TÂM HẠNH NGƯỜI TU
TẤT NIÊN NĂM GIÁP TÝ 1985
Hôm nay tôi nói chuyện với quí vị về đề tài “TÂM HẠNH NGƯỜI TU”: Đây là
tôi muốn nhắm vào tăng ni: Tâm hạnh người tu là thế nào? Mục đích của
chúng ta khi đi tu, cốt làm sao để lợi ích cho mình, cho người, chớ không
ai nghĩ rằng mình đi tu để làm trò cười cho nhân thế. Thế nên muốn trở
thành người tu đúng đắn lợi mình, lợi người, thì cần phải hiểu rõ tâm hạnh
của mình như thế nào? Tâm là chỉ nội tâm, hạnh là chỉ hành động của thân;
trong nội tâm và những hoạt động của bản thân mình làm sao cho xứng đáng
tư cách một người tu, để không hổ thẹn là đệ tử Phật. Nói đến tâm hạnh
người tu, tôi không có dạy gì riêng mà chỉ dẫn những việc làm và những lời
dạy của chư Tổ, của các vị Thiền sư để quí vị nhớ ứng dụng.
Đầu tiên là tôi kể lại câu chuyện của ngài Ca-diếp, tức là vị Tổ thứ nhất
trong Thiền tông mà cũng là một vị đệ tử lớn của đức Phật. Trong Thiền
tông thường hay kể rằng, ngài Ca-diếp được đức Phật truyền tâm ấn ba lần,
nhưng chúng ta phần nhiều chỉ thấy có một lần và hình ảnh thường được nhắc
đi nhắc lại là trong hội Linh Sơn, khi đức Phật cầm cành hoa sen đưa lên,
ở dưới ngài Ca-diếp nhìn thấy mỉm cười, đức Phật mới truyền tâm ấn. Đó là
điểm nổi bật, còn những hội khác thì chúng ta ít nhớ, ít biết.
Nay tôi kể lại câu chuyện ngài Ca-diếp đến yết kiến Phật tại tháp Đa Hòa.
Một hôm đức Phật đang thuyết pháp cho một số thầy Tỳ-kheo nghe tại tháp Đa
Hòa, bỗng dưng có ngài Ca-diếp từ xa về yết kiến Phật. Ngài tu theo hạnh
đầu-đà nên mặc y phấn tảo, tức là y do giẻ rách kết thành và râu tóc xồm
xoàm, hình tướng vừa dơ vừa xấu xí, nên chư Tỳ-kheo có ý khinh bỉ ngài.
Đức Phật biết được tâm niệm chúng Tỳ-kheo, nên gọi: “Này Ca-diếp! Đến đây,
ta nhường cho ông nửa tòa ngồi.” Phật lại bảo tiếp: “Này chư Tỳ-kheo! Ta
có tam minh lục thông, thì Ca-diếp cũng có như ta vậy...” Phật kể tất cả
những pháp mà Phật có và Phật kết luận: “Ca-diếp cũng có như ta vậy, vì
thế mà ta mời Ca-diếp đến đây nhường nửa tòa cho ngồi.” Khi ấy ngài
Ca-diếp quì ở trước đức Phật, Ngài bạch: “Bạch đức Thế Tôn, con là đệ tử,
Thế Tôn là thầy, con không dám đến, xin Thế Tôn cho con được phép ngồi
đây.”
Câu chuyện đức Phật mời Ca-diếp đến, Ngài chia cho nửa tòa ngồi trích từ
kinh A-hàm, trong hội đó đức Phật nhắm phá tâm ngã mạn của chúng Tỳ-kheo
xem thường ngài Ca-diếp; nhưng trong nhà Thiền thì thấy đức Phật đã ca
tụng ngài Ca-diếp đầy đủ những pháp mà đức Phật có và xứng đáng được đức
Phật nhường nửa tòa ngồi, như vậy không phải truyền tâm ấn là gì? Thế nên
đó là lần truyền tâm ấn thứ hai.
Đến lần thứ ba ở đâu? Quí vị nhớ không? Đó là khi đức Phật tịch, khi ấy
ngài Ca-diếp từ xa hay tin mới tìm về, đến nơi thì đức Phật đã liệm vào
kim quan rồi. Ngài Ca-diếp mới đến phía sau kim quan đảnh lễ, đức Phật
duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Phật. Đó là lần truyền tâm ấn thứ ba.
Nói đến đây hẳn quí vị nhớ một Thiền sư Trung Hoa là ngài Thanh Nguyên,
Ngài sai đệ tử là Thạch Đầu Hy Thiên đem thơ cho ngài Nam Nhạc Hoài
Nhượng. Khi trở về ngài Thạch Đầu mới thưa: “Hòa thượng bảo con đem thơ
xong, Hòa thượng sẽ cho con chiếc búa ở núi, xin Hòa thượng cho chiếc
búa.” Ngài Thanh Nguyên duỗi một chân thẳng ra, ngài Thạch Đầu đảnh lễ,
rồi về ở núi. Quí vị thấy việc đó theo sự tích nào? Đó là một thuật truyền
tâm ấn phải không? Chính đức Phật, khi ngài Ca-diếp đến đảnh lễ, Ngài ở
trong kim quan duỗi chân ra, ngài Ca-diếp rờ chân Ngài, đó là để nói chỗ
thông cảm giữa thầy trò và sự thông cảm đó là truyền tâm ấn. Vì vậy nên
các Thiền sư sau này theo cái thuật đó, cũng truyền như vậy; chúng ta
không hiểu tại sao ở trên kia duỗi chân, ở dưới đảnh lễ rồi đi. Đó là điều
tôi nói cho quí vị hiểu.
Ở
Việt Nam cũng một lần, ngài Pháp Loa, tức Tổ thứ hai trong Tam tổ Trúc
Lâm, bệnh sắp tịch, ngài Huyền Quang đến hầu. Hai thầy trò vấn đáp xong,
cuối cùng ngài Pháp Loa duỗi chân ra. Những người viết sử sau này không
biết nói ngài Pháp Loa giận đá một cái, đó là điều lầm lẫn của những người
không hiểu ý nghĩa nhà Thiền, Ngài duỗi chân ra là Ngài chấp nhận ngài
Huyền Quang là người đã thông cảm với Ngài, đó là một hình thức truyền tâm
ấn. Hiểu như vậy quí vị mới không lấy làm lạ. Một vị Tổ khi sắp tịch, giận
đệ tử Ngài đá, thật hết sức vô lý. Hiểu chỗ này quí vị mới thông cảm được
đường lối truyền của nhà Thiền.
Còn câu chuyện ngài Ca-diếp mỉm cười khi đức Phật đưa cành hoa sen lên, đó
là nhắm vào cái gì? Về điểm này, tôi nhắc lại một vị Thiền sư đời Tống,
ngài Phong Huyệt, sau khi kiểm điểm trong chúng, thấy sự tu hành của chúng
Ngài chưa được hài lòng Ngài khóc khi ấy ngài Niệm Pháp Hoa, tức Thiền sư
Tỉnh Niệm (vì Ngài chuyên tụng Pháp Hoa nên gọi là Niệm Pháp Hoa) thấy
Ngài khóc mới hỏi: “Tại sao Hòa thượng khóc?” Ngài Phong Huyệt nói rằng:
“Tông Lâm Tế đến ta e phải chìm mất, trong chúng đây không có người nào kế
thừa được ta, ta buồn khóc.” Ngài Tỉnh Niệm thưa: “Hòa thượng thấy con thế
nào?” Ngài Phong Huyệt nói: “Ngươi thì được, nhưng ngươi còn mê tụng Pháp
Hoa quá.” Ngài Tỉnh Niệm thưa: “Việc đó không khó, Hòa thượng chỉ cho con
biết yếu chỉ thì con sẽ buông.” Ngài Phong Huyệt hứa: “Như vậy sáng mai
khi lên tòa, ta sẽ chỉ cho ngươi.” Khi ngài Phong Huyệt lên tòa, Ngài
thuật lại khi đức Thế Tôn ở trong hội Linh Sơn, cầm cành hoa đưa lên rồi
lấy mắt trong như hoa sen nhìn chúng, ngài Ca-diếp nhìn thấy liền mỉm
cười, khi đó ngài Tỉnh Niệm đứng dậy phủi áo đi, ngài Phong Huyệt cũng
quăng gậy xuống tòa. Như vậy quí vị thấy chỗ truyền đó là truyền cái gì?
Ngộ ở đâu?
Đây, một Thiền sư Việt Nam đời Lê, tức là ngài Chân Nguyên đã làm mấy bài
kệ nói về chỗ truyền đó. Ngài làm kệ bằng tiếng Việt rất dễ hiểu, tôi đọc
cho quí vị nhớ. Bài thứ nhất là kệ “Giơ Cánh Hoa Lòng”, chữ lòng là dịch
chữ Tâm.
Nhân duyên to lớn Phật ra đời,
Ca-diếp ấn truyền ngộ được thôi.
Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.
Lá đẹp hương bay khắp đất trời.
Qua bài kệ đó, quí vị thấy gì? Trong kinh Pháp Hoa nói đức Phật ra đời là
vì một đại sự nhân duyên, đại sự nhân duyên đó để chỉ cho chúng sanh cái
gì? Tức là chỉ Tri kiến Phật. Như vậy trong hội Linh Sơn chỉ ngài Ca-diếp
là người được ấn truyền và được ngộ đạo ngay trong hội đó, mà ấn truyền
bằng cái gì? “Cầm hoa cười mỉm còn nguyên đó.” Đức Phật cầm cành hoa sen
đưa lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy chúm chím cười, là truyền ở chỗ đó, và từ
đấy về sau thế nào? “Lá đẹp hương bay khắp đất trời.” Từ đấy về sau lá sen
và hương sen bay khắp đất trời, từ Ấn Độ sang Trung Hoa, sang Nhật Bản,
sang Việt Nam v.v...
Đến bài kệ thứ hai là “Mật Trao Đèn Lòng” tức là thầm trao cây đèn tâm.
Một điểm đèn lòng mắt Phật sinh,
Tương truyền bốn mắt đối phân minh.
Nối hương tiếp lửa luôn luôn sáng,
Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình.
Quí vị thấy bài kệ nói rằng: “một điểm đèn lòng mắt Phật sinh”, tức là
ngọn đèn tâm sáng, mà trao được cái nhân đó là từ mắt Phật sanh ra, tức
Phật đưa con mắt như hoa sen nhìn chúng, ở dưới ngài Ca-diếp nhìn lên,
giữa Phật và Ngài cảm thông được nhau, nên Phật mới truyền tâm ấn, vì thế
mới nói “tương truyền bốn mắt đối phân minh”. “Nối hương tiếp lửa luôn
luôn sáng”, từ đấy về sau cứ nối tiếp ngọn đèn đó sáng mãi không cùng.
“Gieo khắp rừng thiền gởi hữu tình” nghĩa là gieo khắp trong rừng thiền và
gởi tất cả chúng hữu tình ngọn đèn từ mắt Phật sanh ra. Như vậy lối ngộ
đạo của ngài Ca-diếp là ở chỗ nào? Mắt Phật nhìn xuống, ở dưới ngài
Ca-diếp ngó lên, thầy trò thấy được nhau, hiểu được nhau nên gọi là truyền
tâm ấn, vì vậy lối truyền này còn gọi là “Tứ mục tương cố”, nghĩa là bốn
mắt nhìn nhau, chỗ đó là chỗ ngộ đạo tương truyền, chớ không phải là cái
hoa sen. Khi đức Phật đưa hoa sen lên, ngài Ca-diếp nhìn thấy rồi đức Phật
nhìn ngài Ca-diếp, ngài Ca-diếp cười, đó là chỗ thông cảm nhau từ mắt Phật
và mắt ngài Ca-diếp. Thế nên trong nhà Thiền khi nói chuyện với nhau, các
Thiền sư hay nhìn thẳng, thử xem người đệ tử thấu được điều mình muốn nói
không?
Quí vị nhớ lúc Tổ Bồ-đề-đạt-ma nói chuyện với Tổ Huệ Khả, Tổ Huệ Khả thưa:
“Xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.” Tổ Đạt-ma nhìn thẳng vào mặt Ngài
bảo: “Đem tâm ra ta an cho.” Tổ Huệ Khả bối rối thưa: “con tìm tâm không
được” thì Tổ Đạt-ma nói: “Ta an tâm cho ngươi rồi!” Như vậy, chính cái
nhìn là một điều quan trọng, hiểu như thế mới thấy lối truyền thiền từ đức
Phật về sau phần nhiều hay dùng cái nhìn, cái thấy. Hiểu như thế, chúng ta
mới biết sự liên hệ của đường lối Thiền Tông truyền từ trước đến nay.
Trở lại câu chuyện của ngài Ca-diếp để phù hợp với đề mục tôi đã nêu về
tâm hạnh người tu, quí vị thấy tâm và hạnh của ngài Ca-diếp như thế nào?
Về hạnh thì Ngài tu hạnh đầu-đà. Hạnh đầu-đà tức là khổ hạnh, nhọc nhằn,
thiếu thốn ... còn tâm Ngài thì sao? Phật có cái gì thì Ngài cũng có cái
ấy, tức là tất cả những gì nơi Phật, Phật có truyền cho Ngài, Ngài đều
thừa hưởng được hết, không thiếu sót, vì vậy mới gọi Ngài là vị Tổ thứ
nhất kế thừa Phật. Như vậy đứng về mặt thân, chúng ta phải nghèo, phải
thiếu, nhưng về mặt tâm, chúng ta phải sung túc hay nói cách khác, chúng
ta phải giàu, phải có hòn ngọc quí; chớ không thể người tu mà thân thì
sang trọng còn trong lòng thì rỗng tuếch, như vậy là không hợp với đạo lý,
không xứng tư cách người tu. Đây là lời răn, lời nhắc và cũng là lời tự
thuật của ngài Vĩnh Gia trong “Chứng Đạo Ca”. “Cùng Thích tử, khẩu xưng
bần”, như vậy người Thích tử là kẻ nghèo, luôn luôn thấy mình nghèo, miệng
tự xưng là nghèo, xưng bần đạo hay bần tăng, nhưng bần đó là bần cái gì?
“Thật thị thân bần đạo bất bần”, về thân thì mặc áo vá, nhưng về đạo thì
chẳng nghèo. Trong tâm chứa được hạt châu vô giá, nên nói rằng: “Bần tức
thân thường phi lủ hạt, đạo tắc tâm tàng vô giá trân.” Như thế quí vị thấy
rõ ngài chỉ cho chúng ta bổn phận của người tu. Đến đây tôi cũng nhắc lại:
Chữ Tỳ-kheo dịch là gì? Có người dịch nghĩa chánh là khất sĩ, khất là ăn
mày, sĩ là kẻ, khất sĩ là kẻ ăn mày; kẻ ăn mày làm sao giàu được, nên mới
nói “cùng Thích tử, khẩu xưng bần”. Như vậy đứng về thân, chúng ta phải
nghèo, mặc áo vá, nhưng tâm chúng ta có hạt châu quí vô giá. Đây là một
đoạn Ngài nói về bổn phận của chúng ta, nhưng Ngài còn dặn thêm: Đối với
sự khen chê phỉ báng, lòng mình phải như thế nào? Tư cách người tu chúng
ta phải làm sao? Ngài dạy:
“Tòng tha báng, nhậm tha phi
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì,
Ngã văn kháp tợ ẩm cam lồ,
Tiêu dưng đốn nhập bất tư nghì.”
Người ta chê, hay người ta phỉ báng, chúng ta cứ xem họ như họ cầm lửa đốt
trời, hay nói cách khác là cầm lửa đốt hư không. Cầm lửa đốt hư không thì
chừng nào cháy hư không? Chúng ta chỉ thấy họ cầm lửa đốt hư không một lúc
rồi họ tự thấy nhọc và có thể cháy tới tay của họ nữa. Như vậy để nói lên
điều gì! Chúng ta là người tu, dầu cho bị người ta chê bai, bị người ta
phỉ báng, tâm mình không dính không mắc, nó rỗng rang tự tại thì chẳng
khác nào người đó cầm lửa đốt hư không vậy. Trái lại, nếu tâm mình có dính
mắc tức là có bổi phải không? Có bổi thì lửa dễ cháy, phải không? Họ mắng
mình, lúc đó trong lòng họ có ấm ấm chưa? Tức là có nổi lửa rồi; mình nổi
sân lại, họ vừa có lửa nhúm lên, gặp bổi của mình, hai cái phát cháy phải
không? Còn nếu họ nhen lửa đưa vào hư không thì sao? Bao giờ hư không
cháy? Thế nên nếu thật tâm người tu chúng ta rỗng rang tự tại thì mặc tình
họ khen chê, mặc tình họ phỉ báng chúng ta vẫn rỗng rang tự tại, người chê
bai phỉ báng đó chẳng khác nào kẻ cầm lửa đốt hư không và tự họ khổ. Ngài
còn nói thêm: “ngã văn kháp tự ẩm cam lộ”, ta nghe giống như là uống nước
cam lộ vậy. Quí vị có người nào được như thế chưa? “Tiêu dung đốn nhập bất
tư nghì”: nó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn. Quí vị thấy nếu
chúng ta tu được như vậy thì thật là đẹp biết mấy, phải không? Bổn phận
người tu là khi bị chê, bị khinh miệt, tâm vẫn rỗng rang tự tại, nghe
những lời chê bai đó giống như uống nước cam lồ, mát rượi ngọt ngào; tất
cả lời chê bai khinh bỉ đó đều tiêu dung vào chỗ không thể nghĩ bàn, như
vậy mới đúng là người tu chân chánh. Trong đoạn trên Ngài dạy chúng ta
thân phải nghèo, tâm thì giàu vì có hạt châu vô giá, đoạn này Ngài dạy
chúng ta nghe lời chê bai phỉ báng cũng như uống nước cam lồ, tiêu dung
vào chỗ bất tư nghì, đó mới đúng là tư cách của người tu, phải không? Nếu
người tu nghe người ta chê mà nổi giận đỏ mặt, rồi la lối thì đúng là
người tu chưa? Như vậy quí vị tự kiểm lại xem mình xứng đáng là người tu
hay chưa: Nếu chưa thì ráng nỗ lực. Ngài còn nói thêm:
“Quán ác ngôn thị công đức,
Thử tắc thành ngô thiện tri thức,
Bất nhân san báng khởi oán thân,
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực?”
Ngài bảo mình phải quán xét lời nói ác, nói dữ của họ là công đức. Tại sao
vậy? Nếu chúng ta thấy những lời nói dữ của họ là công đức thì họ trở
thành thiện tri thức của ta. Vì sao? Vì người mắng chửi mình, nhưng tâm
mình vẫn an nhiên tự tại, thì lời mắng chửi đó là một thử thách để lường
xem đạo lực mình đến đâu. Nếu đạo lực mình đã vượt qua được điều đó, mình
mới thấy mình đã thắng được cái sân, mà đã thắng được cái sân là mình đã
thành công trên đường đạo. Như vậy chính lời mắng chửi đó là bằng chứng để
nghiệm xem đạo đức của mình; và nếu đó là sự thử thách đạo lực của mình
thì người mắng đó đâu không phải là thiện tri thức của mình? Vì vậy nên
chính lời ác đó là công đức và người mắng mình là thiện tri thức của mình.
Nếu không nhân lời chê bai mắng nhiếc mình khởi lên oán hay thân thì đâu
có đủ tiêu biểu cho sức vô sanh từ nhẫn, vì chúng ta là người tu thì lúc
nào cũng phải có lòng từ bi và đức nhẫn nhục. Lòng từ bi, đức nhẫn nhục
tiêu biểu cho đạo lực, cho sức tu hành của mình. Nếu trước mọi cảnh trái
nghịch mà tâm không dấy khởi đó gọi là vô sanh từ nhẫn lực, vô sanh là
không dấy khởi; thế nên nói đến người tu là nói đến người chiến thắng lòng
mình, chớ không phải chiến thắng kẻ bên ngoài. Nếu trước những khó khăn,
những nhục nhã mình chống đối lại cái đối tượng bên ngoài thì đó chưa phải
là tư cách của người tu; trái lại những đối tượng xấu đến với mình, nhưng
mình thắng được lòng mình, tâm vẫn an nhiên tự tại thì đó là tiêu biểu cho
sức từ nhẫn vô sanh của chính mình, như vậy mới xứng đáng là người tu. Quí
vị thấy tư cách người tu là phải như thế. Trái lại nếu chúng ta nói rằng
mình tu được nhiều thời khóa, nhưng gặp cảnh thì vẫn sân si, thì thời khóa
có trở thành vô nghĩa. Thế nên chúng ta phải tu thế nào mà trước những
cảnh khó khăn, những điều trái tai gai mắt, chúng ta vẫn an nhiên tự tại.
Đó mới thật là người tu chân chánh.
Lại một Thiền sư Việt Nam vào đời Lê cũng nhắc nhở chúng ta tương tự như
thế. Tôi trích một đoạn trong bài “Thiền Tịch Phú” hay nói một cách khác
bài phú về Thiền tịch cho quí vị nghe.
“Sãi chưng nay một đạo tu hành, xả đường kinh
lịch.
Chí dốc nên Phật Tổ siêu thăng,
Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch;
Đêm đông trường khi mật niệm,
Gióng tiếng chuông thánh thót lênh kênh,
Ngày hạ tiết lúc tụng kinh,
Nện dùi mõ khoan mau lịch kịch;
Chỉn chuộng một bề đạo đức,
Miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn cay
Vốn yêu hai chữ từ bi,
Thân nào quản mặc áo lành áo rách ...
Bài còn dài nữa tôi không dẫn hết. Trong bài phú Ngài tự xưng là Sãi. “Sãi
chưng nay mộ đạo tu hành”: hôm nay sãi này vì lòng mộ đạo tu hành. “Xả
đường kinh lịch” tức là xả bỏ hết những việc trải qua trước kia. “Chí dốc
nên Phật Tổ siêu thăng”: cái lập chí của Ngài là dốc làm Phật làm Tổ để
siêu thăng giải thoát, đó là đứng về thượng cầu. Còn về hạ hóa thì thế
nào? “Lòng nguyện độ chúng sanh trầm nịch”: lòng mình nguyện độ những
chúng sanh đang chìm đắm trong sông mê bể khổ. Như vậy hai câu trên nói
lên ý chí và lòng từ bi của người xuất gia, ý chí thì quyết định tu để
thành Phật, thành Tổ, còn lòng từ bi thì tu để cứu độ chúng sanh đang còn
chìm trong sông mê bể khổ. Đã có chí nguyện và lòng từ như vậy thì hằng
ngày làm việc gì? “Đêm đông trường khi mật niệm, gióng tiếng chuông thánh
thót lênh kênh”, nghĩa là đêm đông khuya lạnh thức dậy vừa mật niệm vừa
đánh chuông. “Ngày hạ tiết lúc tụng kinh, nện dùi mõ khoan mau lịch kịch”,
nghĩa là trong lúc tụng kinh đánh mõ cộp cộp, đó là diễn tả bổn phận của
người tu. Ngài lại giải thích tại vì sao mình phải chịu ăn chay ăn lạt,
kham khổ như vậy. “Chỉn chuộng một bề đạo đức, miệng chẳng hiềm ăn đắng ăn
cay”: vì chuộng quí đạo đức nên chẳng hiềm ăn món đắng, món cay, không
chuộng thức ngon, không đòi thức quí. “Vốn yêu hai chữ từ bi, thân nào
quản mặc lành mặc rách”: bởi mình yêu hai chữ từ bi nên mặc lành rách đều
được, không vì lý do mặc rách mà buồn tủi. Quí vị thấy người xưa luôn luôn
nhắc nhở chúng ta: Đã đi tu thì quyết làm Phật làm Tổ, chớ không phải đi
tu để rồi hết ngày hết tháng, hết cả cuộc đời! Trên thì mình quyết định
tiến đến thành Phật, thành Tổ, nhưng thành Phật, thành Tổ để làm gì? Để
cứu độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Đã có tinh thần đó thì tất
cả những chuyện ăn mặc phải đơn sơ đạm bạc, như vậy mới hợp đạo đức, mới
hợp với tinh thần giải thoát cao cả của chúng ta.
Tôi nhắc đến một vị Thiền sư khác, ngài Tuyết Đậu Trùng Hiển ở Trung Hoa,
Ngài nhắc chúng ta cái quí của mình. Trên đường tu, có nhiều người khi tu
thì quyết chí, nhưng đạo lý không thâm nhập được, nên tuy nói tu mà chỉ
chạy tìm cầu bên ngoài, quên cái chân thật bên trong của mình. Tôi trích
một đoạn trong bài “Thể Châu Ca” của Ngài:
“Bần tử y trung châu,
Bản tự viên minh hảo,
Bất hội tự tầm cầu,
Khước sổ tha trân bảo,
Sổ tha bảo, chung vô ích,
Chỉ thị giáo quân (vô) phí lực,
Tranh như nhận thủ tự gia trân,
Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức…”
Dịch:
Kẻ nghèo áo có châu,
Vốn tự tròn sáng đẹp,
Chẳng biết tự tìm cầu,
Bèn vì người đếm báu,
Đếm báu người trọn vô ích,
Chỉ là dạy anh không nhọc sức,
Đâu bằng nhận lấy của báu nhà,
Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức...
Đây là một đoạn thôi. Tôi giải thích: “Bần tử y trung châu” là kẻ nghèo
nhưng trong áo có hạt châu. Đó là cái ý “Hệ Châu” trong kinh Pháp Hoa.
“Bổn tự viên minh hảo”: hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp; sẵn có hạt châu
trong chéo áo và hạt châu đó vốn tròn sáng đẹp. “Bất hội tự tầm cầu, khước
sổ tha trân bảo”: chẳng biết tự tìm cầu, trở lại đi đếm báu cho người,
nghĩa là mình có hạt châu quí trong áo mà không chịu tìm, lấy ra xài, trái
lại đi đếm của báu cho người khác, đó là điều lầm lẫn. Nói đếm của báu cho
người khác là gì? Tức là khi chúng ta tu mà không nhận rõ ra bản thân của
mình, cứ nghĩ đến chuyện cầu Phật ở bên ngoài hay là tụng kinh cho có
phước nhiều v.v... đó chẳng khác nào đếm của báu cho người. Kinh Phật chủ
yếu dạy chúng ta thấy rõ được cái chân thật nơi mình, như trong kinh
thường dụ: kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nhưng chúng ta lại không chịu
thấy của báu, không tìm lại của báu của mình, cứ cho kinh là cứu kính (cho
ngón tay là mặt trăng), như vậy chẳng khác nào người đếm của báu cho kẻ
khác. “Sổ tha bảo, chung vô ích” tức là nếu mình cứ đếm của báu cho người
thì trọn không có ích gì! “Chỉ thị giáo quân không phí lực”: chỉ là dạy
anh không có tốn sức. “Tranh như nhận thủ tự gia trân”: đâu bằng mình nhận
lấy hạt châu quí của chính nhà mình. “Giá trị huỳnh kim thiên vạn ức”: hạt
châu quí đó có giá trị như ngàn vạn ức lượng vàng ròng. Như vậy ý Ngài chỉ
cho chúng ta thấy rõ ràng, người tu là cốt làm sao nhận nơi mình có hạt
châu quí, rồi hướng về đó tìm cho được, đó mới là cái giá trị trên tất cả,
nếu chúng ta quên nó để đi tìm cái gì khác, thì thật là uổng cho một đời
tu. Tuy nhiên, quí vị thấy Ngài chỉ chúng ta hạt châu quí, nhưng hạt châu
đó còn nằm trong áo, chớ chưa phải là chúng ta nắm được trong tay. Đã là
nằm trong áo, nếu chịu khó vạch, chịu khó mở thì sẽ được. Vì vậy, tôi nhắc
rằng Ngài chỉ cho chúng ta biết chúng ta là kẻ nghèo, tuy thân nghèo nhưng
trong có hạt châu quí chớ không phải kẻ nghèo hoàn toàn không có gì. Như
vậy tất cả Thiền sư nhìn chúng ta đều thấy giống nhau, tức là tuy nghèo mà
ai cũng có hạt châu quí, chớ không phải nghèo một cách tuyệt đối không có
gì cả.
Đến một vị Thiền sư đời Thanh, Thiền sư Sở Thạch, Ngài cũng nhắc chúng ta
tương tự, nhưng có những điểm hơi khác hơn là vì đa sự nên luôn luôn lầm
lẫn không thấy được của báu chính mình. Nguyên văn chữ Hán:
Thị chư Thiền nhân
Đô duyên ngụy khước tự gia tâm,
Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm
Bất thức thể kê hô tác phượng,
Hoàn tương huỳnh diệp nhận vi câm.
Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn,
Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm.
Hữu vấn khước tu hướng y đạo:
Thùy gia thất lý một Quan Âm?
Dịch:
Chỉ các Thiền nhân
Nhiều duyên quên mất tâm nhà mình,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoại tìm,
Chẳng biết gà đều kêu là phụng,
Lại đem lá đỏ nhận vàng ròng,
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua tháng năm dài,
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm?
Ngài nói rằng: “Đô duyên ngụy khước tự gia tâm”, đô duyên là nhiều duyên
(đô là gồm hết) nhiều duyên quá thì sao? Ngụy là quên, “ngụy khước tự gia
tâm” là quên mất cái tâm của nhà mình. Bởi vì mình nhiều duyên bên ngoài
quá nên quên mất cái tâm của chính nhà mình. Trong quí vị ai có bệnh đó
thì nhớ nghe! “Chỉ quản mang mang hướng ngoại tầm”: chỉ một bề mờ mờ chạy
ra ngoài tìm kiếm; nay nghe nói Phật ở chỗ kia linh liền tới lễ bái, mai
nghe nói vị sư ở nơi khác có cái gì lạ, lại chạy tới tìm cầu, chớ không
biết hướng về tâm mình để tìm, để nhận. “Bất thức thể kê hô tác phượng”:
không biết những con gà bông, những con gà đốm mà gọi là chim phượng, thấy
những con gà trống có đốm trên mình, vì dốt tưởng là chim phượng. Đó là vì
học đạo mà không biết được gốc nguồn, chỉ chạy ra ngoài tìm kiếm, nên
chẳng khác người thấy con gà trống đẹp tưởng lầm là chim phượng. “Hoàn
tương huỳnh diệp nhận vi câm”: lại đem lá vàng nhận cho là vàng; đây là
trích dẫn trong kinh, Phật bảo: “tất cả những gì Phật dạy cho chúng, như
là nắm lá vàng để dỗ con nít khóc”; ý nói rằng bà mẹ đi chợ, đứa con khóc
đòi theo, bà mẹ không cho nó đi nhưng muốn dỗ nó nín, mới cầm một lá vàng
trong tay nói: “đây mẹ cho con vàng, con đừng khóc nữa”; đứa nhỏ thấy
tưởng là vàng thật nên nín khóc, nhưng giở tay ra thì chỉ là cái lá thôi.
Tất cả những gì Phật dạy là những phương tiện để chỉ cái chân thật cho
chúng ta, nhưng những phương tiện đó chúng ta lại tưởng là thật thì chẳng
khác nào thấy lá vàng mà tưởng là vàng. Đó là điều lầm lẫn nên nói: Lại
giống như lá vàng mà nhận là vàng thật. “Cầu sư bạt thiệp sơn xuyên viễn”
nghĩa là chúng ta hướng ra ngoài nên nay chạy xứ này cầu thầy, mai chạy xứ
kia tìm thầy, đi qua sông qua núi xa xôi, rốt cuộc rồi không đến đâu.
“Trục cảnh nhân tuần tuế nguyệt thâm” là chạy theo cảnh theo người mà mất
hết thời gian. “Hữu vấn khước tu hướng y đạo”: nếu người đó có hỏi thì lại
nên nói với y rằng: “Thùy gia thất lý một Quan Âm”: nhà ai trong ấy chẳng
Quan Âm? Trong nhà nào cũng có thờ đức Quan Âm phải không? Nhà đó là nhà
nào? Nhà tứ đại phải không? Nhà tứ đại ngũ uẩn nào cũng có thờ đức Quan Âm
cả.
Qua bài này, Ngài chủ ý dạy chúng ta muốn tu, đầu tiên phải bớt duyên, bớt
duyên mới có thể nhận ra bản tâm của mình; trái lại nếu nhiều duyên quá
thì thế nào cũng quên bản tâm. Quên bản tâm thì học đạo, cầu đạo chỉ một
bề hướng ra ngoài tìm kiếm, như thế là lầm lẫn chẳng khác nào cho gà trống
là chim phượng hay lá vàng là vàng thật vậy. Đã hướng ra ngoài tìm thì
nghe đây nghe kia chạy tìm thầy, tìm người, rốt cuộc hết ngày, hết tháng,
vẫn không thấy được cái chân thật. Thế nên với người đó phải nhắc họ rằng:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm? Trong nhà nào cũng có Phật, đừng đi tìm ở
đâu xa, đừng lang thang núi này núi nọ để tìm cầu, ngay trong nhà mình đã
có đức Quan Âm rồi. Như vậy người học đạo chúng ta phải biết đạo không
phải là cái gì ở bên ngoài mà chính là cái sẵn có nơi chúng ta, chúng ta
phải thức tỉnh, cần phải xoay trở lại chớ không phải rong ruổi tìm cầu bên
ngoài mà được. Đó là chỗ thiết yếu; nếu chúng ta cứ một bề rong ruổi theo
bên ngoài, dù cho hết một đời cũng không bao giờ thấy đạo.
Bài này tôi tạm dịch:
Duyên nhiều quên hết tự gia tâm,
Chỉ nhắm xa xôi bên ngoại tầm
Chẳng biết gà bông mà gọi phụng,
Lại đem lá đỏ nhận vàng ròng,
Cầu thầy vượt núi trèo non khắp,
Theo cảnh trôi qua năm tháng thâm
Có hỏi cần nên đến y đáp:
Nhà ai trong ấy chẳng Quan Âm?
Quí vị thấy câu cuối cùng là một câu chí lý, nhà ai trong ấy chẳng Quan
Âm? Như vậy chỉ cần tìm đức Quan Âm ngay trong nhà mình phải không? Đừng
quên Quan Âm trong nhà mình, nếu cứ tìm Quan Âm ở Phổ Đà Sơn hay ở núi nào
khác thì quá xa phải không? Đó là những lời của người xưa nhắc nhở cho
chúng ta thức tỉnh, biết rằng tu là phải nhận chân nơi mình, chớ đừng quên
mình mà đi cầu bên ngoài.
Sau cùng là một bài kệ, tôi trích trong bài “Cư Trần Lạc Đạo” của Sơ tổ
Trúc Lâm, ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Bài phú dài lắm, cuối
bài phú Ngài có viết bốn câu kệ bằng chữ Hán, tôi đọc và dịch cho quí vị
nghe:
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.”
“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”, cư là ở, trần là bụi bặm, lạc đạo là vui
với đạo; ở trong cảnh bụi bặm mà vui với đạo thì phải thế nào? Hãy tùy
duyên. Tùy duyên bằng cách nào? “Cơ tắc xan hề khốn tắc miên” là đói thì
ăn, mệt thì ngủ. Tùy duyên là tùy như thế; đói thì ăn, mệt thì ngủ. Tại
sao Ngài dạy tùy duyên bằng cách đó? Bởi vì nếu chúng ta biết đạo thì đạo
không phải là những gì xa xôi kỳ lạ, mà chính là cái chân thật sẵn có nơi
mình, như chúng ta thấy qua lời truyền tâm của Phật cho Tổ Ca-diếp thì
ngay trong cái thấy, cái nghe đã có đạo rồi. Như vậy nếu chúng ta nhận
được đạo ngay đó thì tùy duyên đói thì ăn, mệt thì ngủ, chớ không thêm sự
suy tính nghĩ lo gì nữa, thế là biết tùy duyên. “Gia trung hữu bảo hưu tầm
mích”, là ngay trong nhà mình có hòn ngọc báu, đừng tìm kiếm bên ngoài
nữa. “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”, câu cuối là câu tôi thích nhất. “Đối
cảnh vô tâm mạc vấn thiền” là mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng nhưng tâm mình
không dính mắc vào cảnh, vào tiếng thì khi ấy đừng hỏi thiền làm gì? Tại
sao? Vì đó là thiền rồi, phải không? Thiền là như thế, chớ đừng nghĩ rằng
thiền là cái gì xa xôi kỳ lạ, nghĩa là mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng mà
không dính không mắc thì đó là người tu Thiền. Nhưng chúng ta từ trước đến
nay cứ nghĩ thiền là phải làm sao ngồi cho tỏa hào quang ra, đó mới là
thiền, chớ không ngờ ngay nơi cảnh mà không dính, không mắc đó là thiền
rồi. Như thế quí vị thấy đối với cảnh, tâm chúng ta không dính không mắc,
đó là tu thiền và cũng chính khi ấy hạt châu biểu lộ. Thế nên tu không
phải là những dụng công nhọc nhằn, những cố gắng khổ sở, mà chính là cái
khéo léo làm sao ở trong cõi đời điên đảo, tâm mình vẫn an lạc. Nếu tâm
chúng ta an lạc được thì cảnh nào đến, chúng ta tùy đó ứng dụng chớ không
đòi hỏi, không tìm kiếm.
Tóm lại, khi chúng ta đối cảnh, tâm không dính không mắc đó là chúng ta đã
tu thiền và cũng chính đó là hạt châu nơi tâm mình hiện bày. Như vậy là
hiểu đạo, là học đạo chớ đừng nghĩ rằng học đạo phải tìm cái gì xa xôi,
đạo là cái gì ở trên trời hay ngoài biển. Đạo chính là cái sẵn có nơi
mình. Bài này ông Hoàng Xuân Hãn dịch:
Ở đời vui đạo mặc tùy duyên,
Hễ đói thì ăn, khó ngủ liền.
Báu sẵn trong mình thôi chạy kiếm,
Lặng lòng đối cảnh, chẳng tham thiền.
Quí vị chỉ cần lặng lòng đối cảnh thì không phải tham thiền chi nữa; trái
lại nếu ngồi thiền mãi mà gặp cái gì dính cái ấy thì ngồi thiền có công
nhưng kết quả chưa có. Thế nên chúng ta biết tu, phải khéo ứng dụng cho
đúng.
Trên đây tôi dẫn các vị Thiền sư từ Trung Hoa đến Việt Nam để nhắc nhở quí
vị nhớ ứng dụng, nhưng câu chuyện mà tôi hằng nhớ, hằng nhắc nhiều nhất là
chuyện ngài Phù Dung. Ngài Phù Dung là ai? Tức là Thiền sư Đạo Giai. Ngài
tu hành đức hạnh cao nên được quan địa phương tâu về triều đình. Triều
đình nhà Tống quí các vị đạo đức, nên nhà vua mới phong tước hiệu và ban
tử y cho Ngài. Khi viên quan địa phương đem sắc lịnh phong tước hiệu và
ban tử y đến, Ngài từ chối không nhận. Việc Ngài không nhận được tâu lên
triều đình, nhà vua ra lệnh bắt điều tra và đánh. Quan địa phương thấy một
người tu đức hạnh mà bị đánh đập thì không nỡ, nhưng lịnh trên không dám
trái, nên mời Ngài đến. Khi Ngài đến, viên quan nói: “Theo luật, người
bệnh thì không bị điều tra, nay thấy Hòa thượng thân thể gầy ốm, có lẽ Hòa
thượng bệnh chăng?” Nếu chúng ta, khi ấy nói thế nào? - “Chúng tôi bệnh vô
kể v.v...” Tư cách của chúng ta hiện nay chắc là như vậy, nhưng ngài Đạo
Giai thì không phải như vậy Ngài nói: “Bần đạo thân tuy ốm, nhưng không có
bệnh.” Không có bệnh thì phải bị đánh, bị điều tra. Quí vị thấy người xưa
thà chịu bị đánh, nhưng không nói dối, còn chúng ta hiện nay thì sao?
Nhiều chuyện chưa quan trọng gì cả, đã nói dối trước rồi, phải không?
Nghĩa là khi hỏi đến điều gì hơi mất giá trị mình, liền tráo trở để cho
giá trị mình được tăng, chớ không cho giảm. Như vậy để thấy tâm niệm tu
hành của chúng ta còn non yếu, không cứng cỏi như người xưa. Đạo là cái
chỗ chân thật, như trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “trực tâm thị đạo
tràng”, nghĩa là tâm ngay thẳng đó là đạo tràng. Tâm chúng ta hiện nay
quanh co, làm sao lập đạo tràng được? Vì thế người tu chúng ta phải gan,
phải dám nói những lời chân thật, dù có những điều khổ đến với mình, mình
cũng không sợ, huống nữa là những lời thật chỉ có mất giá trị một ít thì
sợ làm gì phải không? Như vậy để giữ cho giá trị đạo đức không mất, không
tiêu hao. Nói như vậy để cho quí vị thấy rằng trên đường tu, chúng ta phải
gìn thân, gìn khẩu cho xứng đáng là người tu, thân thì phải nghèo, ăn đạm
bạc, mặc rách rưới, ngôn ngữ phải thật thà, như vậy mới hợp với người tu.
Nếu tu mà xảo quá cũng không được, sang quá cũng không được, ăn ngon quá
cũng không được, phải không? Đó là những điều chúng ta phải nhớ.
Ngài Phù Dung nói một câu mà sau này thường dẫn là: “Ngộ thanh, ngộ sắc
như thạch thượng tài hoa; kiến lợi, kiến danh như nhãn trung trước tiết.”
Ngài nói rằng: “Gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá; thấy lợi, thấy
danh cũng như bụi rơi trong con mắt.” Chúng ta được như thế chưa? Ngài nói
để nhắc chúng ta thấy sắc đẹp, nghe âm thanh hay mà vẫn như hoa trồng trên
đá. Hoa trồng trên đá có ra rễ nổi không? Nghĩa là không dính dáng gì tới
mình hết. Còn thấy lợi thấy danh cũng như bụi rớt trong con mắt, xốn lắm!
Chúng ta hiện nay con mắt mờ mờ, thấy lợi thấy danh thì sáng lên phải
không? Nó sáng lên chớ không phải như bụi rớt. Đó là tôi nhắc để tất cả
quí vị thấy rõ trên đường tu, chúng ta phải đủ những tư cách như vậy.
-
Một là phải biết rằng chúng ta là kẻ bần tăng, là người nghèo, chớ không
phải người giàu; đã là người nghèo thì phải xử sự đúng tinh thần của người
nghèo.
-
Hai là chúng ta phải chấp nhận mọi sự khen chê, chúng ta đều thấy như uống
nước cam lồ, chớ không phải thấy là cái khó, cái khổ.
-
Ba là sự sống của chúng ta rất đạm bạc, ăn uống đơn sơ, mặc cũng đơn sơ.
-
Bốn là dù gặp những trường hợp làm cho chúng ta bị mất chút ít uy tín,
nhưng cần nói thẳng, nói thật, thì chúng ta cũng chấp nhận, chớ đừng dối
trá làm mất tâm đạo đức của mình.
-
Năm là ngay nơi chúng ta đã có hòn ngọc quí không phải tìm cầu ở đâu nữa.
Chỉ cần khéo nhận ra để sử dụng.
-
Sáu là Thiền không phải là cái gì khác lạ mà chính là chỗ đối cảnh vô tâm.
“Đối cảnh vô tâm” tức là Thiền chớ không phải cầu kiếm cái gì lạ nữa hết.
Đó là chủ yếu tôi muốn nhắc quí vị hôm nay.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
] |