ĐÊM TRỪ TỊCH SANH TỬ SỰ ĐẠI
CUỐI NĂM CANH THÂN (1980)
Hỏi: Sanh tử sự đại. Vô thường tấn tốc.
Và: Sanh như đắp chăn đông. Tử như cổi áo hạ.
Là
Phật tử, xuất gia cũng như tại gia, chúng ta phải sống như thế nào đối với
hai quan niệm trên?
Đáp: Thông thường có hai hạng người tu, hạng người chưa đạt đạo muốn tiến
tu thì lúc nào cũng phải khắc trên trán bốn chữ “Sanh tử sự đại”. Đó là
chủ đích ngài Thích-ca lúc xuất gia. Khi đi tu là cốt giải quyết vấn đề
sanh tử. Bao nhiêu người từ trước đến giờ đành bó tay đối với vấn đề sanh
tử. Vì thế đức Phật quyết định giải quyết vấn đề sanh tử, chớ không chấp
nhận cách bó tay đó. Ngài không thể đầu hàng sanh tử mà phải vượt ra khỏi
sanh tử, cho nên Ngài mới xuất gia cầu đạo. Khi đạt đạo rồi, đó là Ngài
thoát ly sanh tử. Thế nên tất cả người tu sau này khi phát tâm xuất gia
hay là quyết chí tu hành theo đạo Phật để giải thoát thì không ai coi
thường vấn đề sanh tử. Khi chúng ta đi tu là đã quyết định chiến thắng cho
được vấn đề sanh tử, phải thoát ly sanh tử. Đó là cái chủ yếu. Như vậy chủ
yếu chúng ta đi tu là để thoát ly sanh tử. Cho nên chữ giải thoát nghĩa là
không còn bị sanh tử lôi kéo nữa. Mọi người ai đi tu cũng phải quan trọng
bốn chữ “Sanh tử sự đại” chớ không thể coi thường. Đó là bước đầu trên con
đường tu của chúng ta.
Nhưng khi đạt đạo thấy rõ mình có cái chân thật bất biến. Cái đó không bị
sanh tử lôi cuốn và nó cũng không lệ thuộc vào sanh tử. Như vậy sống với
cái không sanh tử thì chẳng qua là tùy duyên. Đủ duyên hợp lại đó là sanh.
Thiếu duyên ly tán đó là tử. Sanh tử là vấn đề của duyên. Đối với Pháp
thân hay Chân tâm, nó không dính dáng gì hết. Vì vậy trên phương diện sống
với Pháp thân, sanh tử như trò chơi như ảo mộng, như huyễn hóa không gì
phải bận tâm. Cho nên có Thiền sư nói rằng “Đối với sanh tử bất quan hoài”
nghĩa là đối với sanh tử không bận lòng.
Đối với sanh tử không bận lòng ở giai đoạn nào?
Ở
giai đoạn đạt đạo? Thấy cái chân thật bất biến của mình, thì lúc đó đối
với sanh tử không còn bận lòng. Còn chưa thấy cái đó sanh tử là việc lớn.
Như vậy chúng ta thấy hai câu trên đều đúng, đối với người tu. Người tu mà
chưa đạt đạo thì sanh tử là việc lớn. Khi đạt đạo rồi thấy sanh tử là trò
chơi. Cho nên ngài Từ Minh mới nói “Sanh như đắp chăn đông - Tử như cổi áo
hạ”.
Bởi vì chúng ta đã thấy mình có cái không sanh tử, nhưng vì lợi ích chúng
sanh, cần phải có cái sanh để độ họ. Lúc đó sanh cũng như mùa đông được
chiếc chăn đắp lên che ấm. Có gì mà sợ. Còn khi mình giáo hóa làm Phật sự
mỏi mệt rồi, bỏ cái thân tứ đại này để trở về Pháp thân thanh tịnh cũng
như mùa nực cổi chiếc áo, mát có gì mà lo. Như vậy trường hợp sanh đối với
Ngài cũng như được đắp chăn trong mùa đông, tử coi như là cổi chiếc áo
trong mùa hạ, không có gì phải bận lòng sợ sệt.
Đó
là đối với người đã được Pháp thân vì lợi ích chúng sanh phải sanh. Khi
duyên hết thì tử. Sanh tử đối với các Ngài không bận lòng. Nhưng đối với
chúng ta vấn đề đầu tiên là sanh tử sự đại. Nếu chúng ta chưa đạt đạo thì
“Sanh tử sự đại” có giá trị. Khi chúng ta sống thuần thục trong Pháp thân
bất sanh bất diệt, thấy sanh tử như trò chơi, không còn gì phải bận lòng
nữa.
Khoảng giữa năm tôi hứng có làm một bài kệ như sau:
Gá thân mộng, dạo cảnh mộng
Mộng tan rồi, cười vỡ mộng
Ghi lời mộng, nhắn khách mộng
Biết được mộng, tỉnh cơn mộng
Lý
do làm kệ:
Lúc đó tôi bắt đầu giảng Trung Quán Luận. Trong khi giảng Trung Quán,
chúng tôi hứng thấy rõ cái gì mà chúng tôi muốn nói. Cho nên một đêm tôi
ngồi ngoài trời nhớ lại lời của Tổ, hứng tôi làm ra bài kệ trên. Nhiều vị
không biết, nói là tôi làm kệ là sắp từ giã. Có người đồn tôi sắp tịch nên
mới để kệ lại. Nhưng sự thật không phải vậy. Khi dạy Trung Quán, tôi thấy
cái lẽ trong đó quá rõ ràng, cho nên hứng làm ra như vậy. Kệ đó có hai ý:
1-
Chúng tôi ước định lại đời sống và ngày cuối cùng của chúng tôi.
2- Mong mỏi những người sau nhận, hiểu như cái gì tôi đã hiểu.
Giờ đây tôi đi thẳng vào bài kệ để cho quí vị nhớ. Đầu tiên chúng tôi nói
“ Gá thân mộng, dạo cảnh mộng”. Quí vị nghĩ thế nào về câu “Gá thân mộng”.
Thân của chúng ta hiện giờ, như tôi thường giảng cho quí vị nghe, sự sống
còn của nó, chúng ta thấy thật là quan trọng. Nhưng nếu dùng con mắt trí
tuệ Bát-nhã mà thấy nó chẳng qua là một mớ nhân duyên hòa hợp lại thành sự
sống. Sự sống do duyên mà có. Đủ duyên nó còn, thiếu duyên nó mất. Không
có gì là bảo đảm lâu dài hết. Trong tứ đại chúng ta phần trong gọi là nội
tứ đại, phần ngoài gọi là ngoại tứ đại. Hai cái hỗ tương nhau. Có cái bên
trong mà thiếu cái hỗ tương bên ngoài thì nó không còn. Có cái bên ngoài
mà không có cái bên trong cũng không có. Vì vậy cuộc sống chúng ta sống
hiện nay bằng cách tạm bợ vay mượn, tứ đại bên ngoài hòa hợp với tứ đại
bên trong. Nếu không có sự vay mượn hòa hợp đó thì sự sống này mất. Vì vậy
sống bằng cách tạm bợ không phải mộng là gì, không phải huyễn hóa là gì?
Cho nên thân hiện giờ của chúng ta là thân tạm bợ như thân trong giấc
mộng, không có gì lạ. Như vậy đối với sự sống này nếu biết rõ nó là tạm
bợ là huyễn hóa thì tự nhiên chúng ta còn có cái gì nữa? Chẳng lẽ có thân
huyễn hóa tạm bợ này thôi sao? Cho nên chúng tôi dùng chữ “gá”. Ai “gá”?
Thật ra có cái gì đó nó tựa vào thân tứ đại này. Do nó tựa vào thân tứ đại
này thành ra có cuộc sống. Và cái mà tựa vào thân tứ đại này không phải là
huyễn hóa như tứ đại. Đó là để nói cho quí vị thấy không phải chỉ có thân
tứ đại này là cứu kính là duy nhất mà nó còn có cái “chủ nhân ông” tựa vào
nó. Nói “chủ nhân ông” đó là khi nào chúng ta tỉnh giác. Nếu chưa tỉnh
giác thì phải nói danh từ khác tức là “nghiệp thức gá”. Như vậy cái gá đó
là ông chủ chớ không phải là cái tầm thường. Chính cái thân tứ đại mới là
cái tầm thường để cho ông chủ nương tựa. Khi gá vào thân tứ đại huyễn hóa
hay mộng huyễn này thì cái cảnh mà thân tứ đại tới lui qua lại đó là cảnh
thật hay không? Đó cũng là mộng. Thân tứ đại là mộng, cảnh của tứ đại tới
lui qua lại cũng là mộng, nên nói rằng “dạo cảnh mộng”. Như Tổ Qui Sơn đã
thường nhắc nhở, Ngài nói rằng: Người xuất gia thì phải coi mình như khách
qua lại trong tam giới. Như vậy tam giới chẳng qua là một cảnh mộng mà
người khách đó thường tới lui qua lại. Vì vậy người khách đó là người quan
trọng, còn cái cảnh không phải là quan trọng. Ở đây tôi dùng câu dạo cảnh
mộng vì đa số người đời chúng ta mắc kẹt trong cảnh, thấy cảnh này là
thật, thấy cái này là của mình, thấy cái kia là của mình. Thấy tất cả cái
gì cũng là của mình hết. Nhà của mình, đất của mình, tất cả cái gì cũng là
của mình hết, cho nên được thì mừng mất thì khổ. Vì vậy mà chúng ta bị
ngoại cảnh lôi cuốn, sống trong bất an, bất ổn. Nếu chúng ta thấy cuộc đời
là mộng, ngoại cảnh là mộng, thân và cảnh đều là mộng thì còn gì là ràng
buộc, còn gì là lo sợ, được mất đối với chúng ta như trò chơi, không còn
gì phải là khổ đau nữa hết.
Đó
là tôi diễn tả lại thân này và cảnh này mà chúng ta đang mang và đang ở.
Khi cảnh này và thân này tan rồi thì thế nào? Đó là câu thứ ba “mộng tan
rồi”. Đến câu thứ tư “cười vỡ mộng” tức là khi thân chúng ta thở cái khì
ra và không hít lại. Một khi trả ra mà không mượn lại là thân tứ đại sắp
hoại. Thở ra mà không hít lại là phong đại đã hết. Phong đại hết rồi thì
hỏa đại do đó sẽ tan từ từ. Rồi tới thủy đại, địa đại, nó sẽ tan rã sau.
Như vậy một khi thở ra không hít lại thì thân tứ đại chúng ta không còn
hoạt động như trước nữa. Khi đôi mắt chúng ta nhắm nghiền lại thì cảnh ở
ngoài còn với chúng ta hay không? Vì khi hơi thở đã buông rồi thì con mắt
cũng theo đó nhắm nghiền lại, lúc đó ngoại cảnh không còn gì với chúng ta
nữa. Thân thiếu phong đại thì thân sắp tan, mắt không còn mở nhìn thấy nữa
thì cảnh đời đối với chúng ta cũng vắng. Cho nên thân và cảnh lúc đó là
mộng đã tan hoại. Nên nói rằng “mộng tan rồi”. Khi thân và cảnh đi tới chỗ
tan hoại đó, đối với người đời sẽ làm sao? Nào là khóc biệt ly, thương
cha, thương mẹ, thương anh, thương em, thương tất cả người chung quanh.
Coi đó như là một chuyến đi không bao giờ gặp lại. Bao nhiêu tiếng khóc
nức nở để rồi đau khổ vì cảnh biệt ly. Hoặc giả bản thân người đó họ sẽ
khổ đau. Họ khổ đau vì cái gì? Như ngài Qui Sơn nói: “Tiền lộ mang mang vị
tri hà vãng” nghĩa là đường trước mờ mờ không biết về đâu. Khi sắp tắt thở
nhớ lại mình không có đức hạnh gì, không biết rồi sẽ ra sao? Đó là cái đau
khổ nhất của con người. Khi sắp ra đi không biết là mình đi đâu? Từ giã
anh em, từ giã cha mẹ. Rồi đây mình sẽ không còn gặp lại tất cả mọi người,
và bản thân mình sẽ ra sao? Đi đâu? Thật là đau khổ. Như vậy có hai cái
khổ: cái khổ khóc vĩnh biệt và cái khổ không biết thân phận mình ra sao?
Hai cái đó làm cho người sắp ra đi đau khổ tràn trề. Đó là thân phận những
người không biết đạo. Nhưng ở đây tôi nói thế nào? “Mộng tan rồi, cười vỡ
mộng.” Tại sao chúng ta lại cười vỡ mộng? Bởi vì mình biết đó là một giấc
mộng. Đã biết là một giấc mộng thì khi hết mộng chúng ta trở về thật. Đang
mê hết cơn mê chúng ta tỉnh. Vì biết đó là một cơn mê. Khi hết mê chúng ta
còn sợ hay không? Khi biết đó là một cơn mê thì cơn mê dù đẹp, dù xấu, dù
khổ, dù vui, chúng ta cũng thấy đó là một cơn mê. Và hết mê, là tỉnh biết
rõ như vậy. Khi tỉnh còn có cái gì phải sợ nữa đâu. Như vậy cho nên khi
chúng ta biết rõ đây là một cơn mộng, khi mộng tan chúng ta nở một nụ cười
từ biệt mọi người và chúng ta an lành trở về quê cũ, chớ không có gì sợ
sệt hết. Đó là “cười vỡ mộng”. Chúng ta chỉ còn một nụ cười để trở về quê
hương mà ngàn thuở không bao giờ phai mờ, không bao giờ mất. Chúng ta từ
khi gá thân này, chúng ta mang nó, sống với nó mà thấy là mộng ảo. Cảnh mà
chúng ta đang dạo, đang qua, đang lại cũng là cảnh mộng ảo. Khi cái mộng
ảo đó nó tan đi thì chúng ta chỉ là một nụ cười để trở về cái chân thật
chớ không có gì lạ. Như vậy đó là cái an ổn lành mạnh nhất của con người
khi thoát khỏi được cơn mê, cơn mộng.
Nói như vậy mà chúng tôi đã được như vậy chưa? Đó là một vấn đề ước định.
Nói như vậy để chúng tôi tự nhắc rằng chúng tôi phải sống thế nào về cuộc
sống này? Trong khi, sống mang thân này với cảnh này chúng tôi phải luôn
luôn thấy nó là mộng. Và khi thân này sắp hoại chúng tôi thấy đó là tan
cơn mộng, chỉ là một nụ cười để cười vỡ mộng thôi, không có gì quan trọng
hết. Đó là chúng tôi ước định ngày ra đi phải như vậy, chớ không phải là
cái đang được như vậy. Đó cũng là một chương trình, một kế hoạch phác họa
cho ngày ra đi phải như vậy đó. Chính cái phác họa đó là một ước định của
chúng tôi nhắc nhở chúng tôi phải cố gắng làm sao khi ra đi được như vậy
chớ không khác hơn. Nếu khác hơn là dở lắm rồi. Như vậy là phần của tôi,
tôi đã định như vậy.
Phần quí vị thì sao? Chúng tôi nói thêm: “Ghi lời mộng, nhắn khách mộng”
bây giờ vì nghĩ rằng chúng ta tự thấy mình sống trong cõi đời tạm bợ hư ảo
nó không có gì thật, không lẽ mình biết nó hư ảo không thật rồi mình an ổn
vui vẻ để cho người khác chìm lịm trong cơn mộng đó rồi khóc rồi khổ, đủ
thứ đau đớn. Mình đâu có nỡ. Buộc lòng phải ghi lại ít lời nhắc lại những
người khách cũng đồng hành với mình trong cơn mộng đó. Đó là với một tấm
lòng nghĩ đến người sau thương xót người sau. Muốn làm sao cho ai cũng
được khi ra đi với một nụ cười, chớ không phải là rơi lệ tràn trề. Rồi
“ghi lời mộng”, tới “nhắn khách mộng” cái gì đây? Tức là “Biết được mộng,
tỉnh cơn mộng”. Nhắn quí vị rằng, nếu một khi biết rõ sự sống này là mộng
thì quí vị tỉnh được cơn mộng. Đó là chủ yếu làm sao mỗi người chúng ta
đều phải thấy rõ lẽ thật của cuộc đời, chớ đừng có lầm lẫn trong cơn mê
mộng mà mình tưởng nó là thật. Tưởng lầm nó là thật rồi chìm mãi trong cơn
mê. Hết cơn mộng này đến cơn mộng khác. Chúng ta biết nó là mộng rồi thì
chúng ta có thể tỉnh được cơn mộng. Tỉnh được cơn mộng thì mọi cái khổ vui
trong mộng không còn gì chi phối được chúng ta hết. Đó là điều thiết yếu
trong cuộc sống. Cho nên tôi có nói với ít người chung quanh rằng sau khi
tôi vỡ mộng rồi thì quí vị khỏi cần họa hình họa tượng gì hết, chỉ cần
biên tám câu đó, tám câu một câu ba chữ, hoặc bốn câu một câu sáu chữ để
lại trên chỗ mà quí vị nhớ tôi đó. Để chỗ nào đó trên vách cũng được hay
nơi nào cũng được để quí vị đọc tới đọc lui câu đó, có lợi hơn là họa hình
to thờ mà không nhớ tới mấy câu đó cũng vô ích. Đó là ý nghĩa mà tôi làm
bài kệ. Do sự thấy rõ như vậy nên khi làm bài kệ bắt buộc tôi phải sống
như vậy. Ngày ra đi phải như vậy. Đó là ước định của tôi, và mong mỏi
những người chung quanh và kẻ đi sau này cũng được như vậy.
Đó
là sở nguyện tôi ước mong, chớ không phải là sự thật. Nên nhớ như vậy. Ước
mong đó có thể thật mà cũng có thể chưa được. Nếu được, đó là cái hài lòng
của tôi. Nếu chưa được là cái tôi chưa hài lòng, chẳng qua là sở nguyện
vậy thôi.
Nói như vậy tôi cần nhắc cho tất cả quí vị biết. Bao nhiêu năm tôi giảng
dạy ở đây quí vị đều thấy mỗi lần giảng dạy kể cả tôi là người hay giảng
quí vị là người nghe giảng, trong lúc ấy người giảng và người nghe hình
như chúng ta đều là kẻ tỉnh hết. Nhưng mà, sau cơn giảng rồi thì có lẽ
người giảng cũng hay quên, người nghe lại càng quên hơn nữa. Như vậy,
tỉnh, tỉnh rồi mê. Mà tỉnh thì ít, một tháng chỉ có mấy tiếng đồng hồ, còn
mê thì quá dài. Nếu chúng ta gặp cơn ngủ mê quá mê, vừa mãn mộng thứ nhất,
lúc đó chúng ta vừa hơi tỉnh. Tỉnh rồi mà chưa có sức ngồi dậy, rửa mặt
mày hoặc đi ra và cũng còn ham ngủ nữa thì sao? Một cơn mộng thứ hai tiếp
nối. Qua cơn mộng thứ hai hơi tỉnh một chút, thì tiếp tục cơn mộng thứ ba
nếu chúng ta còn thấy mỏi mệt, còn ưng nằm dài thì mộng rồi tới mộng. Như
vậy thì mộng không biết tới lúc nào mới hết. Chỉ khi nào chúng ta biết đó
là mộng, hoặc là mộng vui mộng buồn, sau cơn mộng chúng ta nhất định trỗi
dậy rửa mặt, rửa mày hoạt động bình thường, ra ngoài thì khả dĩ hết mộng.
Còn cứ nằm dài đó mãi thì càng mộng chớ không thể hết được. Đó là ý nghĩa
mộng.
Bây giờ tới việc tu chúng ta. Nếu chúng ta biết cái dở là cái dở, điều nào
là điều tạo nghiệp khổ cho chúng ta, chúng ta biết cái này là giả cái kia
là thật, cái biết đó chưa đủ làm cho chúng ta giải thoát, chưa đủ làm cho
chúng ta hết khổ. Biết rồi chúng ta còn phải hành. Cho nên trong nhà Phật
dạy chúng ta học đạo là phải đủ văn tư tu. Văn là nghe, tư là suy nghĩ,
nhận định đúng. Đó là phải, nhưng còn phải tu nữa. Có tu mới thật sự thoát
ly sanh tử, mới ra khỏi bao nhiêu cái khổ đau. Nếu thiếu cái tu thì không
bao giờ chúng ta thoát ly sanh tử được. Vì vậy cho nên hiểu rồi phải hành.
Cái hành đó mới là thiết yếu. Như chúng tôi thường nói với quí vị: Cái chủ
động trong cuộc luân hồi, sanh tử là ba nghiệp, cái chủ động của ba nghiệp
là ý nghiệp. Ý nghiệp trong nhà Thiền gọi là vọng tưởng. Vọng tưởng đó là
động cơ chính yếu để đưa chúng ta vào vòng luân hồi sanh tử. Bây giờ muốn
thoát ly sanh tử không gì hơn là chận đứng hay là dừng lại vọng tưởng đó.
Nói chận nói dừng là một lối nói, đúng ra chúng ta nhè nhẹ buông nó. Biết
rõ bộ mặt nó là không thật, buông nó rồi nó sẽ hết. Như vậy cái công phu
buông xả đó thấy nó nhẹ đơn giản mà thật là phải kiên trì bền bỉ lâu dài
mới buông hết được, chớ không thể nào một, hai, năm, mười năm mà được. Cho
nên các vị hồi xưa muốn buông hết nó phải trải qua mấy mươi năm. Người
lanh lợi nhất trong nhà Thiền ở Trung Quốc, là ngài Triệu Châu mà Ngài còn
nói: Ngót ba mươi năm phải buông hết mới thành một khối. Huống là chúng ta
ở đây mới nhấp nhem mấy năm trời, buông sơ sịa, bảo hết làm sao mà hết
được. Cho nên cái đó là phải công phu dai dẳng, phải nỗ lực bền chí mới có
thể thực hiện được công trình đó. Như vậy chúng tôi nói rằng người quyết
chí tu đạt đến kết quả viên mãn thì phải khẳng định lập trường của mình và
phải quyết chí không bao giờ lay chuyển trước mọi hoàn cảnh nhất là trong
hoàn cảnh thuộc về tình cảm. Cái đó làm cho mình rất khổ đau. Ở đây tôi
chỉ đề cập đến tình cảm của người xuất gia. Người xuất gia trước nhất thấy
tình cảm gia đình là nặng nhất. Tình cảm gia đình là cái làm chúng ta rối
ren, lo sợ; thương cha, thương mẹ, thương anh, thương em. Bao nhiêu cái đó
làm chúng ta bận bịu làm chúng ta khó xử. Nếu chúng ta không có thái độ
dứt khoát không can đảm như đức Phật thì khó mà giải quyết nổi. Quí vị
thấy đức Phật khi ra đi tu, lúc chưa thành đạo thì Ngài về thăm nhà được
bao nhiêu lần? Một phen đi bao giờ thành đạo mới trở về. Đó là hình ảnh
con người dứt khoát làm được việc mới thôi, không có thái độ chần chờ nửa
tới nửa lui. Nói đi tu mà ít bữa nhớ nhà. Nói đi tu mà lo ở nhà có cơm ăn
không, có áo mặc không? Làm như vậy thì không làm sao thực hiện được cái
bản nguyện của mình. Vì vậy chúng tôi nhắc lại Ngài là cái đích để chúng
ta nhắm, như một vị giáo chủ. Vì Ngài một khi cất bước ra đi, nguyện không
trở lại nếu không đạt đạo. Khi Ngài trở về thăm vua cha, độ tất cả người
thân quyến là sau khi đã đạt đạo. Nhờ thái độ khẳng định đó mà Ngài thành
công.
Giờ đây tôi dẫn một Thiền sư Trung Hoa, Thiền sư Lương Giới, Tổ của tông
Tào Động, khi đi tu Ngài có viết mấy lá thư cho cha mẹ. Đọc thư Ngài ta
mới thấy ý chí người xưa.
Lá
thư thứ nhất tôi dịch từ bản chữ Hán:
“Được nghe, chư Phật ra đời đều do cha mẹ mà có thân, muôn loài sanh
trưởng thảy nhờ trời đất che chở. Cho nên, không có cha mẹ thì chẳng sanh,
không có trời đất thì chẳng trưởng, thảy nhờ ân dưỡng dục, đều thọ đức chở
che.
Song mà, tất cả hàm thức, vạn tượng hình nghi đều thuộc vô thường chưa lìa
sanh diệt. Tuy ơn bú xú nặng nề, công nuôi dưỡng sâu thẳm, nếu đem của cải
thế gian phụng dưỡng trọn khó đáp đền, dùng máu thịt dâng hiến cũng không
được bền chắc. Trong Hiếu kinh nói: “Dù một ngày giết đôi ba con vật để
cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu. Vì sẽ lôi nhau vào vòng trầm luân chịu
muôn kiếp luân hồi.” Muốn đền ơn sâu dầy của cha mẹ đâu bằng công đức xuất
gia. Vì sẽ cắt đứt dòng sông ái sanh tử, vượt qua khỏi biển khổ, đáp ơn
cha mẹ ngàn đời, đền công từ thân muôn kiếp, bốn ơn ba cõi thảy đều đền
đáp. Kinh nói: “Một đứa con xuất gia chín họ đều sanh lên cõi trời.” Con
thệ bỏ thân mạng đời này, chẳng trở về nhà, đem căn trần muôn kiếp chóng
tỏ sáng Bát-nhã.
Cúi mong cha mẹ mở lòng hỉ xả, ý chớ trông mong, học theo gương Phụ vương
Tịnh Phạn và Thánh mẫu Ma-da. Hẹn đến sau kia sẽ gặp nhau trong hội Phật,
còn hiện nay cam chịu lìa nhau. Con chẳng phải quên ơn dưỡng dục, chỉ vì:
“Thời giờ chẳng đợi người.” Cho nên nói “Thân này chẳng thẳng đời này độ,
lại đợi đời nào độ thân này”.
Xin cha mẹ lòng chớ nhớ mong.”
Tụng rằng:
Vị liễu tâm nguyện độ số xuân
Phiên ta tịnh thế mạn thuân tuần
Cơ nhân đắc đạo không môn lý
Độc ngã yêm lưu tại thế trần
Cẩn cụ xích thơ từ quyến ái
Nguyện minh đại pháp báo từ thân
Bất tu sái lệ tần tương tức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân
Dịch:
Chưa rõ nguồn tâm quá mấy năm
Thương nhau mê mải luống trì trầm
Cửa không đã lắm người đắc đạo
Riêng ta trì trệ ở trong trần
Xin viết lá thư từ cha mẹ
Nguyện thông đại pháp đáp từ thân
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu con không thân
Như vậy lá thư này quí vị thấy Ngài cố tình nhắc cho cha mẹ đừng có buồn,
đừng có khóc, mà coi như buổi đầu không có Ngài, không có thân Ngài. Đó là
lá thư thứ nhất từ cha mẹ.
Lá
thư thứ hai: “Con từ lìa cha mẹ chống tích trượng dạo phương Nam, tháng
ngày trôi qua tính đã mười năm, trên đường con đã trải qua muôn dặm.
Cúi mong mẹ đem hết tâm ý hướng về Phật pháp, đừng ôm ấp tình
ly biệt, chớ đứng tựa cửa trông con. Mọi việc trong nhà tùy thời sắp đặt,
việc nhiều thì phiền não thêm nhiều. Phần A Huynh thì nên tận tâm hiếu
thuận, học đòi gương Vương Tường nằm giá, còn Tiểu đệ thì hết sức bắt
chước theo Mạnh Tông khóc măng. Phàm người ở đời phải biết tu thân hiếu đễ
mới hợp lòng trời. Kẻ làm tăng trong cửa không thì mộ đạo tham thiền để
đáp ơn cha mẹ.
Ngày nay hai đường xa cách muôn sông ngàn núi, mượn giấy mực viết vài hàng
để bày tỏ tấc dạ.”
Tụng rằng:
Bất cầu danh lợi bất cầu Nhu
Nguyện nhạo không môn xả tục đồ
Phiền não tận thời sầu hỏa diệt
Ân tình đoạn xứ ái hà khô
Lục căn giới định hương phong dẫn
Nhất niệm vô sanh huệ lực phù
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô
Dịch:
Chẳng cầu danh lợi chẳng cầu Nho
Ưa thích cửa không bỏ thế đồ
Phiền não hết rồi lửa sầu tắt
Ân tình dứt bặt, sông ái khô
Sáu căn giới định gió thơm cuốn
Một niệm vô sanh sức huệ phò
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết, ví như không
Đây là lời thư của Ngài.
Bây giờ đến lá thư của bà mẹ gởi cho Ngài:
“Mẹ cùng con đời trước có nhân duyên mới kết thành tình mẹ con. Kể từ ôm
thai trong lòng, sớm chiều cầu thần khấn Phật nguyện sanh được con trai.
Thai bào đủ tháng mạng sống như chỉ mành, sanh con được toại nguyện quí
như châu bảo. Không nề sự hôi hám của phẩn uế, chẳng ngại sự bú xú nhọc
nhằn. Con vừa thành người dắt đến trường lo học tập. Hoặc khi con đi chơi
về trễ, mẹ đứng tựa cửa trông mong.
Con viết thư về quyết xin xuất gia. Cha đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo
nàn, mẹ trông cậy vào ai? Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có tâm quên con. Từ
khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ! Khổ thay! Khổ
thay!
Nay con lại thệ chẳng về quê, mẹ cũng tùy chí nguyện của con. Mẹ không dám
mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây, chỉ mong con như
Tôn-giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Nếu mẹ
không như vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.”
Người mẹ trả lời cho con như vậy, quí vị thấy tình cha mẹ đối với người đi
tu, là kẻ quên ơn bội nghĩa không biết gì tới cha mẹ. Khi đi tu chúng ta
đặt trọng trách chúng ta là làm sao đạt đạo để giải quyết vấn đề sanh tử
cho mình và cho cha mẹ, cho những người chung quanh, cho tất cả chúng
sanh. Chớ không phải vì muốn bỏ cha mẹ để tìm chỗ an ổn vui chơi qua ngày
hết tháng. Cái cương quyết của chúng ta không phải là cái ý bất hiếu bỏ
cha mẹ phiêu bạt để tìm chỗ an ổn cho chính mình. Chính vì quyết chí muốn
cứu mình, cứu cha mẹ và cứu tất cả chúng sanh cho nên chúng ta mới đi tu.
Vì vậy khi thực hiện bản hoài cao cả đó chúng ta không thể nào chần chờ
nửa tiến nửa lùi, nay thì quả quyết ngày mai thì yếu đuối. Nếu như vậy thì
chúng ta không thể nào tiến xa được. Cho nên phải gan dạ ngay từ buổi đầu.
Biết rằng việc làm đó là bất hiếu với hiện tại nhưng có thể đó là cái cứu
cha mẹ và mọi người ở ngày mai. Cho nên quí vị thấy ngài Động Sơn nhờ lòng
cương quyết, nhất định thành đạo. Ngài ngộ đạo rồi làm trụ trì ngót ba
mươi năm có vị thần Thổ địa muốn gặp Ngài mà không biết làm sao gặp. Một
hôm Ngài đi xuống nhà bếp, Ngài thấy những người trong nhà trù làm đổ bún,
đổ gạo, đổ cơm ở ngoài lang lệ, Ngài mới rầy. Ngài nói: “Của đàn-na thí
chủ không nên hủy hoại.” Ngài mới vừa nói như vậy thì thấy ông Thần quì ở
trước mặt Ngài. Ngài hỏi: Ông là ai? - Tôi là thần Thổ địa, ba mươi năm
rồi tìm yết kiến Ngài mà không gặp. Hôm nay tôi mới thấy Ngài.
Cái ý chí cương quyết đó mới làm được việc như vậy. Ngài là vị Tổ trong
Tông Tào Động mãi cho đến bây giờ. Nếu người xưa mà chần chờ hay là yếu
đuối thì không bao giờ có cái đạo hạnh để bây giờ chúng ta bắt chước theo.
Cho nên chính vì vậy mà tôi mong rằng tất cả những người dù xuất gia hay
là cư sĩ chẳng hạn, nếu chúng ta quyết chí tu thì phải có lập trường hết
sức là vững chắc. Vì việc làm này không phải là việc làm tầm thường đơn
giản, chính là một việc làm cả một đời mình, phải làm sao đạt được. Muốn
đạt được cái đó phải hết sức công phu khó nhọc bền chí lâu dài. Nếu không
bền vững, thì chúng ta đang làm đang tiến, có chuyện gì bận bịu của gia
đình chúng ta bị lùi. Như vậy sự tu không tiến được. Mà không tiến được
chẳng những không cứu được mình, huống nữa là cứu được ai. Cho nên sự tu
hành chánh yếu là để làm sao thoát ly sanh tử. Muốn thoát ly sanh tử phải
bền chí dai dẳng mới làm được việc đó. Tôi đã dẫn ngài Động Sơn qua những
lá thư của Ngài viết về cho mẹ và thư trả lời của bà mẹ cho quí vị thấy
rõ. Người mẹ như bà thân của ngài Động Sơn rất là hiếm. Thương con tràn
trề nhưng sợ ngăn ý chí xuất gia của con thì mẹ có tội, cho nên mẹ không
dám ngăn cản. Nhưng bà mẹ hy vọng rằng một đời này con ráng làm cho xong.
Không phải dặn con đi ít bữa về thăm mẹ mà nói rằng mẹ không dám ngăn cản
con mà mong một đời này con giải quyết cho xong. Lời nói đó chính là một
sức mạnh để cho người con phải nỗ lực làm sao đạt được mới thôi. Vì vậy
ngài Động Sơn đã làm tròn bổn phận của Ngài đối với sự tu hành cũng như
đối với tất cả những người trong gia đình. Ngài quyết rằng Ngài phải đạt
đạo để đền ơn cha mẹ, đền ơn tất cả. Do đó tất cả chúng ta khi đã phát tâm
học đạo thì mọi người ai cũng như ai đều phải lo cố gắng nỗ lực và quyết
chí không tu với tánh cách lưng chừng được.
Gần đây tôi thấy người phát tâm xuất gia không phải ít, mà người giữ được
cái chí xuất gia thì không được nhiều. Nghĩa là sao? Phát tâm xuất gia thì
đông, mà giữ được ý chí xuất gia thì quá ít. Nghĩa là đi chùa vào chùa tu
thì tu, nhưng mà việc nhà cũng không buông được. Như vậy thì có tinh thần
phát tâm xuất gia nếu không phát tâm thì làm sao cạo đầu ở chùa được.
Nhưng cái chí người xuất gia thì phải đạt đạo, làm một việc cho đến chỗ
viên mãn mới thôi thì ít quá, rất là ít. Vì vậy mong rằng tất cả những vị
đã được cái phúc dầy sâu, nếu bây giờ mới xuất gia học đạo thì quí vị nên
nhớ ý chí của người xuất gia, phải làm được cái việc của mình đã nguyện
làm. Đừng nói rằng tôi tu để có phước tiếp tục đời sau tu nữa. Ngài Động
Sơn đã nói: “Thân này chẳng thẳng đời này độ, lại đợi đời nào độ thân
này.” (Ngay thân này thì phải đời này giải quyết cho xong chớ đừng để đời
nào độ nó.) Nay được thân này rồi thì ngay đời này giải quyết cho xong nó
đi, đừng có đợi đời khác, đời khác nữa. Cái lối đợi đời khác là lối ỷ lại
ngu si, để rồi tu một cách lơ mơ chớ không đi tới nơi tới chốn. Cho nên
người xuất gia dù cho thời nào, nếu chúng ta nỗ lực thì đều có lợi ích như
nhau hết. Đừng nói mình đây ở đời mạt pháp cố gắng cũng không tới đâu.
Đừng nghĩ như vậy. Dù cho thời chánh pháp, thời tượng pháp, thời mạt pháp,
nếu chúng ta nỗ lực, đều có kết quả tốt như nhau. Chỉ vì chúng ta không
cố gắng cho nên rồi không giống như thời trước. Những bài thơ này là một
sự cảnh tỉnh lớn lao cho tất cả chúng ta. Tôi nhắc lại những câu kết luận
hai bài kệ của ngài Động Sơn.
Bài kệ trước Ngài nói rằng: (hai câu chót)
Bất tu sái lệ tần tương ức
Thí tợ đương sơ vô ngã thân.
Tạm dịch:
Không nên rơi lệ thường thương nhớ
Xem tợ buổi đầu con không thân.
Bài kệ sau:
Vị báo bắc đường hưu trướng vọng
Thí như tử liễu thí như vô.
Tạm dịch:
Xin nhắc mẹ già thôi đứng ngóng
Ví như đã chết ví như không.
Trong mấy lời đó thấy đầy đủ ý chí của con người khẳng định: Xin thưa với
cha mẹ coi con như đã chết, coi như không có con. Có thái độ dứt khoát như
vậy mới mong làm tròn được nhiệm vụ của mình. Quí vị nên thấy, khi mình đã
xuất gia đối với gia đình thì như mình đã chết. Có coi mình đã chết thì
mới sống được, chớ còn thấy như mình còn sống như ở nhà thì không phải
tinh thần người xuất gia. Đó là điều mà tôi thấy hết sức quan trọng đối
với chúng ta. Còn như câu Ngài nói:
“Phiền não tận thời sầu hỏa diệt. Ân tình đoạn xứ ái hà khô”. Dịch: Phiền
não hết rồi lửa sầu tắt. Ân tình dứt bặt sông ái khô.”
Nghĩa là khi nào mà chúng ta hết phiền não thì lúc đó lửa sầu mới dẹp tắt.
Khi nào ân tình bặt rồi thì sông ái mới khô. Như vậy, chúng ta thấy người
đi tu, nếu để tình cảm gia đình nó ràng buộc không cắt nổi, thì sông ái
không biết chừng nào mới khô được, nó cứ tràn đầy. Sông ái tràn đầy thì nó
cuốn chúng ta trôi, không lúc nào dừng nổi. Đó là tôi nói tinh thần của
ngài Động Sơn.
Còn tinh thần của người mẹ, tôi chỉ cần nhắc câu chót: “Nếu mẹ không như
vậy e phải có tội. Con cần phải giải quyết cho xong.” Thật là bà mẹ biết
dạy con. Còn cứ như: Sao con đi lâu quá không về, hoặc giả làm cái gì ngon
nhắn về đãi. Cứ như vậy hoài thì đi tu một trăm năm cũng chẳng được cái
gì. Như vậy chúng ta thấy rằng người đi tu có hai điều kiện hệ trọng. Điều
kiện thứ nhất là tinh thần dứt khoát của mình. Điều kiện thứ hai là sự
giúp đỡ của cha mẹ bằng cách hiểu đạo khuyên con. Có nhiều người thương
con mà không hiểu đạo, thương con cho xuất gia mà không dạy nó ý chí xuất
gia. Cần làm sao cho con xuất gia rồi cũng tập cho có ý chí xuất gia nữa.
Cái đó mới là cái cao cả của người cha người mẹ. Thiếu cái đó cũng làm cho
người xuất gia hơi khó khăn giải quyết. Cho nên bà chỉ nói rằng mẹ không
mong con như Vương Tường nằm giá, Đinh Lan khắc cây mà chỉ mong con như
Tôn giả Mục-liên độ mẹ thoát khỏi trầm luân tiến lên Phật quả. Mong con tu
hành đắc đạo rồi độ mẹ, đó là điều mẹ mong mỏi chớ không mong gì khác hơn.
Điều đó rất quan trọng cho tinh thần người xuất gia.
Tôi nghĩ rằng năm nay quí Phật tử học tương đối kỹ rồi. Đã học đạo kỹ mà
thiếu ý chí thực hành thì cái đó chưa đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử.
Vì vậy năm nay tôi đặt nặng là muốn tất cả quí vị ai ai cũng đều lập chí
vững trên đường đạo. Nếu là người tại gia khi biết đạo rồi chúng ta cũng
nỗ lực dùng mọi phương tiện để sống hợp với đạo. Còn người xuất gia thì
làm sao phải ứng dụng cái hiểu của chúng ta cho đúng và tự chúng ta gỡ hết
những cái ràng buộc của chính mình. Gỡ cho hết những cái ràng buộc do bản
ngã và ràng buộc do tình lưu luyến của gia đình để chúng ta mạnh dạn tiến
tu. Làm sao cho đời tu chúng ta xứng đáng là của người xuất gia, không hổ
thẹn khi mình nhắm mắt, tiếc một đời không đi tới đâu. Ngày nào mình còn
tu thì xứng đáng là người xuất gia, đến khi nhắm mắt chỉ là một nụ cười:
Một nụ cười từ biệt mọi người chớ không phải là một tiếng khóc nức nở hay
là một hơi thở dài lo sợ. Chúng ta phải cười khi chúng ta tắt thở. Đó là
cái mà chúng tôi mong mỏi nhất. Mong mỏi cho tôi và cho tất cả quí vị, ai
rồi cũng được như vậy. Có như thế sự tu hành của ta mới có ý nghĩa.
Quí vị đã nhận thấy rằng cuộc đời là ảo mộng. Đã là ảo mộng thì còn gì là
quan trọng nữa mà cứ để cái mộng lôi cuốn mình rồi phải chìm trong mê muội
mãi. Chúng ta phải gan dạ, phải mạnh dạn để vượt qua cái mộng. Đó mới là
cái thiết yếu. Cái gá thân mộng có một sự tích tôi sẽ kể cho quí vị nghe
để biết cái hay của người xưa. Như trường hợp một Thiền sư không nói tên,
chỉ do một hành động mà thành danh gọi là “Đả Táo Đọa” tức là một Thiền sư
đập bể ông táo rơi xuống đất. Ngài tu ở vùng núi Xuân Sơn bên Trung Hoa
với một số đồ chúng. Một hôm Ngài dẫn chúng đi dạo trong núi. Khi đến gần
thung lũng thấy có một cái miếu thờ gì Ngài không biết, nhưng thấy dân
chúng làm thịt bò, trâu, heo, gà dâng cúng liên miên, tế tự liên miên. Hỏi
thì dân chúng nói rằng vị thần Táo ở miếu đó linh lắm cho nên họ cúng để
cầu xin cái này cái nọ. Nghe nói như vậy rồi, Ngài cầm gậy vô trong miếu,
Ngài thấy trên chỗ bàn thờ có để một tượng ông Táo. Ngài lấy cây gậy gõ gõ
vào tượng đó nói rằng: “Đây là do gạch đất hợp thành, linh từ đâu lại,
thánh từ chỗ nào có.” Nói xong, Ngài đập xuống một cái, tượng ông Táo lảo
đảo bể ra rồi rơi xuống đất. Khoảng một vài tiếng đồng hồ sau, Ngài đi
ngoài đường, gặp một vị áo xanh đội mũ xanh quì trước Ngài. Ngài hỏi: Ông
là ai? - Con là thần Táo trong miếu đến để tạ ơn Hòa thượng.
Ngài nói: “Ta đã làm gì mà ngươi tạ ơn?”
-
Nhờ ơn Hòa thượng nói lý vô sanh mà con ngộ được. Nhờ đó con sanh lên cõi
trời, buông được cái thân bị đọa đày trong bao nhiêu đời ở tại cái miếu
này.
Nói xong ông đảnh lễ rồi biến mất.
Ông thị giả thấy vậy mới thưa:
-
“Bạch Hòa thượng, con đã hầu Hòa thượng lâu quá mà Hòa thượng không nói lý
vô sanh cho con nghe. Ông thần Táo này có phước gì mà Hòa thượng mới nói
có một câu ông ngộ?”
-
Ta chỉ nói một câu đó, rồi Ngài lập lại cho ông thị giả nghe và hỏi: Ông
hội không?
-
Dạ con không hiểu.
Ngài nói: Bể rồi! Bể rồi! Rơi rồi! Rơi rồi! Ông thị giả liền ngộ.
Như vậy để quí vị hiểu cái chỗ chúng tôi dùng chữ gá. Thân Táo gá vào đất
gạch mà phải ở đó bao nhiêu năm. Còn chúng ta gá vào cái gì? Gá vào đất
nước gió lửa này. Gá rồi bám đó cho là mình. Có đau khổ chưa? Bám vào mình
rồi thì giành hơn giành thua, chấp phải chấp quấy. Bao nhiêu tội nghiệp
cũng do cái mình gá đó tạo ra hết. Nếu bây giờ mình nhớ thân này là cái
mình gá, không có gì là quan trọng hết, biết như vậy là biết được lý vô
sanh. Biết được thân này là giả tạm như tôi đã nói là mộng. Mà mộng thì có
gì thật đâu? Trong khi mộng, sanh cũng mộng, tử cũng mộng thì có gì thật
không. Sanh không thật sanh, tử không thật tử. Mà sanh không thật sanh, đó
là vô sanh. Nhận được như vậy thì lý vô sanh hiện tiền. Ngay thân này,
nhận ra được lẽ thật thì thấy đạo. Thấy đạo thì thoát ly sanh tử. Còn nếu
chúng ta cứ bám vào thân này cho là thật, là quí cái khổ vui của nó, chúng
ta cũng đều quan trọng, cái hơn thua của nó cũng đều cho là quí, tức nhiên
đời mình bị nó chi phối. Nó chi phối cuộc đời hiện tại, chi phối cả lúc
thọ thân khác, chớ không bao giờ hết được. Cho nên ngay thân này mà chúng
ta thức tỉnh, biết được nó là mộng thì tự nhiên chúng ta có thể lần lần
thoát ly được nó, không bị nó cuốn lôi nữa. Vì vậy ông thần Táo chỉ nhờ
nghe câu: “Đây là ngói gạch hợp thành linh từ đâu đến, thánh từ đâu có?”
Nghe câu đó, ông giựt mình thức tỉnh liền buông được cái gạch ngói, và
được sanh lên cõi trời.
Còn chúng ta, khi biết rõ được thân này là do đất nước gió lửa hợp thành,
không phải thật mình thì sao? Coi như nhẹ nhàng biết mấy, nhưng mà không
chịu buông, cứ bám vào đó hơn thua phải quấy đủ thứ hết. Nhiều khi ban đêm
những tối không mưa tôi ngồi ở ngoài, đuổi muỗi cắn, tôi rờ thấy xương,
thấy thịt, thấy một hồi tôi tức cười quá. Cái thân thật không ra gì. Mình
gá vào nó cực quá. Cái này là cái mình gá, gá từng khúc từng mảnh. Như vậy
đó mà cứ cho là mình, rồi bao nhiêu cái dở theo đó phát sanh đủ thứ cái
dở, đồ hôi thúi, dơ dáy, bẩn thỉu, kể ra không thể hết. Vậy mà cứ hài
lòng, động đến nó có bao nhiêu thứ phản đối chống trả mãnh liệt.
Như vậy quí vị thấy chúng ta chỉ cần thức tỉnh được thân này của chúng ta
tạm gá mượn lấy đó làm chiếc bè qua sông, chớ đừng nghĩ nó là thật, cứ lo
bồi bổ tô điểm đủ thứ mà chìm ngay dưới biển không qua sông được.
Đó
là điều tôi nhắc cho tất cả quí vị kể cả Tăng Ni và cư sĩ. Nếu chúng ta
thức tỉnh được điều đó thì chuyện thoát ly sanh tử không khó. Còn nếu
chúng ta mê hoài thì không biết chừng nào ra khỏi bể sanh tử. Cho nên chủ
yếu của Phật nói lý vô ngã là như vậy. Thấy rõ cái này không phải thật ngã
thì tự nhiên mình thoát ly sanh tử. Nếu thấy thật ngã thì ngàn đời không
bao giờ ra khỏi sanh tử, dù quí vị tu hạnh gì rồi cũng thế.
Đó
là một lẽ thật. Vậy thì năm cũ sắp tàn qua năm mới, chúng tôi mong rằng
quí vị tại gia nỗ lực làm đúng với tinh thần học hiểu của mình. Còn xuất
gia ráng lập chí đúng với tinh thần người xuất gia, để rồi chúng ta chuẩn
bị cho năm mới, cương quyết tiến tới mục đích mình đã định. Đừng để năm
qua rồi lại năm qua, buông xuôi thì rất đáng tiếc cho đời tu của mình.
Mong quí vị chuẩn bị cho năm tới đẹp đẽ hơn, mạnh mẽ hơn, cứng cỏi hơn và
đạt được sở nguyện của mình, chớ đừng để lôi thôi nữa.
Đó
là mong ước của tôi.
]
|