NHỮNG CÁI VUI TRONG ĐẠO PHẬT
XUÂN CANH THÂN 1980
Trong nhà Phật ngày mùng một là ngày vía đức Di-lặc. Đức Di-lặc hiện tại
là một vị Bồ-tát, nhưng mà tương lai sẽ là Phật. Cho nên khi nãy chúng ta
lễ Ngài là “Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật”. Chúng tôi gọi Ngài là
Phật, vì là một vị Phật sẽ đến, sẽ thành, còn gọi Ngài là Bồ-tát vì là vị
Bồ-tát hiện tại. Phần nhiều ở chùa đến ngày này đều cử lễ vía Ngài. Đó là
một thông lệ nhưng mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Người thế gian ai cũng
quan trọng ngày đầu năm, cho đó là ngày chứa đựng đầy đủ ý nghĩa trong một
năm. Vì vậy mọi hành động, ngôn ngữ ý niệm đều được dè dặt, dè dặt từ cử
chỉ lời nói, việc làm, để giữ gìn một năm đầy tốt đẹp.
Ở
đây trong nhà Phật, chúng ta gọi ngày đầu năm là ngày vía đức Di-lặc. Ngài
là hình ảnh đẹp đẽ vui tươi mà ai cũng đều nhớ đều thấy. Nhìn gương mặt
của Ngài, bao giờ cũng thấy Ngài nở một nụ cười, gọi là nụ cười Di-lặc. Nụ
cười đó không bị thời gian giới hạn. Lúc nào quí vị nhìn thấy tượng Ngài
đều là cười. Thuở bé quí vị thấy Ngài cười, đến già cũng thấy Ngài cười,
cho đến chúng ta tắt thở cũng thấy Ngài cười. Nụ cười đó là nụ cười
Di-lặc.
Đáng lý đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay lấy tên là “Nụ cười Di-lặc”,
nhưng nói như vậy thì sợ e nó khuôn trong một hình thức nhỏ. Cho nên chúng
tôi chọn đề tài tương xứng với ngày đầu Xuân, tức là ngày vui của dân tộc,
của mọi cá nhân, cũng là ngày vui trong đạo, tức là ngày đón mừng một vị
Bồ-tát sắp thành Phật ở mai sau.
Đón mừng Bồ-tát Di-lặc, một vị sẽ thành Phật, đó là hình ảnh bên ngoài.
Còn hình ảnh bên trong tức là đón mừng những người Phật tử, những người
con Phật mai kia cũng sẽ thành Phật. Đó là hy vọng tràn trề chứa đựng bao
nhiêu cái đẹp đẽ của tương lai. Cho nên ngày đầu Xuân cũng là ngày vui của
chúng ta, cũng là một ngày hứa hẹn chúng ta sẽ toàn giác thành Phật. Vì
vậy đề tài hôm nay là “Những cái vui trong đạo Phật”. Nó hơi tầm thường
một chút, nhưng nó rộng rãi để quí vị nghe cho rõ.
Người đời có quan niệm rằng đạo Phật chán đời yếm thế làm gì có cái vui.
Không ngờ trong đạo Phật chứa tràn trề niềm vui, những niềm vui đó phát
xuất từ cạn đến sâu.
1-
Cái vui của người Phật tử đến chùa là tập cái vui “tùy hỷ”, hỷ là mừng,
tùy là theo. Khi chúng ta nhìn thấy một người bạn hay một kẻ thân làm một
điều lành, một việc phải thì chúng ta phát tâm vui theo. Người làm vui
năm, chúng ta cũng vui được năm. Người làm vui mười chúng ta cũng vui
mười. Vui theo việc làm lành làm phải của người bạn người thân, cho đến
những người đồng đạo của chúng ta. Chúng ta phát được niềm vui đó, thì
công đức cũng bằng của người làm việc phải, việc thiện. Nói như vậy quí vị
không khỏi nghi ngờ. Thí dụ: Người ta đem mười đồng bạc tới chùa cúng tăng
hay cúng Tam Bảo, mình không có đồng xu nào hết, thấy người ta cúng Tam
Bảo họ vui, mình cũng vui theo, thì công đức của người cúng mười đồng với
công đức của người vui theo bằng nhau. Mới nghe qua như bất công bằng vì
mình không tốn một xu nào mà lại công đức bằng. Nhưng đức Phật nói công
đức bằng nhau. Có người hỏi: Bạch Thế Tôn, tại sao công đức tùy hỷ và công
đức bố thí lại bằng nhau? Phật trả lời: Như một ngọn đèn, hay một cây đuốc
đang cháy, có người cầm cây đuốc đến mồi. Khi mồi xong, cây đuốc này cháy,
cây đuốc kia cháy, thử hỏi ánh sáng hai cây đuốc có thua nhau không? Cây
đuốc bị mồi có mất ánh sáng không? Phật nói: Cũng vậy, người làm việc lành
việc thiện, chính họ đã có công đức rồi. Người kia phát tâm tùy hỷ vui
theo việc lành, việc thiện đó, công đức cũng ngang bằng với người làm lành
làm thiện. Như vậy tốt quá, nhẹ nhàng quá, lựa là chúng ta có nhiều tiền
mới làm việc công đức. Ai làm việc công đức chúng ta tùy hỷ tán dương thì
chúng ta có công đức ngang bằng rồi.
Tại sao tùy hỷ có công đức lớn như vậy?
Người có của đem ra bố thí hay là có công đem ra giúp người, đó là họ xả
được cái tâm ích kỷ, tham lam của họ để làm việc bố thí, làm việc cúng
dường, làm việc cứu giúp. Còn người phát tâm tùy hỷ thì xả được cái tâm
tật đố, vì thông thường thế gian thấy người ta làm cái gì hơn mình thì
sanh tật đố.
Thí dụ hai huynh đệ đi chùa, người kia có mười đồng cúng, mình không có,
thì cảm thấy buồn, rồi nói móc nói ngoéo, chớ không bao giờ có tâm tùy hỷ
vui theo. Thấy người ta làm, mình làm không được thì có cái đố kỵ. Đó là
tâm xấu. Bây giờ chúng ta phát tâm tùy hỷ là dẹp được cái tâm tật đố.
Người bố thí xả được cái tâm tham lam ích kỷ, người tùy hỷ xả được cái tâm
tật đố, thì hai người công đức bằng nhau. Nhưng ở thế gian, chúng ta hằng
thấy, cho đến em ruột trong nhà, khi thấy người anh làm được nhiều của
giàu, còn mình không có của nghèo, thì tự nhiên có mặc cảm đố kỵ với anh
rồi. Vì vậy tình anh em có hơi xa cách. Vì sao? Bởi cái tâm tật đố không
muốn ai hơn mình. Thấy người hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là thông bệnh
của con người. Cho nên ở đây chúng ta học đạo phải tập cái tâm tùy hỷ.
Không phải đợi làm việc công đức mới tùy hỷ, mà thấy ai làm được cái gì an
vui, hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta đều tùy hỷ hết.
Một
thí dụ nữa. Chúng ta nghèo ăn cơm hẩm với muối hột, người bạn chúng ta
giàu, ăn cơm gạo lúa thơm, thịt cá đầy bàn. Thấy như vậy chúng ta vẫn tùy
hỷ bảo: “Anh sung sướng quá, tôi mừng cho anh được đầy đủ sung túc.” Thấy
mình tùy hỷ người bạn giàu đó ghét mình không? Không ghét mà thương, có
thể còn giúp đỡ mình nữa. Nhưng mà ở đời người ta chịu làm vậy không? Hay
là nếu mình ăn cơm hẩm muối cục, bạn mình ăn cơm gạo lúa thơm, cá thịt đầy
bàn, thì tự nhiên thấy không vui, rồi kiếm chuyện nói móc nói ngoéo. Do đó
tình bạn bè tự nhiên xa cách. Mình đố kỵ người ta, người ta thương mình
sao được. Từ cái đó mà sanh ra ngăn cách. Bạn trở thành thù, bởi đố kỵ mà
ra. Từ hoàn cảnh ăn ở, cách xử sự, cho đến làm việc thiện v.v... Tất cả
chúng ta đều nên tập cái tâm tùy hỷ. Có người làm được việc mà chúng ta
không đủ khả năng làm, chúng ta nên mừng theo.
Một thí dụ khác. Hồi thuở bé, chúng ta đi học ở trường, khi thầy giáo cô
giáo kêu trả bài, hôm nào mình không thuộc bài bị điểm nhỏ, nếu bạn mình
thuộc bài được điểm lớn thì mình có thương người được điểm lớn hay không?
Mình lười biếng không học, nên thua người ta, người ta siêng học được điểm
lớn, tại sao mình lại buồn ghét, lại đố kỵ.
Hoặc giả, trong đám học trò, đến cuối năm những đứa học giỏi được khen
thưởng, được những món quà, còn mình là kẻ học dở đứng hạng chót, nhưng
khi thấy người ta lãnh quà, thì mình có vui lây không? Hay là thấy ghét
rồi kiếm chuyện này chuyện kia để thách đố. Cái tâm đó có từ thuở bé, chớ
không phải bây giờ mới có. Chúng ta mang sẵn nó từ thơ ấu. Giờ đây biết tu
chúng ta bỏ cái tật đó. Nó tương đương với tham lam. Tham lam có thì tật
đố cũng có. Người biết làm lành làm phước, họ xả được lòng tham, chúng ta
biết tùy hỷ, thì bỏ được tâm tật đố. Như vậy cả hai đều bỏ được một tật
cho nên đức Phật nói: “Công đức ngang nhau.”
Như vậy, mai mốt đi chùa, hai huynh đệ, người này có món đồ cúng Phật,
cúng tăng, mình không có mình cũng vui theo, mừng cho bạn có tiền để cúng
chùa. Như vậy cả hai công đức đều như nhau. Đừng nghĩ mình nghèo không có
gì cúng mà không muốn đi chung nữa. Đừng nghĩ như vậy. Đó là trái với đạo
lý. Hiểu ứng dụng cho đúng thì chúng ta mới thấy Phật pháp công bằng,
không thiên người giàu, không bỏ người nghèo. Ai cũng có phước hết, chỉ
cần có tâm lành, tâm thiện là được. Đó là cái vui nhỏ đầu tiên của người
vào đạo.
Trong gia đình, anh em chúng ta ai giàu ai khá, ai được cái gì tốt hạnh
phúc, chúng ta đều vui mừng như chính chúng ta được. Ngoài xã hội từ bạn
bè cho đến mọi người, ai được cái gì hay cái gì tốt, cái gì sung sướng,
chúng ta vui mừng như chính chúng ta được. Rồi đến trong đạo huynh đệ
chúng ta có cái gì hay cái gì tốt, chúng ta vui mừng như chính chúng ta
được. Nếu được như vậy chúng ta còn khổ hay không? Tự nhiên là vui rồi,
lúc nào cũng có niềm vui, vui theo cái vui của người. Chúng ta không bị
tật đố làm cho cách biệt, làm cho buồn bực, không để đố kỵ làm mất tình
anh em ruột thịt trong nhà, mất cả bạn bè ngoài xã hội và mất cả tình đạo
ở trong chùa. Được như vậy đi đến đâu chúng ta cũng có niềm vui, dù tay
không, không giúp ai được cái gì. Trái lại mình nghèo mặc áo rách, thấy
người ta mặc áo lành thì xụ mặt xuống rồi bươi móc. Như vậy làm gì có vui.
Đi đâu cũng buồn hết vì thấy những người khác hơn mình. Cái buồn đó nó
tràn trề, vì ở đời làm sao mình bằng tất cả được. Bây giờ chúng ta biết
tùy hỷ, thấy ai có cái gì đẹp cái gì hơn, chúng ta đều vui hết, mừng cho
họ. Tâm niệm của người Phật tử phải là tâm niệm làm cho mọi người hết khổ.
Phật là vị cứu khổ chúng sanh, chúng ta đã là Phật tử, tức con Phật chúng
ta phải mang cái quan niệm làm cho chúng sanh hết khổ. Nếu chưa hết khổ ít
ra cũng bớt khổ. Thấy một người bớt khổ về sự ăn, sự mặc, hoặc bớt khổ về
cái gì, miễn thấy họ bớt khổ là chúng ta mừng. Nếu chúng ta đố kỵ là không
phải con Phật rồi. Vì vậy muốn được niềm vui đầu tiên, chúng ta phải tập
phát tâm tùy hỷ. Ai có điều gì hay, cái gì tốt mình đều vui theo chớ không
đố kỵ. Đó là cái vui thứ nhất của người vào đạo.
2-
Đến cái vui thứ hai sâu hơn, tế nhị hơn là cái vui “hỷ xả”. Hỷ là mừng, xả
là buông bỏ.
Hỷ
xả có hai mặt:
-
Hỷ xả những tài vật bên ngoài.
-
Hỷ xả những chấp chứa trong lòng.
Nếu chúng ta có tài vật dư dả, lúc nào cũng nên vui vẻ xả giúp cho những
người thiếu đói bần cùng. Cái của mình làm do mồ hôi nước mắt mình tạo, mà
mình cảm thấy no đủ hay dư rồi thì vui xả cho những người thiếu hay những
người ít oi hơn. Đó là hỷ xả những vật bên ngoài. Cái đó chắc dễ, phải vậy
không? Đó là cái xả bên ngoài. Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều
người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn
hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn
cho đến ngày tắt thở mà vẫn chưa đủ. Như vậy làm sao xả được. Cho nên muốn
có cái xả đó chúng ta phải học Phật. Phật dạy chúng ta tri túc, tức biết
đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được. Trong nhà Phật nói “Người không biết
đủ thì như cái túi không đáy.” Bỏ vào bao nhiêu nó tuột xuống hết bấy
nhiêu. Dù bỏ bao nhiêu cũng không đầy vì cái bệnh không biết đủ, như vậy
thì làm sao mà xả.
Thí dụ: Mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm, dù bữa nào có đồ ăn
ngon, chúng ta cũng ăn ba chén đủ rồi. Nếu dư thì giúp cho người nào đó,
hoặc nói dễ hiểu hơn cho một con vật nào đó. Dù đó là phần dư của mình,
nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên, khi ăn ba chén vừa no rồi, thấy có đồ
ăn ngon, muốn ăn thêm nữa. Như vậy là phí phạm, vì cái lượng của mình
chừng đó là đủ, mà mình không ưng dừng ngang đó. Đó là nói về cái ăn, còn
bao nhiêu cái khác, chẳng hạn như cái mặc. Chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc,
giả sử chúng ta có bộ thứ tư tức dư rồi nhưng mà có đủ chưa? Có bộ thứ tư
thấy đủ chưa? Đến bộ thứ năm cũng chưa đủ nữa. Như vậy chừng nào mới xả
được. Cho nên muốn xả thì phải biết đủ. Biết đủ mới xả được, còn không
biết đủ thì không bao giờ xả được hết.
Như vậy quí vị muốn tập hỷ xả về tài sản thì quí vị phải thấy đủ và biết
đủ. Cái dư đó dùng để giúp người này người nọ không một chút luyến tiếc.
Đó gọi là tâm hỷ xả, vui vẻ mà giúp chớ không bị bắt buộc, không đợi ai
bắt buộc hết.
Hỷ
xả tuy khó nhưng còn dễ hơn cái hỷ xả này: Hỷ xả ở tâm. Nếu có người nào
làm mình phiền, mình buồn nhất là người mình thường gặp mặt, mà lại làm
mình buồn. Khi buồn mình có vui được không? Nếu buồn thì gương mặt lúc nào
cũng dàu dàu hoặc thêm vẻ nhăn nhó nữa. Vậy, muốn cho mình hết khổ, thì
tập xả, vui vẻ mà xả. Xả này là tha thứ, là bỏ qua. Mỗi khi những người
chung quanh mình có làm gì phiền là mình buồn. Phiền ở đây là phiền hận-
phiền não và sân hận, hai cái đương chất trong lòng mình, mình phải buông
xả nó đi. Người nào còn ôm lòng phiền hận, họ sẽ đau khổ, đau khổ từ hiện
tại cho đến mai kia, chớ không phải ở một giai đoạn nào thôi. Vì vậy, khi
biết rằng mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác, thì mình phải vui
vẻ bỏ hết, nghĩa là hỷ xả, tức là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp
trong lòng phải bỏ hết.
Tại sao chúng ta phải bỏ hết?
Muốn bỏ của cải thì chúng ta phải biết đủ. Bây giờ muốn bỏ phiền hận, phải
làm sao đây? Phải có lý do gì mình mới bỏ được chứ. Chớ nói bỏ đại thì làm
sao mà bỏ. Phải bỏ làm sao? Bỏ cách nào?
Muốn bỏ được sự phiền muộn trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô
thường, là ảo mộng. Nay chết, mai chết tới nơi, ôm hận mà làm gì. Đừng
giận đừng hờn để lo tu hành. Do nghĩ cái chết sắp đến mà chúng ta buông xả
được hết. Ai sống đời đây mà cứ giận hoài, buồn hoài. Cái buồn cái giận
đó, chỉ làm khổ mình khổ người không lợi gì hết. Biết vậy chúng ta phải
buông hết. Vì cái chết đến nơi, chúng ta phải ráng để cho tâm an ổn, đừng
có buồn giận ai. Nghĩ đến vô thường mà hỷ xả.
Tiến hơn nữa, chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây,
ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ, mình tạm bợ, người tạm bợ, mọi
người đều sống trong tạm bợ. Tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau.
Thí dụ: Nếu chúng ta biết rằng, chúng ta là người đang sắp bị kêu án tử
hình, và những người chung quanh ta cũng bị kêu án tử hình hết, trong lúc
mắc bận nghĩ đến cái chết, đâu ai có thì giờ để buồn giận nhau. Giả sử
trong khi lẫn lộn chung chạ nhau đó, có dẫm lên nhau, hay có làm gì phiền
toái nhau, cũng bỏ qua. Phải biết rằng cái chết là trên hết, chớ ở đó lo
buồn giận làm gì.
Chính cái chết, nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ,
sống không có cái gì bảo đảm hết. Như vậy chúng ta còn buồn giận nhau làm
gì. Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Ai ở đời đây mà giận
với hờn.
Quí vị đã học Phật nhiều năm rồi, vậy có tập được cái tánh buông xả đó hay
chưa? Đi chùa cúng Phật mà còn giận còn hờn bạn bè anh em huynh đệ hay
không? Nếu ai còn chứa phiền giận gì đó, thì ngang đây hãy nguyện đức Phật
chứng minh cho để xả hết, trong bụng trống rỗng không còn gì hết. Đừng
thèm giận, đừng thèm buồn ai. Dù có cái giận cái buồn đó từ mười năm hay
ba mươi năm rồi, ngày nay cũng xả. Dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà.
Phiền hận là rắn độc, có ai muốn chứa rắn độc trong nhà đâu. Nếu chứa rắn
độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn. Cho nên khi biết là rắn độc
rồi, thì xả, đuổi ra khỏi nhà, không bao giờ dung nó. Đó là cái thiết yếu.
Nếu quí vị biết như vậy là quí vị tu rồi đó. Quí vị thấy hai cái rõ ràng:
- Nếu phiền hận thì không vui. - Người nào hết phiền hận, tâm hồn rỗng
rang trống trải thì người đó vui vẻ. Muốn cho được vui vẻ chúng ta phải
tập hỷ xả những sự vật bên ngoài, hỷ xả những phiền muộn trong lòng. Trong
ngoài đều hỷ xả hết. Đó là cái vui tột độ của mình đó.
Sở
dĩ đức Phật Ngài cười hoài, là vì Ngài hỷ xả, còn chúng ta quạu hoài là vì
chúng ta còn phiền hận, chúng ta cố chấp. Đó là nguyên nhân của đau khổ
của bệnh tật, nguyên nhân của xấu xa và cũng là nguyên nhân của đê hèn.
Người nào phiền hận thì người đó đau khổ, mặt mày xấu xa, tâm hồn không
bao giờ được thơ thới, tâm hồn sầu não thì sanh bệnh hoạn chứ gì.
Vậy ai muốn mình xấu, ai muốn mình bệnh, ai muốn mình đê hèn?
Ai
cũng muốn mình là người tươi đẹp, ai cũng muốn mình là người rất sung
sướng. Mà tại sao mình lại chứa các nhân đau khổ như vậy? Có phải tự mình
mâu thuẫn với mình hay không? Cho nên khi nào còn chút giận ai, buồn ai
thì biết rằng mình muốn hại mình đó, muốn làm cho mình xấu, mình khổ, mình
bệnh hoạn.
Như vậy quí vị có cần ngày mùng chín đi cúng sao hay không? Cúng sao là để
cầu năm này mình khỏi tai nạn, mình được vui sướng. Bây giờ quí vị xả hết,
không giận ai thì năm nay quí vị khỏi tai nạn, quí vị vui sướng rồi, cúng
làm chi cho mất công. Nếu mình biết mình xả rồi, thì mình được an ổn, dù
cho năm đó mình có gặp sao La Hầu, Kế Đô gì đó chẳng hạn, mình cũng an
lành như thường. Mình không giận ai thì ai thù mình, không thù người thì
ai hại mình. Đó là nguyên nhân an ổn thực tế. Còn cái kia là cái cầu mong
huyền hoặc trên trời, chớ không chịu cái thực tế hiện tại.
Như vậy đức hỷ xả là cái hết sức quí báu cho cuộc sống hiện tại của chúng
ta. Quí vị muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu thì quí vị phải tập
hỷ xả. Ba điều ấy có được đều do hỷ xả hết. Còn người nào không muốn hỷ xả
là người đó muốn chết yểu, bệnh hoạn xấu xa. Như vậy quí vị hãy chọn lấy
một cái ngày đầu năm này, chọn cái nào cho trọn năm đều vui như đức
Di-lặc. Đó là cái vui thứ hai.
3.- Cái vui thứ ba là vui “Pháp hỷ”.
Thông thường nhà Phật hay dùng: Đó là “Pháp hỷ thiền duyệt” nghĩa là chúng
ta nghe chánh pháp trong lòng thấy nhẹ nhàng thư thới. Đó là vui pháp hỷ
hay pháp lạc. Tại sao vậy? Vì chúng ta nghe kinh học đạo, chúng ta tìm
được lẽ thật, chúng ta tìm được một nguồn an ủi vui tươi. Chính do tìm
được, thấy được lẽ thật đó mà lòng chúng ta nhẹ nhàng thư thới. Đó là cái
vui của đạo. Người nào học đạo, nghe đạo mà thấy trong lòng vui tươi sung
sướng, đó là người đã được pháp lạc hay pháp hỷ. Còn người nào nghe đạo mà
gục lên gục xuống, nghiêng qua ngả lại, thì người đó khó tìm được pháp
lạc. Nếu không có cái vui nghe pháp, dù có đi chùa nhưng khó tinh tấn nổi.
Có thích đâu mà tinh tấn. Bởi vì chúng ta cố gắng làm khi chúng ta thích
thú làm, nếu không có sự thích thú thì không bao giờ có sự cố gắng nào
hết. Người học đạo phải làm sao nghiền ngẫm thấy lẽ thật của đức Phật dạy
tức là thấy được chân lý. Phật đã chỉ dạy trong kinh. Nhận những lời chân
thật cho rõ rồi, chúng ta mới thấy vui sướng, cái vui sướng đó gọi là pháp
hỷ hay pháp lạc. Nhân nghe chánh pháp của Phật mà mình được vui thích, cái
vui đó là cái vui chân thật. Có nhận được cái vui đó rồi thì tu hành mới
tinh tấn được. Nếu không nhận được, có tu chăng, chẳng qua là cầu mong
được cái này cái nọ, chớ không phải vui thích để mà tu. Người học đạo chân
chánh là phải vui với đạo mà tu, chớ không phải là cầu mong cái gì khác.
Như vậy khi nghe kinh hoặc đọc sách Phật phải ráng chịu khó đem tâm trí
nghiền ngẫm tức là Chánh tư duy. Xét cho đúng đắn, cho tột cùng, thấy được
lẽ thật trong đó thì mình vui thích lên. Cái vui thích đó làm cho mình có
một sức mạnh tinh tấn trên con đường đạo.
Thí dụ: Ngoài đời, khi người ta vui quá người ta khóc, trong đạo cũng thế.
Khi đọc kinh Phật, có một sự vui mừng lạ đời cảm động cũng rơi nước mắt.
Đó là trường hợp của ngài Khuê Phong. Đi tu, được người tặng cho một quyển
kinh Viên Giác, đọc qua Ngài vui mừng lạ đời, vui tới rơi nước mắt.
Cũng như vậy, chúng ta có thân nhân đi đâu xa hai mươi, ba mươi năm không
gặp nhau, gặp lại mừng quá đến rơi nước mắt. Đó là cái vui sướng tột cùng
khiến đến rơi nước mắt. Người học đạo mà vui đến mức đó thì không bao giờ
thối chuyển. Khi nào đọc kinh mà thấy Phật nói hay quá cảm động sung
sướng, rơi nước mắt, thì đó là duyên lành khá sâu rồi. Người được cái vui
đó là người ít bị những sự khó khăn hay là chướng ngại làm cho họ phải lui
sụt. Còn học đạo khi đọc kinh thì thấy buồn ngủ, tụng kinh ngáp lên ngáp
xuống, thì đó là không tìm được cái vui trong đạo. Không có cái vui thì sự
tu khó mà tiến bộ được. Đó là cái vui của Pháp hỷ hay là Pháp lạc.
4.- Đến cái vui sâu hơn nữa là “Thiền duyệt”.
Duyệt là vui, vui nhè nhẹ, chớ không phải vui mừng hớn hở. Thường thường ở
trong nhà Thiền có tả: Trong khi tọa thiền, đến giai đoạn thân tâm an ổn,
hơi thở nhẹ nhàng, đến lúc đó có giai đoạn khinh an, nhẹ nhàng, thơ thới
khác hơn bình thường. Cái vui lần lần chớ không phải cái vui mạnh đó gọi
là Thiền duyệt. Chỉ khi nào chúng ta tọa Thiền hay tu Thiền, lúc đi sâu
trong đó tâm hồn an ổn, thân thể điều hòa, rồi tự nhiên có cái vui an lành
mà nhà Phật gọi là “Thiền duyệt vi thực” tức là lấy cái vui thiền định làm
món ăn.
Quí
Phật tử nào mới tập ngồi Thiền thì thấy ngồi Thiền vui hay khổ. Ngồi tay
chân đau, thân thể mỏi mệt, mồ hôi chảy ướt áo, không thấy vui chút nào
hết: Ngồi mà khổ chớ không thấy vui. Như vậy tới giờ ngồi Thiền là tới giờ
hình phạt hay là giờ an ổn?
Lúc đầu, tới giờ ngồi Thiền thấy như là một hình phạt nào đó, nhưng đến
lúc tập quen rồi, ngồi Thiền thấy nhẹ nhàng an ổn. Tới giờ đó không ngồi
thì thấy như thiếu cái gì?
Thí dụ: Như mỗi buổi sáng, chúng ta ăn cơm hay là trưa chúng ta ăn cơm,
khi đến giờ đó mà không được ăn cơm, chúng ta cảm thấy khó chịu. Chúng ta
tu Thiền cũng phải như vậy. Đến giờ ngồi Thiền mà không ngồi được, chúng
ta cảm thấy cái gì thiếu thốn, nó đòi hỏi không an. Đó là cái vui trong
Thiền định. Nó như thức ăn rồi, thiếu nó như thiếu cơm. Tức là Thiền duyệt
vi thực. Ít người lấy cái vui trong Thiền định làm thức ăn, vì cần phải tu
tập lâu dài mới tới trạng thái đó. Tới được trạng thái đó rồi mới thấy an
vui, nhưng phải công phu kha khá một chút mới được. Không phải ngồi năm
tháng ba tháng mà được, nhất là ngồi buổi đầu, khổ chớ không phải vui,
nhọc nhằn khổ sở lắm. Qua cái nhọc nhằn khổ sở rồi, mình điều phục được
thân tâm lúc đó mình mới được an vui. Cái an vui đó gọi là Thiền duyệt.
Bao giờ thấy cái vui Thiền định không thể thiếu được như là bữa cơm không
thể thiếu được, gọi đó là “Thiền duyệt vi thực”. Đó là cái vui thứ tư.
5.- Đến cái vui thứ năm khó hơn, là vui “Tịch Lạc”. Cái vui này ít được
nghe. Nó xuất xứ từ bốn câu kệ ở kinh Đại Bát Niết-bàn. Trong đó nói rằng:
Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Tức là lấy chữ đầu Tịch và chữ cuối Lạc. Cho nên gọi là vui Tịch Lạc. Cái
vui đó là cái vui cứu kính của người tu. Hai cái vui đầu nó gần gũi với
quí vị, nhưng mà người Phật tử làm chưa mấy được. Phải gắng từ cái vui
thứ nhất đến cái vui thứ hai. Có được hai cái vui đó rồi mới đến cái vui
thứ ba thứ tư, cuối cùng là cái vui thứ năm. Vui trong Tịch Lạc. Tịch tức
là tịch tịnh hay tịch diệt rồi được an lạc.
Cái vui này nó thế nào? Tôi dẫn mỗi câu của bài kệ để giải thích. Chư hành
vô thường: Hành ở đây là hành động, tức là thân miệng ý hoạt động. Thân
miệng ý hành động thì thành nghiệp. Mọi hoạt động của thân miệng ý đều
thành nghiệp hoặc nghiệp thiện hoặc nghiệp ác. Mọi nghiệp đều gốc từ thân
miệng ý mà ra. Ý nghĩ miệng nói thân làm. Mọi hành động đó còn mãi mãi hay
không. Nó qua rồi mất, ý nghĩ rồi mất, miệng nói rồi mất, thân hành động
rồi mất. Tất cả những cái đó là chỗ tạo nghiệp mà thuộc về vô thường. Qua
rồi mất qua rồi mất. Nó không có lâu dài, nên nói: “Thị sanh diệt pháp”
tức là pháp sanh diệt, nó không có bền. Như vậy tất cả cái hạnh trên thế
gian này, mọi hành động mọi tạo tác đều gọi là vô thường, nó không lâu dài
bền bỉ. “Sanh diệt diệt dĩ”, cái sanh đó mà lặng rồi thì “Tịch diệt vi
lạc”. Cái lặng lẽ chân thật ấy mới là vui. Cái vui này quá sâu kín cũng
gọi là cái vui Niết-bàn. Sau khi cái sanh diệt nó diệt hết rồi mới tới chỗ
tịch diệt.
Nói sanh diệt là nói sanh diệt của ý, khẩu, và thân, nhưng chủ yếu là ý. Ý
là chủ động cho nên ý lặng rồi dù có nói có làm cũng là tịch diệt. Như vậy
sau khi vọng tưởng lặng hết rồi không còn dấy động nữa, đó là tịch diệt.
Cái tịch diệt đó đi đến chỗ an ổn chân thật của cái bất sanh bất diệt. Cái
bất sanh bất diệt đó là Niết-bàn. Đó là cái vui cứu kính chân thật ít
người hưởng được.
Chúng ta học và tu Phật có cái vui gần, tới cái vui xa. Như cái vui Tùy hỷ
thật là dễ làm không tốn công, chỉ xả tâm tật đố mình thì được rồi. Tới
cái vui tốn công một chút, tức là của cải mình, mình xả và cái chứa chấp
trong tâm niệm mình xả. Hai cái đó xả được là có cái vui Hỷ xả. Rồi cái
vui thứ ba là Pháp hỷ hay Pháp lạc. Cái vui đó phải nghiền ngẫm, nghiên
cứu có công phu với đạo lý, chúng ta mới thấy được niềm an vui ở trong đạo
lý. Đến vui Thiền duyệt thì phải có công phu đậm nữa, phải nhiều năm nhiều
tháng công phu tu hành mới được cái vui Thiền duyệt. Được cái vui Thiền
duyệt rồi cuối cùng mới được cái vui Tịch lạc, tức là tâm lặng lẽ rỗng
rang không còn một niệm dấy lên. Thấy tất cả sự vật cái gì cũng nên thơ,
cái gì cũng đẹp đẽ. Không còn phân biệt đây là xấu, kia là tốt, đây là hay
kia là dở, chỉ một niệm chân thật. Cho nên trong nhà thiền gọi là: “Xúc
mục tức Bồ-đề”; tức là nhìn cái gì cũng là Bồ-đề, là giác ngộ hết. Không
thấy có cái gì xấu, tất cả đều là vui, đều là đẹp. Tất cả là một mùa Xuân.
Như vậy nếu chúng ta tới được chỗ vui đó, tức được một mùa Xuân vĩnh cửu,
một mùa Xuân không bao giờ mất.
Tôi dẫn một Thiền sư đời nhà Tống, Thiền sư Phật Nhãn, một trong ba ông
Phật: Phật Quả, Phật Nhãn, Phật Giám. Ba vị này là Thiền sư nổi tiếng đời
Tống. Đây là Ngài Phật Nhãn hiệu là Thanh Viễn. Ngài có một bài thơ nói về
Xuân như sau:
Xuân nhật xuân sơn lý
Xuân sự tận giai xuân
Xuân quang chiếu xuân thủy
Xuân khí kết xuân vân
Xuân khách xuân tình động
Xuân thi xuân cánh tân
Duy hữu thức xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất xuân
Tạm dịch:
Ngày xuân xuân trong núi
Việc xuân thảy đều xuân
Hồ xuân ánh xuân chiếu
Khí xuân kết mây xuân
Khách xuân lòng xuân động
Thi xuân xuân càng tươi
Chỉ có người biết xuân
Muôn kiếp một mùa xuân
Tại sao câu nào cũng Xuân hết vậy?
Xuân nhật tức là ngày Xuân, Xuân sơn lý tức là Xuân trong núi. Ngày Xuân
trong núi giống hệt như Xuân hôm nay. Tức là ngày vui, mà vui ở trong núi.
Xuân sự tận giai Xuân, tức là việc Xuân thảy đều Xuân, bởi vì thấy cái gì
cũng là Xuân hết, đều là đẹp hết. Nếu trong lòng mình có nhẹ thênh thang
không có buồn giận, hờn, phiền, không dấy niệm phân chia thì cái gì không
phải là Xuân. Thấy ai cũng đẹp dễ thương hết. Sở dĩ chúng ta không vui
được là vì thấy cái này xấu cái kia tốt, thấy người này dễ thương, người
kia dễ ghét. Thấy người dễ ghét thì hết Xuân, mặt xụ xuống thì làm sao
thấy Xuân được. Còn thấy ai cũng dễ thương, thì gặp ai mình cũng nở nụ
cười, không phải Xuân là gì? Trên mặt mình luôn luôn là mùa Xuân, cho nên
thấy cái gì cũng là Xuân, tất cả đều là Xuân.
Hồ
Xuân ánh Xuân chiếu. Cái hồ thấy nó cũng tươi đẹp, thấy mặt trời soi sáng
dưới đáy hồ cũng tươi đẹp luôn. Hồ Xuân, rồi ánh nắng mặt trời cũng Xuân
cái gì cũng đẹp hết.
Khí Xuân kết mây Xuân. Nhìn thấy mây nó mơ hồ lưa thưa ở chung quanh mấy
ngôi nhà, cụm vườn tức là những mây mờ gọi là Xuân khí, thấy cũng đẹp nên
thơ. Rồi những cái đó kết thành những cụm mây. Những cụm mây đó cũng là
mây Xuân luôn. Như vậy nhìn người cũng là Xuân, nhìn vật cũng là Xuân,
nhìn nước cũng là Xuân, nhìn trời cũng là Xuân. Xuân tất cả. Tại sao ta
được Xuân như vậy? Tại trong lòng chứa đầy một mùa Xuân. Nếu trong lòng
chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không Xuân hết, cái gì
cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài nó đẹp là do trong lòng mình đẹp.
Khách Xuân Xuân tình động. Tức là khách Xuân rồi khởi tình Xuân. Như người
khách trong mùa Xuân, thấy cảnh đều vui theo nó, tức tình động theo mùa
Xuân.
Xuân thi Xuân cánh tân. Tức là mùa Xuân đã tươi rồi, thi nhân còn tô điểm
cạo gọt, vuốt ve nó làm cho nó tươi đẹp thêm nữa.
Hai câu chót mới là tối quan trọng.
Duy hữu thức Xuân nhân
Vạn kiếp nguyên nhất Xuân
Như vậy chỉ có người biết Xuân, muôn kiếp một mùa Xuân.
Cảnh Xuân, khách Xuân, tình Xuân v.v... đó là cái bên ngoài. Chỉ có người
biết được Xuân đó, mới vui muôn kiếp Xuân. Mùa Xuân đó là mùa Xuân Di-lặc
cười hoài muôn kiếp, không bao giờ có vẻ mày sầu mặt héo gì hết. Đó là một
mùa Xuân tươi đẹp, đầy cả một bầu trời, tràn trề cả nhân thế.
Quí vị có muốn hưởng một mùa Xuân đó hay không? Như vậy cái cạn đến cái
sâu, quí vị từ từ bước. Cạn nhất là từ từ bỏ tật đố để phát tâm tùy hỷ vui
theo tất cả việc tốt, việc lành của mọi người. Kế đó là cái vui hỷ xả tức
là vui mừng bỏ hết tất cả những cái gì mình có thể bỏ được. Xả hết từ cái
xả của cái bực bội, cố chấp, buông xả hết. Đó là tập Xuân. Rồi tới hiểu
giáo lý một cách đúng đắn, có niềm vui chân thật, tu hành tiến tới an ổn,
đi đến cuối cùng mọi tâm niệm đều được an lành tự tại. Không có một chút
gì dấy lên làm biến đổi tất cả sự kiện bên ngoài. Chỉ một tâm thênh thang
trong trẻo thì nhìn đời bằng một mùa Xuân không đổi thay, không còn di
dịch gì nữa hết. Xuân như thế mới là Xuân Di-lặc. Xuân như vậy mới là Xuân
muôn đời muôn kiếp. Nếu mùa Xuân chỉ có ba tháng hoặc chỉ có mấy ngày Tết
là Xuân thì Xuân đó hữu hạn quá. Ngày nay ráng mà gượng cười; rồi ngày mai
gặp nhau quạu quọ tức tối thì không còn Xuân đâu. Nên phải cởi bỏ từ từ
trong lòng những chướng ngại cho mùa Xuân muôn kiếp đó. Nếu chúng ta loại
nó ra được thì cuối cùng chúng ta sẽ hưởng được một mùa Xuân muôn kiếp.
Mong rằng mùa Xuân muôn kiếp sẽ đến với quí vị.
]
|