trải qua những cuộc bể dâu
thăng trầm, giờ đây còn đâu, còn chăng chỉ là một giấc mộng. Vì vậy mà
“năm tháng ôm suông muôn hộc sầu”. Mỗi năm qua mỗi tháng qua, nào buồn
thương giận ghét dồn đầy cả bụng. Sống càng nhiều tháng nhiều năm chừng
nào thì phiền não chồng chất nhiều chừng nấy, cho nên nói muôn hộc sầu.
Chẳng biết người tu có chất thêm những hộc sầu không, chớ người đời khó
tránh. Bởi vì nay gặp việc bất như ý này, mai gặp việc bất như ý kia, cứ
ôm ấp mà không chịu buông xả, nên buồn thương giận ghét tăng thêm thành
muôn hộc. Như vậy cuộc đời như giấc mộng mà lòng thì chất chứa cả muôn hộc
phiền não, rất đáng thương.
“Nẻo khổ luân hồi xe chuyển bánh, sông yêu chìm nổi tợ bọt chùm.” Nếu ôm
ấp phiền não thì nhất định sẽ trôi lăn vào nẻo khổ luân hồi, vì động cơ
đưa con người tái sanh trong lục đạo là những niệm phiền não lăng xăng.
Phiền não chứa đầy cả kho cả hộc thì nhất định sẽ lôi đi trong luân hồi
không thể tránh. Thế mà người đời không biết dừng, cứ yêu thương, giận
ghét v.v... Nếu yêu thương giận ghét thì phải chìm nổi trong dòng sông ái
dục. Vì cái nhân sanh ra phiền não đều từ yêu ghét; nếu còn ôm lòng yêu
ghét thì sự chìm nổi ở biển khổ không bao giờ hết, giống như chùm bọt nước
tụ tan mãi trên dòng sông trên mặt biển không biết bao giờ cùng.
“Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi, muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi.” Gặp
cơ hội tốt mà chúng ta không chịu nắm bắt, dù cho có duyên lành muôn kiếp
cũng chỉ có thế thôi, không tiến được. Ở đây tôi nhắc quí vị, được cơ hội
nghe kinh học đạo, mà không chịu nắm ngay cơ hội đó để tiến tu, cứ thả
trôi cũng như gặp trường mà chẳng chịu sờ lên mũi. Nhà Thiền thường nói
lên lẽ thật: lỗ mũi lúc nào cũng ở trước mặt mình không bao giờ thiếu
vắng, hơi thở là sanh mạng của chính mình. Lỗ mũi là chỗ phát ra hơi thở,
cho nên dụ lỗ mũi là sanh mạng sẵn ở trước mặt mình. Vậy mà chúng ta không
nhớ cái mũi và hơi thở, cứ mãi lo chuyện này chuyện kia, mà quên mất cái ở
trước mặt mình. Cũng vậy, tâm thể chân thật sẵn có nơi mỗi người chúng ta
giống như cái lỗ mũi lúc nào cũng ở trước mặt. Bây giờ có cơ hội tốt nghe
kinh học đạo tu để trở về với cái chân thật, thế mà chúng ta lơ là bỏ qua
thì “muôn kiếp duyên lành chỉ thế thôi”. Vì gặp cơ hội tốt mà không chụp
ngay cái cơ hội đó, để tiến lên thì dù cho có duyên lành muôn đời vẫn
không được lợi ích. Hôm trước tôi đi ra nước ngoài gặp quí Phật tử họ
than: “Hồi ở trong nước chúng con thiếu duyên không gặp Thầy, không trực
tiếp nghe Thầy giảng để tu. Bây giờ ra nước ngoài nghe những lời Thầy
giảng trong băng, chúng con hối tiếc sao lúc đó mình không đi tìm Thầy để
học đạo, bây giờ mới học quá muộn màng...” Quí vị ở đây đủ duyên được quí
thầy giảng dạy hướng dẫn trực tiếp cho tu học thì đừng bỏ qua cơ hội tốt,
sau tìm lại rất là khó!
Đây là bài thơ nhắc nhở người còn mắc kẹt ở ngoài đời, phải mau bước vào
con đường đạo để tu học chớ đừng lơ là, duyên lành qua mất, muôn kiếp
không được lợi ích.
Dịch: BẢO
CHÚNG
Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê
Thể tánh sáng ngời chửa từng mê.
Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn
Gió trời thổi mát thấp cao chê.
Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc
Sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.
Diệu khúc xưa nay cần cứ hát
Chớ tìm nam bắc với đông tê.
Giảng:
Bài này Thượng Sĩ nhắc nhở chúng ta tu, nên gọi là Bảo Chúng. Chúng ở đây
gồm có hai hạng xuất gia và tại gia, là những người đến học với Ngài. Ngài
khuyên rằng: “Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê, thể tánh sáng ngời chửa
từng mê.” Thượng Sĩ khuyên chúng ta muốn tu muốn đạt được đạo, không phải
tìm tới Thiếu Lâm chỗ Tổ Bồ-đề-đạt-ma ở, hay phải tìm tới Tào Khê chỗ Lục
tổ Huệ Năng trụ xứ giáo hóa mới tu được. Vì hai nơi đó tuy là chỗ của Sơ
Tổ và Lục Tổ nhưng nó là cảnh tướng, có chỗ nơi không phải là gốc của sự
giác ngộ. Gốc của sự giác ngộ là “thể tánh sáng ngời chửa từng mê”. Mỗi
chúng ta ai cũng có thể tánh sáng suốt lúc nào cũng hiện tiền chưa từng bị
mê, vậy mà chúng ta không nhận ra. Sở dĩ chúng ta không nhận ra thể tánh
sáng suốt của chính mình là, tại những vọng niệm lăng xăng tiếp nối lôi
kéo chúng ta cứ chạy theo nó, mà quên mất thể tánh sáng suốt của mình. Như
vậy muốn được giác ngộ không phải tới Tào Khê hay Thiếu Thất, mà phải khéo
buông bỏ những vọng niệm lăng xăng nơi tâm mình thì thể tánh sáng ngời
hiện tiền, chớ không tìm kiếm đâu xa.
“Trăng cổ chiếu soi nào cận viễn, gió trời thổi mát thấp cao chê.” Mặt
trăng xưa chiếu ánh sáng xuống mọi vật một cách đầy đủ và bình đẳng, không
câu nệ xa gần. Và, gió từ phương trời thổi lại, nó không chê chỗ thấp chọn
chỗ cao, cao thấp nó đều thổi bình đẳng. Tuy nhiên, chỗ khuất lấp thì gió
thổi tạt lên chỗ cao, đó là tại chỗ nơi chớ không phải tại gió lựa chọn.
Đó là hai hình ảnh trăng cổ gió trời không phân biệt xa gần cao thấp.
“Ánh thu đen trắng tùy duyên sắc, sen nở thơm hồng bùn chẳng hề.” Bầu trời
mùa thu có ánh trăng sáng trong, nhưng ánh sáng ấy không nhất định màu
vàng, màu xanh hay màu trắng, mà tùy duyên. Nếu cảnh vật trắng thì nó hiện
sắc trắng. Cảnh vật xanh nó hiện sắc xanh, đỏ thì nó hiện sắc đỏ. Ánh sáng
vàng, xanh v.v... là tại những hình sắc bên ngoài: Như ánh sáng đang chiếu
mà chúng ta để hạt lưu ly ở trên miếng giấy đỏ thì thấy ánh sáng màu đỏ,
để trên miếng giấy xanh thấy ánh sáng màu xanh v.v... Như vậy phản ảnh màu
này màu nọ là tại màu sắc chớ ánh sáng không có màu này màu nọ. Và, hoa
sen nở ra từ dưới bùn mà nó không hề bị bùn làm cho hôi hám. Đó là những
hình ảnh trăng cổ, gió trời, ánh sáng mùa thu, hoa sen nở, tất cả những
thứ đó đều không có phân biệt so sánh gần xa, cao thấp, trắng đen và thơm
hôi. Nghĩa là nó không bị sự so sánh làm cho mất đi tính chất bình đẳng.
Thượng Sĩ mượn cái bình đẳng để nói lên thể sáng ngời của chúng ta nó cũng
không phân biệt xa gần, cao thấp, trắng đen hay thơm hôi. Sở dĩ có những
cái phân biệt đó là do tùy duyên bên ngoài như thế nào thấy như thế ấy. Ý
Thượng Sĩ nói: nơi mọi người chúng ta có sẵn cái thể tánh bình đẳng trong
sáng, chưa bao giờ có niệm phân biệt so sánh. Nếu khởi niệm phân biệt so
sánh là thiếu bình đẳng tự nhiên.
“Diệu khúc xưa nay cần cứ hát, chớ tìm nam bắc với đông tê.” Diệu khúc là
bản nhạc nhiệm mầu có sẵn từ xưa tới nay, nếu cần thì cứ hát, chớ đừng tìm
tới phương nam, phương tây, phương bắc. Theo Thượng Sĩ bản nhạc nhiệm mầu
này chỉ cho thể tánh sáng ngời hằng hữu nơi mỗi chúng ta. Cứ sống với thể
tánh ấy đừng chạy nơi này nơi nọ tìm kiếm vô ích.
Bài thơ này Thượng Sĩ dạy chúng ta, là người học đạo muốn sáng được đạo
thì phải nhận nơi mình có thể tánh sáng suốt bình đẳng, không bị cái so
sánh phân biệt che lấp. Nó đã có sẵn cứ ngay đó mà sống, đừng tìm kiếm phí
công.
Vậy quí vị đã hát được bản nhạc nhiệm mầu mà Thượng Sĩ nói chưa, hay chỉ
hát những bài ca thế tục? Những bản nhạc thế tục thì dễ nhớ, còn diệu khúc
này thì mau quên! Tại chúng ta chạy theo sáu trần mà quên nó chớ nó đâu có
mất.
Tóm lại, bài này Thượng Sĩ khuyên người tu Phật, phải trực nhận nơi mình
có sẵn cái thể tánh sáng suốt không bao giờ mê mờ, tại chúng ta chạy theo
vọng tưởng quên nó mà thôi. Biết rồi thì đừng thắc mắc rằng mình ở đây tu
lâu ngộ, phải tới Thiếu Lâm hay Tào Khê tu mới mau ngộ. Đừng có khao khát
ước mơ tìm kiếm đâu xa, mà phải quay lại nơi mình nhận ra tánh sáng suốt
của mình và hằng sống với nó. Nếu khởi niệm phân biệt so sánh thì thể tánh
sáng suốt bị che khuất, Thượng Sĩ muốn cụ thể hóa cho nên nói bản nhạc xưa
có sẵn, muốn hát lúc nào thì hát, đừng tìm kiếm ở đâu xa. Đó là lời nhắc
nhở của Thượng Sĩ, ai là người học đạo phải mau hiểu lấy.
* |