PHÁP MÔN KHÔNG HAI
XUÂN GIÁP TÝ NĂM 1984
Năm nay là năm Giáp Tý, dương lịch 1984, tất cả quí vị đã đến đây chúc
mừng năm mới, tôi sẽ có nhiều lời nói chuyện cùng quí vị, gọi là nhắc nhở
nhau trên con đường tu hành, để mỗi người sang năm mới này có đầy đủ những
tư liệu tiến tu cho được sớm giác ngộ và giải thoát.
Điều căn bản mà chúng tôi muốn nói hôm nay là “PHÁP MÔN KHÔNG HAI” hay nói
cách khác là “BẤT NHỊ PHÁP MÔN”. Nói không hai đây, tôi sẽ dẫn từ kinh cho
đến thiền, để quí vị nghiệm và nghiền ngẫm thấy lý đạo rõ ràng, khiến trên
đường tu chúng ta khỏi ngờ vực, và khỏi mắc phải những bệnh thiên chấp
hoặc bên này hoặc bên nọ. Tất cả người tu, muốn thoát khổ được vui không
gì hơn, phải dùng trí tuệ Bát-nhã soi sáng phá tan mọi chấp nê của mình.
Nhờ phá được cái chấp mình mới hết khổ. Vì vậy mở đầu là kinh Bát-nhã. Quí
vị nhớ trong kinh Bát-nhã nói về Pháp Môn Không Hai thế nào? Đây tôi dẫn
như câu: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Như vậy sắc và không là
hai, phải vậy không? Mà ở đây tinh thần Bát-nhã cho chúng ta thấy sắc
chính là không, không chính là sắc; thì như vậy có hai không? Ngay cái sắc
đã là không, ngay cái không đã là sắc, thì làm gì có hai? Đó là tinh thần
Bát-nhã. Tại sao sắc tức là không, không tức là sắc? Đây tôi nói hai mặt.
Mặt thứ nhất là trong cái sắc có không, tức là cái không và cái sắc tương
đối. Trong cái sắc này có không, trong cái không này có cái sắc. Trong cái
sắc có không là thế nào? Chắc rằng quí vị cũng nghe rõ với tinh thần khoa
học, gần đây nhất có những nhà khoa học nói rằng dùng kính hiển vi khuếch
đại tối đa nhìn thấy trong cái sắc này phần không nhiều hơn phần sắc. Như
vậy, chính trong cái có đó, trong cái sắc đó đã chan chứa cái không ở
trong rồi. Cũng như về thân chúng ta, quí vị thấy cái sắc chất này cái
không nhiều hay cái sắc nhiều? Mỗi lỗ chân lông là thưa hở, là trống, rồi
lỗ mũi, lỗ tai, cái miệng, tất cả đều là trống hở cho nên mới có không khí
ra vào, mới có thức ăn lưu chuyển ở trong v.v... Chính cái thân sắc chất
này, đã mang đầy tính chất không ở trong. Cũng chính cái không mà chúng ta
thấy đó, mang đầy đủ hình sắc, nhưng vì tế vi nhỏ nhít mà chúng ta không
thấy được. Mắt thấy dường như không mà thật ra nếu dùng kính hiển vi nhìn
thì nó hoàn toàn có tất cả thứ ở trong đó chớ không phải là không? Như vậy
không, không hẳn là không, sắc không hẳn là sắc. Trong sắc có không, trong
không có sắc. Lối nói sắc là không đó là lối nói tương đối không đúng lẽ
thật; mà trên lẽ thật nó không hẳn là không, không hẳn là sắc mà ngay cái
này đã có cái kia, ngay cái kia đã có cái này. Như vậy thấy rõ không và
sắc là hai cái đối đãi, cho đến thị phi, hữu vô v.v... đều nằm trong cái
đối đãi đó hết. Tất cả cái đối đãi đó đều là không thật, chỉ là gượng nói,
tạm nói, chớ không có cái thật của nó. Vì vậy, với trí tuệ Bát-nhã thấy
không có cái không ngoài cái sắc và không có cái sắc ngoài cái không. Đó
là tôi nói cái “Không đối đãi”. Nếu nói cái không của bản tánh, thì sắc
chất có là do duyên hợp mà có. Bởi duyên hợp mà có, nên nó có mà không
phải tự có, do nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân hợp lại thành. Do nhiều thứ
hợp thành, nên nó không có cái thể cố định của nó. Không có thể cố định
của nó mà tùy duyên. Đủ duyên thì hợp, hợp gọi là có, thiếu duyên thì tan,
tan gọi là không. Vậy thì cái hiện có của nó là cái hiện có của duyên, chớ
không có cái tự tánh, bởi không có tự tánh nên nói là không. Tuy mắt thấy
nó hiện có mà tự tánh nó là không. Cũng như cái không, tuy không mà không
cố định là không, tại sao? Vì đủ duyên hợp thành sắc. Đang trống không mà
nếu có một cái gì tụ họp lại hoặc là đất, là đá, là nhà cửa v.v... thì
ngay trong không biến thành sắc, ngay trong sắc đổi thành không.
Đứng về mặt thứ hai nói, cái sắc và không đều là do tướng của duyên. Đã là
tướng của duyên nên nó không bị tự tánh. Bởi không có tự tánh nên có cũng
vẫn là không. Đó là trí Bát-nhã thấy tường tận như vậy. Cái có đã là
không, thì không chấp cái có thật có, cũng như cái không là có, thì không
chấp cái không thật không. Không chấp cái có thật có, không chấp cái không
thật không, khi mình nói cái đó là có mà có người khác nói là không thì
mình nói làm sao, mình nên cãi không? Bởi mình đã thấy có không thật có,
không không thật không thì có cần cãi làm gì? Bởi thấy có là thật có,
không là thật không, nên mình nói có, mà người ta nói không, mình không
chịu, vì không chịu nên sanh cãi. Như vậy, quí vị thấy rõ rằng khi thấy
sắc không, không hai thì chúng ta mất hết những niệm tranh hơn tranh thua,
tranh phải tranh quấy. Nếu chúng ta không tranh hơn thua phải quấy thì tâm
chúng ta có phiền não hay không? Sở dĩ chúng ta giận người này buồn người
kia là tại sao, tại mình nói cái này phải, mà họ nói quấy. Mình nói cái
này quấy họ nói phải. Hai cái khác nhau nên có sự chống đối, chống đối thì
bực bội. Mình nói có mà họ nói không, thì mình bực bội không chấp nhận. Đó
là sanh phiền não. Bấy giờ chúng ta thấy rõ tường tận: Sắc và không, không
hai. Sắc không, không hai, thì có không cũng không hai, phải quấy cũng
không hai, tốt xấu cũng không hai. Tất cả đối đãi đều không có thật. Bởi
không có thật, hay không cố định, nên chúng ta đừng chấp. Chúng ta không
chấp thì cái khổ không còn. Đó là một lối tu rất là dễ, rất là gần. Cho
nên lý sắc không của Bát-nhã cho chúng ta thấy rõ tất cả sự vật ở thế gian
này, trên phương diện ngôn ngữ thì tạm đặt, hoặc là có hoặc là không, hoặc
là thiện, hoặc là ác, hoặc là phải, hoặc là quấy. Tạm đặt để dùng thôi,
không phải là cứu kính, không phải là chân lý. Hiểu như vậy chúng ta đừng
chấp. Nếu không chấp thì chúng ta sẽ tự tại trước mọi hình tượng đổi thay,
trước mọi ngôn ngữ sai biệt, không còn gì phiền não hết. Vì vậy, quí vị
nhớ trong nhà Phật luôn luôn nói phiền não tức bồ-đề, phải vậy không?
Không phải rời phiền não mà có bồ-đề riêng, như thế gian nói: “tôi phiền
não quá”, phiền não là tâm điên đảo rối rắm, bồ-đề là tâm giác ngộ. Người
ta nói phiền não là khác với giác ngộ, giác ngộ là khác với phiền não,
nhưng với tinh thần Đại thừa thấy ngay phiền não tức là bồ-đề, ngay bồ-đề
không khéo thì thành phiền não. Như vậy phiền não tức bồ-đề là sao? Bồ-đề
tức phiền não là sao?
Tôi thí dụ, mình lên chùa tụng kinh là bồ-đề, mà tụng kinh người đánh mõ
cứ đánh chậm, lùi lùi lại hoài, lúc đó bồ-đề dấy phiền não. Mình lên chánh
điện tụng kinh là phát tâm bồ-đề, tâm giác ngộ, mà người đánh mõ không vừa
ý, mình bực mình muốn sân lên, như vậy bồ-đề dấy phiền não rồi. Sao là
phiền não tức bồ-đề? Ví dụ: Mình đang giận một huynh đệ nào đó, giận đỏ
mặt. Đang giận đỏ mặt là phiền não. Khi ấy bất thần có một sư huynh đi
ngang thấy nói: “Đã tu mà giận sao?” Mình xấu hổ hết giận, tâm lặng lẽ
thanh tịnh lại. Vậy phiền não thành bồ-đề, khỏi tìm kiếm đâu xa hết. Quí
vị thấy phiền não, bồ-đề đâu có xa, tâm dấy lên điên đảo là phiền não,
lặng xuống thanh tịnh là bồ-đề. Ngay trong bồ-đề không khéo thành phiền
não. Đâu có cái thứ hai ở ngoài chạy vô. Chúng ta khéo tu biết rõ hai cái
không có rời nhau, ngay phiền não chuyển thành bồ-đề, không khéo bồ-đề
biến thành phiền não, hiếm gì người từ bồ-đề biến thành phiền não. Đây là
tôi nói một chút ít để quí vị hiểu. Lý sắc tức thị không, không tức thị
sắc cũng tương tợ như vậy. Đó là dẫn đại khái kinh Bát-nhã cho quí vị thấy
lý không hai.
Đến kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa nếu quí vị tụng phẩm Tự tức là phẩm mở đầu, quí vị thấy Phật
dạy điều gì trong ấy? Phật không nói câu nào hết. Thấy Ngài ngồi kiết già
nhập định, lông trắng giữa chân mày phóng một luồng hào quang soi thấu đến
cõi trời Hữu Đảnh, nên nương theo hào quang đó, người ta thấy trong đó các
vị Bồ-tát tu nhân gì được thành đạo, tu nhân thế nào thành đạo thế nào,
thành quả thế nào đều rõ ràng. Luồng hào quang đó soi thấu xuống địa ngục
A-tỳ, đại chúng nương hào quang thấy người nào tạo nhân gì, tạo nghiệp gì
đọa địa ngục thứ mấy, thấy rõ hết. Nhân nào cũng biết, từ nhân địa ngục,
ngạ quỉ, súc sanh thấy rõ, còn nhìn lên thì nhân sanh các cõi trời cho tới
nhân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đều thấy tu nhân nào được
quả nào thấy rõ ràng hết. Như vậy Phật muốn nói cái gì? Chân mày là hai
bên, phải vậy không? Ở giữa là sao? Là không hai bên, hào quang là tượng
trưng cho trí tuệ, giữa chân mày là không kẹt hai bên. Cái trí tuệ không
mắc kẹt hai bên đó mới thấy được tột cùng lý sanh tử luân hồi, tột cùng lẽ
giải thoát thành Phật. Trí không mắc kẹt hai bên đó, trong kinh Pháp Hoa
gọi là Tri kiến Phật. Nếu quí vị đọc lại thấy rõ ràng, bởi Tri kiến Phật
(trí không mắc kẹt hai bên) là cái trí thấy rõ nhân sanh tử luân hồi, cũng
như thấy rõ cái nhân và quả của Bồ-đề Niết-bàn giải thoát. Như vậy người
nào sống với trí đó, người đó sẽ thành Phật. Vì Phật là thấy rõ con đường
luân hồi sanh tử của chúng sanh, nhân thế nào, quả thế nào đều biết rõ
Phật mới dạy. Và Ngài cũng biết rõ nhân thế nào, quả thế nào trên con
đường giải thoát, Ngài mới dạy. Như vậy, thấy rõ hai manh mối đó và kết
quả của hai con đường đó, thấy rõ không nghi ngờ nữa đó tức là Phật. Vì
vậy Tri kiến Phật là trí tuệ không dính mắc hai bên, mới thấy rõ lý luân
hồi sanh tử và lý giải thoát sanh tử, không còn nghi ngờ mà đạt tới chỗ
viên mãn, đó là Phật. Đến phẩm thứ mười hai là phẩm Đề-bà-đạt-đa. Quí vị
nhớ bà Long Nữ bao nhiêu tuổi? Người ta kêu nàng Long Nữ, nhưng tôi kêu bà
Long Nữ, vì Phật nói kinh trên hai ngàn năm rồi, thì kêu bà gì mới vừa? Vì
trong hội Pháp Hoa là nàng Long Nữ tám tuổi, nay trên hai ngàn năm rồi thì
kêu bà gì mới được? Tôi kêu bà cũng là chưa xứng đó. Bà Long Nữ do ngài
Văn-thù giáo hóa nhận ra Tri kiến Phật. Tri kiến Phật không có hai bên thì
có mắc kẹt nam nữ hay không? Không mắc kẹt nam nữ, vì nam nữ là hai bên mà
Tri kiến Phật là không kẹt hai bên (nam nữ). Than ôi! Gần đây người ta tu
hành lại cầu chuyển nữ thành nam để tu hành tinh tấn giáo hóa chúng sanh,
chớ mang thân nữ nghiệp chướng ê chề tu hành không tiến. Cứ nghĩ như thế
thật là xa xôi quanh co. Ngay nơi Tri kiến Phật không có nam nữ, mình cứ
sống với cái Tri kiến Phật đó. Không có nam nữ thật, chuyển nữ thành nam
làm gì cho mất công. Bà Long Nữ khi nhận ra Tri kiến Phật, Bồ-tát Trí Tích
hỏi Bồ-tát Văn-thù, ngài Văn-thù giáo hóa ở Long cung có vị nào ngộ đạo
chưa, ngài Văn-thù nói, có. Giây lát bà Long Nữ xuất hiện, ngài Trí Tích
và ngài Xá-lợi-phất nghi. Vì Phật nói người nữ có chín điều chướng tu hành
không thành Phật. Thành ma vương còn không được, huống nữa là thành Phật.
Bà Long Nữ mới tám tuổi, còn là con nít, trẻ con đã là tệ, lại là nữ nữa,
cộng thêm là rồng, rồng tức là súc sanh. Ba thứ tệ như vậy, mà ngài
Văn-thù nói đó là nguời đã ngộ đạo thì làm sao ngài Xá-lợi-phất tin nổi.
Cho nên, ngài Xá-lợi-phất không tin, làm sao con người như vậy mà thành
Phật, ngộ đạo tức sẽ thành Phật. Bà Long Nữ biết hai ngài không tin mình,
nên đến trước Phật lấy hạt châu trong áo dâng lên Phật, Phật nhận để lên
bàn, bà xoay lại hỏi hai ngài Trí Tích và Xá-lợi-phất:
-
“Các ngài thấy Thế Tôn nhận hạt châu của tôi dâng, lâu hay là mau?”
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Mau lắm!”
Bà
Long Nữ nói: “Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.”
Liền đó thấy bà sang phương Nam ở nước Vô Cấu chuyển thân thành Bồ-tát,
thành Phật liền. Nhờ cái gì mau thành Phật lắm vậy? Nhờ bà nhận ra Tri
kiến Phật, là cái trí không mắc kẹt hai bên. Trí đó không nam không nữ nên
không bị chướng, còn cái thân nghiệp chướng sâu dầy của người nữ (tôi nói
đây không phải chê) theo trong kinh nói là đứng trên nghiệp tướng mà nói,
còn cái Tri kiến Phật là đứng trên Phật tánh mà nói hay trên pháp thân mà
nói. Nhìn trên Phật tánh hay pháp thân thì không có nam nữ. Bởi không có
hai làm gì có nam nữ, còn thấy nam thấy nữ , là nhìn ở trên nghiệp tướng
tương đối. Nghiệp tướng là tương đối, là hư giả đâu có thật. Vậy tại sao
mình khư khư chấp cái giả rồi khổ sở mong chuyển cái giả này qua cái giả
kia, chi cho cực, phải vậy không? Biết rõ cái giả này giả rồi, thì cái giả
nữ giả, cái giả nam cũng giả, ngay đó mình sống với cái thật không nam
không nữ cho khỏe. Quí vị thấy rõ nhớ không thấy hai, là trí tuệ siêu
thoát cái chấp tương đối. Trí tuệ đó là Tri kiến Phật, cho nên bà Long Nữ
thành Phật chỉ trong chớp mắt. Quí vị tu theo đường lối này cũng vậy. Làm
sao thành Phật trong chớp mắt, khỏi chuyển nữ thành nam gì hết. Đó là kinh
Pháp Hoa.
Đến kinh Duy-ma-cật.
Trong kinh Duy-ma-cật về phẩm “Bất Nhị Pháp Môn”, trong phẩm này có cả
thảy ba mươi hai vị Bồ-tát giải thích về Pháp môn bất nhị. Tôi kể vị
Bồ-tát thứ nhất là Bồ-tát Pháp Tự Tại giải thích về Pháp môn bất nhị như
vầy: “Sanh diệt là hai, pháp xưa chẳng sanh nay chẳng diệt, được vô sanh
pháp nhẫn, gọi là nhập Pháp môn bất nhị (vào pháp môn không hai).”
Sanh diệt là hai, đây là sanh, kia là diệt, thấy hai cái đó là hai bên,
giờ cái sanh không thật sanh, cái diệt không thật diệt thì không hai, thấy
được cái lẽ không hai đó là nhập, là được vô sanh pháp nhẫn, là nhập Pháp
môn bất nhị.
Pháp môn bất nhị là không mắc kẹt hai bên. Không mắc kẹt hai bên là nhập
Pháp môn bất nhị. Kế đó mỗi vị Bồ-tát đều trình bày từng cặp như vậy, tức
là hai cái, nào là động tịnh v.v... cũng giống hệt như vậy, ở đây chúng
tôi không kể. Cuối cùng ngài Văn-thù cũng trình bày về Pháp môn không hai.
Nghĩa là dùng ngôn ngữ để dẹp ngôn ngữ. Ngài Văn-thù trình bày xong, Ngài
nói với ông Duy-ma-cật: Chúng tôi đã trình bày về lý Pháp môn bất nhị
xong, tới phiên nhân giả, nhân giả nên nói về Pháp môn bất nhị cho chúng
tôi nghe. Ngài Duy-ma-cật lên tòa ngồi kiết già rồi làm thinh. Khi ông
Duy-ma-cật lặng thinh thì ngài Văn-thù khen: “Hay thay, hay thay, cho đến
không có văn tự ngữ ngôn, mới là chân thật nhập Pháp môn không hai.” Chân
thật nhập Pháp môn bất nhị là không có ngôn ngữ. Tại sao vậy? Vì mở miệng
là thành hai mất rồi, bởi vì ngôn ngữ luôn luôn lập trong đối đãi. Nói
phải thì có quấy, nói có rồi có không, nói hơn thì có thua, nói đen rồi có
trắng, nói tốt thì có xấu, luôn luôn như vậy, mở miệng là nằm trong cái
hai. Vì vậy ngài Duy-ma-cật ngồi lặng thinh, được Bồ-tát Văn-thù khen. Đó
là chỗ không còn ngôn ngữ, chỗ đó mới thật là nhập Pháp môn bất nhị. Tôi
đã dẫn phần kinh rồi, bây giờ tới Thiền sư.
Trước là Tổ Tăng Xán. Tổ Tăng Xán là Tổ thứ ba ở Trung Hoa. Bài “Tín Tâm
Minh” của Ngài tôi đọc vài đoạn cho quí vị nghe để thấy:
“Chí đạo vô nan, Duy hiềm giản
trạch
Đản mạc tắng ái, Đổng nhiên minh bạch
Hào ly hữu sai, Thiên địa huyển cách
Đạo đắc hiện tiền, Mạc tồn thuận nghịch.”
Tôi chỉ dẫn hai đoạn thôi. Bốn câu trên Ngài nhấn mạnh hai chữ tắng ái.
“Đản mạc tắng ái”, nghĩa là chỉ chớ yêu ghét thì “đổng nhiên minh bạch” là
rõ ràng sáng suốt. Tiếp theo “đạo đắc hiện tiền” nghĩa là muốn thấy cái
chân thật hiện tiền (trước mắt), thì “mạc tồn thuận nghịch” là chớ còn
thuận nghịch. Nếu còn thuận nghịch thì không có hiện tiền, nếu còn yêu
ghét thì không thể rõ ràng minh bạch. Ngài chỉ cho chúng ta thấy người còn
thấy hai, là còn ở trong cái kẹt. Tôi giải thích từ đầu:
“Chí đạo vô nan”: Chí đạo là cái đạo tột cùng, cái đạo đó không khó, mà
tại sao khó? “Duy hiềm giản trạch”: Chỉ bởi mình giản trạch. Giản trạch là
sao? Là chọn lựa, có một có hai, có tốt có xấu, có phải có quấy đó. Bởi
giản trạch nên chí đạo trở thành nan. Chớ chí đạo thì vô nan, vì giản
trạch mà trở thành nan mất rồi. Như vậy, Ngài mới chỉ cái lỗi, bởi giản
trạch nên mới có yêu ghét. Nếu dứt được yêu ghét thì rõ ràng minh bạch,
chí đạo hiện tiền rõ ràng minh bạch, chớ không có gì hết. Sau đó Ngài bảo,
nếu mình còn có một mảy may sai biệt, thì xa cách với đạo như trời với
đất. Vậy muốn được thấy chí đạo hiện tiền, thì đừng còn thuận nghịch. Yêu
ghét, thuận nghịch là những vế chỉ về hai; cái hai mà mất rồi, thì chí đạo
hiện tiền; cái hai mà mất rồi, thì rõ ràng minh bạch không nghi ngờ nữa.
Đây Tổ Tăng Xán ngài chỉ cho chúng ta rõ ràng, cái cứu kính thấy đạo phải
rời cái chấp hai phải không?
Bây giờ đến Lục Tổ. Lục Tổ ngài dạy chúng ta sao? Đây trong phẩm “Phó
Chúc”, ở kinh Pháp Bảo Đàn, Ngài nói: Nay tôi dạy các ông nói pháp chẳng
mất bản tông, nếu người hỏi “có” đem “không” đối, hỏi “không” đem “có”
đối; hỏi “phàm” lấy “thánh” đối, hỏi “thánh” lấy “phàm” đối. Như hỏi thế
nào là có? Phải nói bởi không mà có. Hỏi thế nào là không? Bởi có thành
không. Nói vậy là giải thích có và không là đối đãi, có và không nương
nhau. Nhân cái không mà nói có, có không không có thật. Nếu thấy có không
không thật thì phàm thánh không thật, tốt xấu cũng không thật, hơn thua
cũng không thật, phải quấy cũng không thật. Nhưng mà mình có chịu chấp
nhận sống với phải quấy không thật đó không? Hơn thua không thật không?
Chắc không chịu, nếu chịu sống với cái không thật là Thánh mất rồi. Tại sợ
làm Thánh buồn, nên ưng làm phàm, rồi chấp nhận phải quấy, cho nên gặp
nhau thì ngồi nói chuyện phải quấy. Bởi muốn làm phàm cho nên chấp nhận
hơn thua, tốt xấu, vì vậy gặp nhau thì nói chuyện hơn thua, tốt xấu, nói
người này tốt người kia xấu, người này phải người kia quấy, người này hơn
người kia thua, cái này hay cái nọ dở. Cứ như vậy nói hoài, nói không
cùng, do đó làm phàm mãi không thôi. Bây giờ muốn làm Thánh thì sao? Chỉ
lần bỏ hai cái đó, đừng nói phải nói quấy, đừng nói hơn nói thua, đừng nói
tốt nói xấu v.v... Những cái đó thấy đều không thật. Thấy không thật thì
không chấp, mà không chấp thì phiền não từ đâu mà sanh, mà bỏ những cái đó
dễ không? Người xưa đã nói: “điểm thiết hóa thành kim ngọc dị, khuyến nhân
trừ khước thị phi nan”, nghĩa là chỉ sắt biến thành vàng ngọc dễ, khuyên
người dẹp bỏ phải quấy khó. Bỏ được phải quấy khó lắm. Tại sao khó lắm
vậy? Tại vì cái nghiệp chủng chúng sanh nó sâu dầy quá phải không? Quí vị
nhớ nói phải nói quấy, nói hơn nói thua, nói tốt nói xấu đều là cái nói
của phàm phu. Cái chủng nghiệp phàm phu nó sâu quá nên ngồi lại thì cứ như
vậy mà tiếp tục. Bây giờ bỏ hết những cái đó, dừng hết đừng thấy phải quấy
thật, đừng thấy tốt xấu thật, đừng thấy hơn thua thật, đừng thấy có không
thật v.v..., tất cả những cái hai bên mình không chấp nữa, đó là trí tuệ
của thánh nhân, là Tri kiến Phật, dễ hay khó. Bảo quí vị làm cái gì? Chỉ
cần đừng mắc kẹt hai bên là Thánh mất rồi, tìm đâu cho xa. Đừng chấp như
vậy là Thánh, cho nên người tu muốn thoát khỏi những cái phàm tục thì phải
ứng dụng triệt để cái thấy không hai bên đó, phải thoát khỏi cái thấy hai
bên. Nếu chúng ta thoát được cái thấy hai bên là chúng ta đã thoát ly được
sanh tử, còn mắc kẹt trong cái hai bên, là chúng ta đi trong vòng sanh
tử. Bởi vì không thấy hai bên là trí tuệ siêu sanh tử, gọi là Tri kiến
Phật hay Phật tuệ, còn nếu thấy hai bên là trí tuệ của phàm phu là sanh
tử.
Cho nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên. Bây giờ tới
Hòa thượng Thạch Đầu.
Có
vị Tăng hỏi: Thế nào là giải thoát?
Ngài trả lời: Ai trói ngươi?
Hỏi: Thế nào là Tịnh độ?
Ngài trả lời: Cái gì làm nhơ ngươi?
Hỏi: Thế nào là Niết-bàn?
Ngài trả lời: Ai đem sanh tử đến cho ngươi?
Như vậy ngài Thạch Đầu có trung thực với Lục Tổ dạy không? Ngài Thạch Đầu
trả lời có mắc kẹt hai bên không? Hỏi giải thoát thì Ngài dùng triền phược
tức trói buộc để đáp giải thoát, hỏi Tịnh độ thì Ngài dùng cái uế mà đáp,
hỏi Niết-bàn thì Ngài dùng sanh tử mà đáp, phải vậy không? Như vậy để
chúng ta thấy rằng, nếu sanh tử không thật thì Niết-bàn cũng không thật,
tịnh không thật thì uế cũng không thật, giải thoát không thật thì triền
phược cũng không thật. Hai cái đều là đối đãi tạm có không thật. Bởi không
thật mà chấp tức là ngu si. Vì chấp là thấy có thật. Cái gì mình chấp đều
là do thấy nó thật. Nếu thấy nó giả thì hết chấp. Quí vị xét thấy phải
không? Thí dụ có người chửi mình là con chó, mà mình biết lời nói đó giả
dối không thật, thì mình có giận không? Nếu họ nói mình là con chó, mình
giận đùng đùng lên, là mình thấy lời nói đó có thật. Bởi thấy thật nên mới
giận. Như vậy, thấy không thật thì mọi cái chấp hết. Cái chấp hết thì khổ
đau mới hết hay không? Tu để thoát khổ đau. Chấp là nguồn gốc của khổ đau.
Tu là để giải thoát, mà chấp là cái triền phược không giải thoát nổi. Cho
nên các Thiền sư ứng dụng triệt để lối phá chấp hai bên đó. Đó là ngài
Thạch Đầu.
Đây tới ngài Mục Châu.
Thiền sư Mục Châu là sư huynh của Tổ Lâm Tế.
Có
vị Tăng hỏi: Lấy một lớp dẹp một lớp thì chẳng hỏi, khi chẳng lấy chẳng
dẹp thì thế nào?
Ngài đáp: Hôm qua trồng trà, ngày nay trồng dưa.
Là
thế nào? Nói lấy một lớp dẹp một lớp thì không hỏi, nghĩa là tôi không hỏi
cái lấy cái dẹp, tôi không hỏi cái hai bên. Bây giờ chẳng lấy chẳng dẹp,
tức bỏ cả cái hai bên thì lúc đó làm sao? Ngài nói: hôm qua trồng cà, hôm
nay trồng dưa là sao? Nếu tôi nói ra thì hết đi tức là dành phần của quí
vị hết rồi. Đó là hình ảnh của người xưa vậy.
Đến một hình ảnh nữa, là câu chuyện gần đây tôi kể cho quí vị nghe. Đó là
chuyện ngài Sơ Sơn hỏi đạo ngài Qui Sơn. Ngài Sơ Sơn là một Thiền khách
đến chỗ ngài Qui Sơn để hỏi đạo. Khi đến nơi, ngài Sơ Sơn thưa rằng:
-
Con được nghe Hòa thượng nói: “Câu có câu không như bìm leo cây.” Bỗng
dưng cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào?
Câu hỏi này giống như câu hỏi ở trên không? Giống hệt, bởi vì “câu có câu
không như bìm leo cây”, tức là có và không Tổ Qui Sơn ý nói có không giống
như cây và dây bìm. Dây bìm và cây là hai, phải vậy không? Nó nương nhau.
Có và không cũng nương nhau là hai. Bây giờ, con không hỏi cái hai nữa;
khi cây ngã bìm khô thì câu về chỗ nào? Là khi hết hai rồi thì lúc đó sao?
Ngài Qui Sơn cười hả! hả! Mà không nói thêm câu nào hết. Ngài Sơ Sơn thấy
ngài Qui Sơn cười hả hả thì tức mình quá, thưa: Con từ bốn nghìn dặm mang
khăn gói đến đây hỏi đạo, mà Hòa thượng đùa như vậy. Khi đó, ngài Qui Sơn
kêu: Thị giả! Đem tiền hoàn lại cho Thượng tọa này. Thôi bây giờ tôi hoàn
tiền lại, công ông đi xa đó. Rồi Ngài dặn: Sau sẽ có con rồng một mắt vì
ông mà điểm phá.
Ngài Sơ Sơn từ giã ra đi. Ngài đi một thời gian lâu xa, đến một Thiền sư
là ngài Huệ Chiêu. Huệ Chiêu là một Thiền sư có một con mắt. Khi đến ngài
Huệ Chiêu, ngài Sơ Sơn đảnh lễ thưa hỏi. Ngài Huệ Chiêu hỏi:
-
Ông từ đâu đến?
Ngài Sơ Sơn đáp:
-
Từ Qui Sơn đến.
Ngài Huệ Chiêu hỏi:
-
Có những gì ở Qui Sơn, kể lại nghe.
Ngài Sơ Sơn thuật lại, đến đó hỏi như vậy, Tổ Qui Sơn cười như vậy.
Ngài Huệ Chiêu nói:
-
Qui Sơn đầu chánh, đuôi chánh, chỉ vì không gặp tri âm.
Ngài Sơ Sơn nghe, không hiểu gì hết, nên đặt câu hỏi lại với ngài Huệ
Chiêu.
-
Khi cây ngã bìm khô rồi câu về chỗ nào?
Ngài Huệ Chiêu liền nói:
-
Nụ cười của Qui Sơn lại thêm tươi.
Ngay đó, ngài Sơ Sơn ngộ đạo. Khi ngộ đạo rồi, Ngài nói, nguyên lai trong
tiếng cười của Qui Sơn có đao.
Ngang đó xong. Có một Thiền sư sau này là ngài Hoằng Trí làm bài tụng bốn
câu:
“Thọ đảo đằng khô vấn Qui Sơn,
Đại tiếu ha ha khởi đẳng nhàn.
Tiểu lý hữu đao huy đắc phá,
Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.”
Tôi tạm dịch:
Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn,
Ha hả cười to há rỗng trơn,
Đao sẵn trong cười xem được thấu,
Không đường bàn nghĩ bặt mối mang.”
Đó
là bài tụng. Qua bài tụng quí vị thấy Ngài nói gì?
“Bìm khô cây ngã hỏi Qui Sơn”, là lập lại câu hỏi của ngài Sơ Sơn.
“Ha hả cười to há rỗng trơn”, cười ha hả đó không phải là cười suông đâu,
nên nói:
“Đao sẵn trong cười xem được thấu”, là biết trong tiếng cười có đao là đã
ngộ rồi, chừng đó mới thấy sao?
“Không đường bàn nghĩ bặt mối mang”, chỗ đó không có đường nói năng, suy
nghĩ bặt hết, mọi mối mang, manh mối không còn. Quí vị thấy chỗ đó không?
Bây giờ, tôi có thể đổi lại câu nói rằng trong tiếng cười của Qui Sơn có
đao, tôi nói trong nụ cười của Qui Sơn có cam lồ được không? Quí vị thấy
được không? Được. Tại sao nói đao, lại nói cam lồ mà được? Quí vị mới
thấy, lý đạo sâu kín mà nó lại hiện tiền. Ngài Qui Sơn cười, đối với ngài
Sơ Sơn lúc đó tưởng Ngài đùa với mình, khi mình đang khao khát, băn khoăn
tới để hỏi đạo, mà hỏi rồi Ngài chỉ cười mà không nói một lời, không tức
sao được, phải vậy không? Vì thế, Sơ Sơn nói: Con từ ngàn dặm mang khăn
gói đến mà Hòa thượng đùa như vậy. Nhưng ngài Qui Sơn bình tĩnh nói thôi
lấy tiền trả thù lao cho công ông đi xa, chớ không nói gì hết. Mặc Sơ Sơn
tức tối, ngài Qui Sơn không nói thêm một câu. Như vậy, tiếng cười của ngài
Qui Sơn cười để mà cười hay cười để làm gì? Như vậy cái cười của Qui Sơn
và cái im lặng của Duy-ma-cật có giống nhau không? Tại sao cười và im lặng
mà giống nhau? Nếu cái cười của Qui Sơn và cái im lặng của Duy-ma-cật
giống, thì trong tiếng cười có đao hay trong tiếng cười có cam lồ cũng
giống, phải vậy không? Mà thấy được như vậy đó là sao? Nếu thấy trong
tiếng cười có đao, là người đó xem được thấu, còn nếu thấy trong tiếng
cười có cam lồ thì xem cũng được thấu. Tại sao cười và im lặng mà giống?
Câu chót của bài tụng: “Ngôn tư vô lộ tuyệt cơ quan.” Vì chỗ đó không còn
hai bên rồi, đâu còn lời để nói, đâu còn chỗ để nghĩ, cho nên bặt hết mối
mang. Chỗ bặt hết mối mang chỉ còn một tiếng cười, chỉ còn cái im lặng. Vì
vậy hiểu được rồi, thấy cười, hoặc thấy im lặng, là thấy được chỗ cuối
cùng đó. Còn nổi tức tối như ngài Sơ Sơn thì mang gói đi nữa.
Quí vị thấy cái chỗ tột cùng của người xưa muốn cho người ta thấy, mà
không dùng lời. Vì dùng lời đã trật, nên Ngài chỉ cười thôi. Còn bên kia
nói chỗ hai bên mà đã cuối cùng rồi thì chỉ còn im lặng thôi. Một bên thì
im lặng, một bên thì cười, như vậy quí vị thấy, ngài Duy-ma-cật là kinh,
Tổ Qui Sơn là Thiền, hai bên có giống nhau không? Đâu có hai, phải vậy
không? Như vậy, chúng ta mới thấy, Thiền là cốt tủy của kinh, kinh là
nguồn gốc của Thiền, chớ không có gì lạ hết. Hiểu như vậy, chúng ta mới
thấy, sự tu hành của chúng ta muốn đạt đạo, muốn đến chỗ không còn bị trầm
luân sanh tử nữa thì phải làm sao? Đừng mắc kẹt ở hai bên. Cho nên các vị
Thiền sư khi nói câu gì, hỏi cái gì thì luôn luôn gài Thiền khách bằng cái
hai bên, hoặc là có, hoặc là không v.v... Nếu mình y đó mà trả lời hoặc
bên này hoặc bên kia thì Ngài đưa hai ngón tay, để cho mình biết rõ rằng
vừa còn kẹt bên này hay bên kia, là người chưa thấy đạo. Người thấy đạo là
cười hoặc im lặng. Chỗ đó là chỗ thấy đạo đó, quí vị thấy chưa?
Đây là kết luận của tôi: Sang năm Giáp Tý này, tôi chúc quí vị được “nụ
cười của Qui Sơn lại thêm tươi”. Đó là câu chúc đầu năm của tôi.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
] |