LỜI BẠT
Dịch:
Thượng Sĩ là ngọn đèn của Phật Hoàng, lấy tâm truyền tâm.
Đức Phật bỏ ngôi vị vương giả, đến ngồi dưới cội bồ-đề thành Chánh giác,
diễn nói thừa vô thượng, độ vô lượng chúng sanh, làm thầy trời người,
người xưa thật được khai ngộ.
Thượng Sĩ làm Bồ-tát tại gia, chấn hưng gia phong của Phật, đề khởi câu
nói, dẫn dắt người hậu học, được ánh sáng siêu việt, Phật Hoàng thật được
thành tựu chỗ này. Noi theo Phật Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký
thành Đẳng Chánh Giác, Phật Hoàng lấy đây ghi thành quyển Lục. Bác Lăng
Vương hỏi Thiền sư Dung đến chỗ cứu kính, Thượng Sĩ lấy đó làm chỗ tựa.
Bởi vì tâm Phật Hoàng khởi từ cảnh giới Phật Tổ; lời của Thượng Sĩ cùng
tột nguồn tâm tánh. Song Thượng Sĩ không thể làm thành đại báo cho Phật
Hoàng, Phật Hoàng cũng không thể lên được chỗ uẩn tích của Thượng Sĩ, mà
hay khiến người tối được sáng, kẻ điếc được nghe. Đây là sự trợ lực lớn
lao cho Phật giáo vậy.
Một hôm Phật Hoàng sai người mang quyển Lục này đến, bảo rằng: “Duy trì
Phật pháp là nhiệm vụ của Quốc vương Đại thần, hãy viết riêng lời tựa và
khắc bản in, để cho sự truyền bá được sáng tỏ.” Nay Thượng hoàng đế (Trần
Anh Tông) sai thần Trần Khắc Chung làm lời bạt ở sau, tức là noi theo vầng
ngân hán chói lọi ở trước. Thần Trần Khắc Chung bái nhận quyển Lục này,
thắp hương kính đọc. Mới đầu như say, kế đó như tỉnh, rốt sau tâm mắt sáng
rỡ, không tự biết vì sao mà được vậy.
Thần kính cẩn
đặt bút viết lời bạt.
TRẦN KHẮC
CHUNG
Giảng:
“Thượng Sĩ là ngọn đèn của Phật Hoàng lấy tâm truyền tâm.” Phật Hoàng là
chỉ cho Trúc Lâm Đại Đầu-đà hay vua Trần Nhân Tông. Đây là niềm hãnh diện
lớn lao của Phật tử Việt Nam khi học đến lịch sử Phật giáo đời Trần. Ở Ấn
Độ đức Phật Thích-ca là vị Thái tử, không muốn làm vua, bỏ ngai vàng đi
tu, thành đạo, đi giáo hóa khắp nơi được mọi người từ vua quan cho đến thứ
dân đều kính trọng. Còn ở Việt Nam vua Trần Nhân Tông đang ở ngôi vua mà
học đạo và ngộ đạo rồi nhường ngôi lại cho con để đi tu. Ngộ đạo là giác,
nên gọi là Phật, vua gọi là Hoàng, Phật Hoàng là Vua Phật. Ở Ấn Độ thì
Thái tử tu thành Phật, ở Việt Nam thì ông vua tu giác ngộ, nhưng không
xưng danh Phật, chỉ xưng là Trúc Lâm Đại Đầu-đà. Song, người đương thời
quá kính trọng, nên gọi Ngài là Phật Hoàng. Trần Khắc Chung nói Thượng Sĩ
là ngọn đèn của Phật Hoàng. Như vậy, Thượng Sĩ là người cầm đèn rọi đường
cho vua Trần Nhân Tông học đạo, ngộ đạo và Ngài đã dùng tâm ấn tâm cho
Phật Hoàng.
“Đức Phật bỏ ngôi vị vương giả, đến ngồi dưới cội bồ-đề thành Chánh giác,
diễn nói thừa vô thượng, độ vô lượng chúng sanh, làm thầy trời người,
người xưa thật được khai ngộ.” Trần Khắc Chung dẫn chứng đức Phật từ một
ông hoàng bỏ ngôi vị, để đến dưới cội bồ-đề tu được thành Phật. Sau khi
thành Phật Ngài diễn nói những thừa Vô thượng để độ vô số chúng sanh, làm
thầy trời người và chúng sanh được giáo hóa khai ngộ rất nhiều.
“Thượng Sĩ làm Bồ-tát tại gia, chấn hưng gia phong của Phật, đề khởi câu
nói, dẫn dắt người hậu học, được ánh sáng siêu việt, Phật Hoàng thật được
thành tựu chỗ này.” Thượng Sĩ là một cư sĩ thọ Bồ- tát giới tu tại gia chớ
không cạo tóc xuất gia. Ngài đã làm cho gia phong của Phật được phát triển
mạnh mẽ và dùng những câu nói khéo làm phương tiện để hướng dẫn cho người
ngộ được lý Thiền. Vua Trần Nhân Tông cũng nương nơi sự giáo hóa của
Thượng Sĩ mà ngộ đạo. Đoạn này nêu lên công giáo hóa của Thượng Sĩ đối với
vua và với mọi người.
“Nói theo Phật Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký thành Đẳng Chánh Giác,
Phật Hoàng lấy đây ghi thành quyển Lục. Bác Lăng Vương hỏi Thiền sư Dung
đến chỗ cứu kính, Thượng Sĩ lấy đó làm chỗ tựa.” Vua Trần Nhân Tông noi
theo Phật Thích-ca được Phật Nhiên Đăng thọ ký ghi lời dạy của Thượng Sĩ
làm quyển Lục. Như vậy quyển Lục này là do vua Trần Nhân Tông ghi lại lời
của Thượng Sĩ dạy để cho đời sau đọc. Còn Thượng Sĩ thì lấy lời Bác Lăng
Vương hỏi Thiền sư Pháp Dung làm chỗ tựa để dạy người sau. Thiền sư Pháp
Dung ở núi Ngưu Đầu, Sư họ Vi, quê ở Duyên Lăng, Nhuận Châu. Năm mười chín
tuổi, Sư đã học thông kinh sử, tìm xem bộ Đại Bát-nhã hiểu thấu lý chân
không.
Một hôm, Sư tự than:
-
Đạo Nho sách đời, không phải pháp cứu kính. Bát-nhã chánh quán là thuyền
bè xuất thế. Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia học đạo.
Sau, Sư đến núi Ngưu Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía bắc chùa U
Thố. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng dường. Các loài thú dữ
quanh quẩn bên Sư không ngớt.
Khoảng niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627 - 650 T.L.) Tổ Đạo Tín nhân
thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhân đó, Sư được khai ngộ.
Từ
khi đắc pháp về sau, nơi pháp tịch của Sư đại thạnh. Khoảng niên hiệu Vĩnh
Huy đời Đường (650 - 656 T.L.) đồ chúng thiếu lương thực, Sư phải sang Đơn
Dương hóa duyên. Đơn Dương cách núi Ngưu Đầu đến tám mươi dặm. Sư đích
thân mang một thạch (tạ) tám đấu, sáng đi chiều về để cúng dường ba trăm
Tăng. Như vậy, mà ngót ba năm, Sư cung cấp không thiếu.
Quan Ấp Tể tên Tiêu Nguyên Thiện thỉnh Sư giảng kinh Bát-nhã tại chùa Kiến
Sơ. Thính giả vân tập. Sư giảng đến phẩm Diệt Tĩnh, đất chấn động.
Bác Lăng Vương hỏi Sư:
Khi cảnh duyên sắc phát,
Không nói duyên sắc khởi;
Làm sao biết được duyên,
Muốn dứt cái khởi ấy?
Sư
đáp:
Cảnh sắc khi mới khởi
Sắc cảnh tánh vẫn không.
Vốn không người biết duyên
Tâm lượng cùng tri đồng.
Soi gốc phát chẳng phát
Khi ấy khởi tự dứt.
Ôm tối sanh hiểu duyên
Khi duyên, tâm chẳng theo.
Chí như trước khi sanh
Sắc tâm không nuôi dưỡng.
Từ không vốn vô niệm
Tưởng thọ ngôn niệm sanh.
Khởi pháp chưa từng khởi
Đâu cầu Phật chỉ dạy.
Hỏi:
Nhắm mắt không thấy sắc
Cảnh lự lại thêm phiền.
Sắc đã chẳng quan tâm
Cảnh từ chỗ nào phát?
Sư
đáp:
Nhắm mắt không thấy sắc
Trong tâm động lự nhiều.
Huyễn thức giả thành dụng
Há gọi trọn không lỗi.
Biết sắc chẳng quan tâm
Tâm cũng chẳng quan người.
Tùy đi có tướng chuyển
Chim bay trông không thật.
Hỏi:
Cảnh phát không chỗ nơi
Duyên đó hiểu biết sanh.
Cảnh mất hiểu lại chuyển
Hiểu bèn biến làm cảnh.
Nếu dùng tâm kéo tâm
Lại thành biết bị biết.
Theo đó cùng nhau đi
Chẳng lìa mé sanh diệt?
Sư
đáp:
Tâm sắc trước sau giữa
Thật không cảnh duyên khởi.
Một niệm tự ngừng mất
Ai hay tính động tịnh.
Đây biết tự không biết
Biết, biết duyên chẳng hợp.
Nên tự kiểm bản hình
Đâu cầu tìm ngoại cảnh.
Cảnh trước không biến mất
Niệm sau chẳng hiện ra.
Tìm trăng chấp bóng huyền
Bàn dấu đuổi chim bay.
Muốn biết tâm bản tánh
Lại như xem trong mộng.
Ví đó băng tháng sáu
Nơi nơi đều giống nhau.
Trốn không trọn chẳng khỏi
Tìm không lại chẳng thành.
Thử hỏi bóng trong gương
Tâm từ chỗ nào sanh?
Hỏi:
Khi đều đặn dụng tâm,
Nếu là an ổn tốt?
Sư
đáp:
Khi đều đặn dụng tâm,
Đều đặn không tâm dụng.
Bàn quanh danh tướng nhọc,
Nói thẳng không mệt phiền.
Không tâm đều đặn dụng,
Thường dụng đều đặn không.
Nay nói chỗ không tâm,
Chẳng cùng có tâm khác.
Hỏi:
Người trí dẫn lời diệu
Cùng tâm phù hợp nhau.
Lời cùng tâm đường khác
Hiệp thì trái vô cùng?
Sư
đáp:
Phương tiện nói lời diệu,
Phá bệnh đạo đại thừa.
Bàn chẳng quan bản tánh
Lại từ không hóa tạo.
Vô niệm là chân thường
Trọn phải bặt đường tâm.
Lìa niệm tánh chẳng động,
Sanh diệt chẳng trái lầm.
Cốc hưởng đã có tiếng
Bóng gương hay ngó lại.
Niên hiệu Hiển Khánh năm đầu (656 T.L.) nhà Đường, Ấp Tể Tiêu Nguyên Thiện
thỉnh Sư xuống núi trụ trì chùa Kiến Sơ. Sư hết lời từ chối mà không được.
Bất đắc dĩ, Sư gọi đệ tử thượng thủ là Trí Nham truyền trao pháp ấn và dặn
dò tiếp nối truyền dạy tại núi này.
Sư
sắp xuống núi bảo chúng:
-
Ta không còn bước chân lại núi này.
Lúc đó chim thú kêu buồn gần suốt tháng không dừng. Trước am có bốn cây
ngô đồng, giữa tháng hè bỗng nhiên rụng lá.
Năm sau (657 T.L.) ngày hai mươi ba tháng giêng, Sư thị tịch tại chùa Kiến
Sơ, thọ sáu mươi bốn tuổi, tuổi hạ được bốn mươi mốt. Ngày hai mươi bảy
đưa quan tài lên núi Kê Long an táng, số người tiễn đưa hơn vạn.
Phái thiền của Sư truyền, sau này gọi là Ngưu Đầu Thiền, vì lấy tên núi mà
đặt tên. Số môn đồ khá đông, lưu truyền thạnh hành đến sáu đời mới dứt.
Đọc qua đoạn sử của ngài Pháp Dung, chúng ta thấy tinh thần quên mình vì
đạo của người xưa thật chúng ta không thể bì kịp. Vì nuôi Tăng chúng mà
Ngài phải đích thân đi quyên tởi nhọc nhằn. Tuệ Trung Thượng Sĩ không phải
chỉ học với Thiền sư Tiêu Dao, mà Ngài còn lấy lời dạy của Thiền sư Pháp
Dung để làm chỗ tựa. Ông Bác Lăng Vương hỏi Thiền sư Pháp Dung mười câu
Ngài trả lời mỗi câu bằng một bài kệ, câu hỏi dài bài kệ cũng dài nên ở
đây tôi chỉ trích và giải thích một số câu thôi.
Bác Lăng Vương hỏi:
Khi cảnh duyên sắc phát,
Không nói duyên sắc khởi.
Làm sao biết được duyên,
Muốn dứt cái khởi ấy?
Ý
hỏi rằng: Các hình sắc nương nơi cảnh mà phát ra, bây giờ không nói các
hình sắc đó từ nơi cảnh khởi, mà chỉ làm sao biết được duyên của nó và dứt
cái khởi của nó. Các sự vật ở thế gian này đều từ duyên mà khởi, từ duyên
mà thành. Như cái nhà từ các duyên như gạch, ngói, gỗ v.v... (cảnh) tạo
thành cái nhà (sắc). Như vậy duyên nơi cảnh mà tạo thành hình sắc đẹp xấu
v.v... Nhưng nếu không nói cái duyên sắc khởi, nói sự vật này không phải
tự nó duyên nơi cảnh, tức là những yếu tố tạo thành các hình sắc, làm sao
biết được cái duyên của nó, làm sao dứt được cái khởi của nó? Nói tóm lại
cho dễ hiểu là tất cả sự vật là do duyên hợp mà thành hình sắc, làm sao
biết được cái duyên của nó để dứt cái nguyên nhân tạo nên sự vật đó.
Thiền sư Pháp Dung trả lời:
Cảnh sắc khi mới khởi
Sắc cảnh tánh vẫn không.
Vốn không người biết duyên
Tâm lượng cùng tri đồng.
Soi gốc phát chẳng phát
Khi ấy khởi tự dứt.
Ôm tối sanh hiểu duyên,
Khi duyên, tâm chẳng theo.
Chí như trước khi sanh
Sắc tâm không nuôi dưỡng.
Từ không vốn vô niệm,
Tưởng thọ ngôn niệm sanh.
Khởi pháp chưa từng khởi,
Đâu cầu Phật chỉ dạy.
“Cảnh sắc khi mới khởi, sắc cảnh tánh vẫn không.” Cảnh là những nguyên
nhân những yếu tố hợp thành sắc. Ví dụ như gói gạch là cảnh, hợp thành cái
nhà là sắc, cả hai đều là tánh không. Tại sao vậy? Vì ngói gạch... cũng do
duyên hợp nên nói tánh không, cái nhà thì do các duyên ngói, gạch, xi măng
v.v... hợp lại, nên nói là tánh không. “Vốn không người biết duyên.” Nói
cái nhà và ngói, gạch đều không thật, do duyên hợp, vậy người biết cái nhà
có thật không? Con người cũng do duyên hợp, cho nên nói vốn không nguời
biết duyên. Cả ba đều là không thật nên “tâm lượng cùng tri đồng” nghĩa là
tâm lượng của mình cùng cái biết đồng. “Soi gốc phát chẳng phát, khi ấy
khởi tự dứt.” Nghĩa là nhìn lại tâm mình coi nó khởi hay không khởi, nhìn
thẳng như vậy thì tâm niệm dừng lại không khởi nữa. “Ôm tối sanh hiểu
duyên, khi duyên tâm chẳng theo, chí như trước khi sanh, sắc tâm không
nuôi dưỡng.” Ôm ấp cái tối tăm mờ mịt mà sanh cái hiểu biết thì khó mà
hiểu biết cho chính xác. Khi nào gặp duyên mà tâm mình không dính mắc, và
sống với cái tâm trước khi nó khởi niệm, tức là khi thấy sắc chỉ biết
mình có tánh thấy, không khởi niệm chạy theo sắc. “Từ không vốn vô niệm,
tưởng thọ ngôn niệm sanh, khởi pháp chưa từng khởi, đâu cầu Phật chỉ dạy.”
Nếu chúng ta biết các pháp vốn không tự tánh thì tâm không dấy động, sở dĩ
dấy động là tại tưởng tượng thọ nhận, rồi phát ra lời nói, do đó mà niệm
sanh, những niệm đó vốn trước chưa từng có, nếu biết rõ như vậy thì đâu
cần cầu xin Phật chỉ dạy làm gì.
Hỏi:
Nhắm mắt không thấy sắc,
Cảnh lự lại thêm phiền.
Sắc đã chẳng quan tâm,
Cảnh từ chỗ nào phát?
Như chúng ta ngồi thiền mắt ngó xuống, không thấy hình sắc bên ngoài mà
lúc đó tâm nghĩ tứ tung. Lẽ ra không thấy cảnh thì không nghĩ, sao lại
nghĩ nhiều? Khi đi ngó trời, mây, đồi thông, hồ nước thì không nghĩ, còn
khi ngồi nhắm mắt lại nghĩ nhiều. Lúc đó cảnh sắc bên ngoài mình không
thấy, vậy cảnh ở đâu mà hiện ra trong đầu mình hoài vậy? Câu hỏi này rất
thiết thực và rất gần với chúng ta.
Thiền sư Pháp Dung đáp:
Nhắm mắt không thấy sắc,
Trong tâm động lự nhiều.
Huyễn thức giả thành dụng,
Há gọi trọn không lỗi.
Biết sắc chẳng quan tâm,
Tâm cũng chẳng quan người.
Tùy đi có tướng chuyển,
Chim bay trông không thật.
“Nhắm mắt không thấy sắc, trong tâm động lự nhiều, huyễn thức giả thành
dụng, há gọi trọn không lỗi.” Trong lúc chúng ta ngồi thiền nhắm mắt không
nhìn cảnh, mà tâm có nhiều vọng lự có nhiều hình ảnh hiện ra, đó là do
huyễn thức giả thành những hình ảnh đó, như vậy là có lỗi rồi. “Biết sắc
chẳng quan tâm, tâm cũng chẳng quan người, tùy đi có tướng chuyển, chim
bay trông không thật.” Khi chúng ta ngồi thiền có những vọng niệm hình ảnh
dấy lên đừng có quan tâm, nó khởi mặc nó. Chúng ta không theo. Không theo
nó thì nó không dính dáng gì tới mình. Cũng như chúng ta bước đi, tùy theo
bước đi mà có tướng chuyển động, hai chân bước thì hai tự lay động để lấy
trớn gọi là chuyển động, nếu không chuyển động thì không đi được. Giống
như chim bay trong hư không chẳng để lại dấu vết. Thiền sư Pháp Dung trả
lời câu hỏi, tại sao khi ngồi yên ngó xuống lại có nhiều nghĩ ngợi lăng
xăng. Ngài nói cái nghĩ lăng xăng là huyễn thức, nếu chúng ta theo nó thì
có lỗi, nếu tâm không dính dáng thì không có lỗi lầm gì cả.
Hỏi:
Cảnh phát không chỗ nơi,
Duyên đó hiểu biết sanh.
Cảnh mất hiểu lại chuyển,
Hiểu bèn biến làm cảnh.
Nếu dùng tâm kéo tâm,
Lại thành biết bị biết.
Theo đó cùng nhau đi,
Chẳng lìa mé sanh diệt?
Bác Lăng Vương hỏi: Cảnh phát ra (cảnh này là cảnh trong tâm mình) không
có nơi chốn duyên nơi cảnh đó chúng ta có cái hiểu biết phân biệt. Nếu
cảnh lặng thì cái hiểu biết lại dời đổi biến thành cảnh. Ví dụ như cảnh
trong mộng, vậy cảnh trong mộng từ đâu ra? Cảnh trong mộng dấy lên không
có chỗ nơi. Nhưng khi tỉnh mộng chúng ta vẫn còn nhớ hình ảnh trong mộng,
nên ở đây nói “cảnh phát không chỗ nơi, duyên đó hiểu biết sanh, cảnh mất
hiểu lại chuyển, hiểu bèn biến làm cảnh, nếu dùng tâm kéo tâm, lại thành
biết bị biết”. Như chúng ta vừa dấy niệm liền khởi niệm diệt nó, gọi là
tâm kéo tâm và thành ra cái hay biết và cái bị biết đối đãi. “Theo đó cùng
nhau đi, chẳng lìa mé sanh diệt?” Tu như vậy là còn đi trong sanh diệt.
Thiền sư Pháp Dung nói:
Tâm sắc trước sau giữa,
Thật không cảnh duyên khởi.
Một niệm tự ngừng mất,
Ai hay tính động tịnh.
Đây biết tự không biết,
Biết, biết duyên chẳng hợp.
Nên tự kiểm bản hình,
Đâu cầu tìm ngoại cảnh.
Cảnh trước không biến mất,
Niệm sau chẳng hiện ra.
Tìm trăng chấp bóng huyền,
Bàn dấu đuổi chim bay.
Muốn biết tâm bản tánh,
Lại như xem trong mộng.
Ví đó băng tháng sáu,
Nơi nơi đều giống nhau.
Trốn không trọn chẳng khỏi,
Tìm không lại chẳng thành.
Thử hỏi bóng trong gương,
Tâm từ chỗ nào sanh?
“Tâm sắc trước sau giữa, thật không cảnh duyên khởi.” Tâm và sắc trong ba
thời quá khứ hiện tại vị lai đều không thật. “Một niệm lại ngừng mất, ai
hay tính động tịnh.” Niệm dấy lên rồi tự lặng đi thì cái động cái tịnh ai
mà biết được. “Đây biết tự không biết, biết biết duyên chẳng hợp.” Khi cái
động tịnh lặng rồi, cái biết này biết, mà không phải là cái biết của dấy
niệm chạy theo các duyên bên ngoài, nên nói biết biết duyên chẳng hợp.
“Nên tự kiểm bản hình, đâu cầu tìm ngoại cảnh.” Nên nhìn lại chính mình,
không nên đuổi theo cảnh bên ngoài. “Cảnh trước không biến mất, niệm sau
chẳng hiện ra.” Cảnh trước tự nó như vậy, niệm sau cũng không hiện, nghĩa
là chúng ta không phải quán cho cảnh mất, mà cảnh là cảnh tâm không dấy
động. “Tìm trăng chấp bóng huyền, bàn dấu đuổi chim bay.” Nếu chúng ta cứ
đuổi theo cảnh bên ngoài, như người tìm trăng mà cứ nhìn cái bóng dưới
nước, hay như chim bay không để lại dấu vết, mà cứ bàn dấu nó ở chỗ này
chỗ kia. Đó là những việc làm rỗng vô ích. “Muốn biết tâm bản tánh, lại
như xem trong mộng.” Muốn biết bản tánh của mình mà xem cảnh trong mộng,
làm sao mà biết? “Ví đó băng tháng sáu, nơi nơi đều giống nhau.” Ở các
nước Tây phương mùa đông mới có băng, tháng sáu là mùa hạ làm sao có băng?
Bản tánh chân thật mà khởi niệm muốn biết thì giống như xem cảnh trong
mộng, hay muốn thấy băng tháng sáu, hai điều đó không thể có. “Trốn không
trọn chẳng khỏi, tìm không lại chẳng thành.” Bây giờ chúng ta chạy trốn hư
không có được chăng? Và tìm hư không có được chăng? Chúng ta đang ở trong
hư không mà trốn và tìm hư không là vô lý. “Thử hỏi bóng trong gương, tâm
từ chỗ nào sanh?” Chúng ta đang sống với cái Thể chân thật tức là sống với
bản tánh của mình, tức là lúc nào nó cũng đang hiện hữu, nhưng mà tìm thì
không thể thấy, giống như chúng ta đang sống trong hư không, mà muốn chạy
trốn, hoặc muốn tìm hư không để rờ mó nó thì không được. Hai câu kết Ngài
nói: “Thử hỏi bóng trong gương, tâm từ chỗ nào sanh?” Kêu cái bóng ở trong
gương hỏi xem tâm từ chỗ nào sanh, bóng có trả lời được không? Bóng làm
sao trả lời.
Tóm lại, lời hỏi của Bác Lăng Vương và những câu trả lời của Thiền sư Pháp
Dung rất là thâm thúy, Thượng Sĩ lãnh hội được ý chỉ ấy, nên lấy đó làm
chỗ tựa để tu và giảng dạy lại cho người sau, nên nói đây là sự trợ lực
lớn lao cho người sau vậy.
“Bởi vì tâm Phật Hoàng khởi từ cảnh giới của Phật Tổ; lời của Thượng Sĩ
tột nguồn tâm tánh.” Tâm Phật Hoàng thấu suốt được ý chỉ của Phật Tổ, tức
là Ngài đã ngộ đạo, còn Thượng Sĩ thì cũng tột nguồn tâm tức là Thượng Sĩ
cũng ngộ đạo. “Song, Thượng Sĩ không thể làm thành đại báo cho Phật Hoàng,
Phật Hoàng cũng không thể lên được chỗ uẩn tích của Thượng Sĩ, mà hay
khiến người tối được sáng, kẻ điếc được nghe. Đây là sự trợ lực lớn lao
cho Phật giáo vậy.” Thượng Sĩ tuy có công làm cho Phật Hoàng thấy lối đi,
nhưng Ngài không làm thành đại báo cho Phật Hoàng. Đại báo là quả báo lớn:
Một là do sự ngộ đạo rồi làm lợi ích cho chúng sanh. Hai là thân này phát
triển tốt đẹp. Nghĩa là Thượng Sĩ không làm thành được cái ngộ đạo và làm
lợi ích chúng sanh cho Điều Ngự Giác Hoàng. Ngộ là tự Giác Hoàng ngộ, chớ
Thượng Sĩ không làm thế được, cũng như làm lợi ích cho người khác thì tự
Giác Hoàng phát tâm làm, chớ Thượng Sĩ không làm thế được. Và, lý uyên áo
mà Thượng Sĩ thấu suốt tích lũy, Điều Ngự Giác Hoàng không đến được. Vì
của ai thì người đó tự biết, người này không thể thấy của người kia được.
Nhưng nhờ Điều Ngự Giác Hoàng ghi lại lời dạy của Thượng Sĩ, mà người sau
được sáng mắt được thông tai. Đó là điều lợi ích lớn cho Phật giáo vậy.
“Một hôm Phật Hoàng sai người mang quyển Lục này đến bảo rằng: ‘Duy trì
Phật pháp là nhiệm vụ của Quốc vương Đại thần, hãy viết riêng lời tựa và
khắc bản in, để cho sự truyền bá được sáng tỏ.’ Nay Thượng hoàng đế (Trần
Anh Tông) sai thần Trần Khắc Chung làm lời Bạt ở sau tức là noi theo vầng
ngân hán chói lọi ở trước. Thần Trần Khắc Chung bái nhận quyển Lục này,
thắp hương kính đọc. Mới đầu như say, kế đó như tỉnh, rốt sau tâm mắt sáng
rỡ, không tự biết vì sao mà được vậy.
Thần kính cẩn đặt bút viết lời Bạt.”
Điều Ngự Giác Hoàng đưa quyển Ngữ Lục này cho vua Trần Anh Tông, bảo đề
tựa để khắc bản in. Song, vua Trần Anh Tông sai ông Trần Khắc Chung viết
lời Bạt ở sau. Trần Khắc Chung nói, ông nương theo lời của Thượng Sĩ ở
trước mà viết, chớ không phải tự ý viết được. Khi nhận quyển Ngữ Lục này,
Trần Khắc Chung kính cẩn đọc, ban đầu ông thấy mù mịt nhưng sau ông có
tỉnh.
Đó
là lời Bạt của ông Trần Khắc Chung.
Tóm lại, quyển Lục này chia làm bốn phần: Lịch sử, Đối cơ, Tụng cổ, Thi
tụng.
1.
Lịch sử: Nói sơ lược về lịch sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ.
2.
Đối cơ: Người hỏi đạo lý, Ngài tùy theo căn cơ mà trả lời.
3.
Tụng cổ: Dẫn những lời đối đáp bí hiểm của người xưa rồi tụng lại cho mọi
người hiểu.
4.
Thi tụng: Từ những cảm hứng mà Thượng Sĩ làm thành những bài thơ dài hay
ngắn.
Học qua quyển Ngữ Lục của Thượng Sĩ, chúng ta phải nắm vững những điều cốt
lõi Ngài dạy thì sự tu của chúng ta mới dễ tiến.
Qua bốn phần trên chúng ta thấy rõ phần thi ca có những bài như: Bài Ca
Tâm Phật, Bài Ngâm Phóng Cuồng, Sống Chết Nhàn Mà Thôi, Phàm Thánh Không
Hai, đã nói lên tâm huyết của Ngài. Ngài còn chỉ cho chúng ta chỗ rốt ráo
là Tâm và Phật không hai, Phàm và Thánh không hai. Kế đó là hai vấn đề
then chốt của người tu là sống và chết. Con người có mặt trên thế gian
này, ai cũng băn khoăn lo sợ ngày mai mình sẽ chết, như vậy là quí cái
sống, sợ cái chết gọi là tham sanh úy tử. Nhưng với con mắt Thiền sư thì
thấy sống chết nhàn mà thôi, không có gì quan trọng. Tuy nhiên, đọc qua
thơ của Thượng Sĩ thấy Ngài nói vậy, nhưng chúng ta không tin là Ngài nói
được làm được, nếu chúng ta không học sử của Ngài. Vì vậy mà chúng ta phải
học sử của Ngài trước, mới rõ rằng những điều Thượng Sĩ nói ra, để dạy cho
người sau là điều Ngài đã ứng dụng ngay trong cuộc sống của Ngài. Sử ghi
rằng: Khi sắp tắt thở Ngài nằm theo dáng kiết tường sửa soạn đi, thê thiếp
thấy vậy khóc rống lên. Ngài mở mắt ngồi dậy quở vài câu rồi nằm xuống đi.
Vậy có nhàn không? Ngài là người có địa vị, có gia đình có thê thiếp, biết
bao sự trói buộc, mà học đạo rồi ngộ đạo và hằng sống với đạo, nên đối với
sự sanh tử Ngài tự tại, đó là điều rất hiếm có.
Ở
Trung Hoa ai cũng tán thán gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn, ở Việt Nam cũng
có Thượng Sĩ là một cư sĩ ngộ đạo, mà chúng ta ít nghe người đời nhắc nhở
tán thán. Ở các chùa thường đọc bài sám có nhắc tới câu “in như thiền định
họ Bàng thuở xưa” tức là nhắc tới gia đình ông Bàng Long Uẩn. Thế mà không
ai nhắc tới tên Tuệ Trung Thượng Sĩ. Như vậy cái nhìn của người Việt Nam
là cái nhìn hướng ngoại, cái gì của nước ngoài là hay là tốt, còn cái gì
của nước nhà là tầm thường là xấu. Đó là cái bệnh hết sức trầm trọng của
người Việt Nam. Chúng ta học lịch sử và sự truyền bá của Phật Tổ từ Ấn Độ
Trung Hoa chúng ta đều biết hết. Thế mà những bậc thầy ở Việt Nam gần gũi
nhất, mà chúng ta không biết gì cả, đó là một thiếu sót lớn. Giả sử quí vị
biết sự nghiệp ông nội, ông cố, ông sơ, mà cha mẹ quí vị không biết, có
được không? Cả ngày chúng ta cứ ca tụng ông sơ, ông cố, ông nội, cha mẹ
gần mình mà không đoái hoài tới, có lỗi đạo làm con hay không? Thế nên
học, chúng ta phải học cho thấu suốt ngọn nguồn. Phải hiểu Phật giáo ở Ấn
Độ truyền bá thế nào, sang Trung Hoa truyền bá ra sao, đến Việt Nam truyền
bá như thế nào, người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo ra sao? Ai là người có
công làm cho Phật giáo Việt Nam hưng thạnh và phổ cập trong quần chúng?
Nếu chúng ta biết các Tổ nước ngoài mà không biết đến công lao của những
vị Tổ nước nhà, đó là việc đáng trách. Khi đem quyển Ngữ Lục này dạy cho
quí vị học, là tôi có ý mong quí vị biết được những điều kỳ đặc cao quí
của các Tổ Việt Nam rồi ứng dụng tu theo, để sau này đem ra chỉ dạy cho
đàn hậu học biết tìm về nguồn Phật giáo Việt Nam, như vậy mới xứng đáng là
tu sĩ của Phật giáo Việt Nam.
] |