BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO
XUÂN ẤT SỬU 1985
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Ất Sửu, là năm 1985 D.L., tất cả quí
Tăng Ni và Phật tử tới chúc mừng năm mới đáp lại lòng tốt của quí vị, tôi
xin nói chuyện nhiều, trước nhất là để nhắc cho quí vị nhận ra cái chân
thật nơi mình để ứng dụng tu hành, thứ nữa để quí vị cùng tôi, chúng ta
sống được cái chân thật này tròn một năm hay là từ đây về sau hằng được
chân thật. Hôm nay tôi không tiếc những sợi lông mày, vì quí vị mà nói
trắng ra những điều gì cần nói, đó là chủ yếu buổi nói chuyện hôm nay với
đề tài là: “BÌNH THƯỜNG TÂM THỊ ĐẠO”. Đề tài này quí vị chắc cũng thường
nghe, chúng tôi không nói những chuyện gì mới lạ ở đâu xa, chỉ dẫn những
chuyện cũ mà quí vị từng nghe chúng tôi giảng những năm về trước, nhưng ở
đây chúng tôi nói lại có khác hơn thuở xưa; bởi vì ngày trước chúng tôi
nghĩ rằng chúng tôi chỉ nói tổng quát hay là gần một chút để cho quí vị
thầm nhận, nếu ai không nhận được thì qua những buổi khác hoặc qua thời
gian tu rồi cũng có thể nhận, chớ chúng tôi không nói trắng, không nói
thẳng. Nhưng hôm nay chúng tôi sẽ nói thẳng ra cho quí vị thấy, nếu quí vị
thấy rồi ứng dụng được thì đó là một điều rất quí mà chúng tôi mong mỏi.
Trước tiên tôi dẫn câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền.
Ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp
“Tâm bình thường là đạo”, nói theo chữ Hán là “bình thường tâm thị đạo”.
Ngài Triệu Châu hỏi: “Lại có thể nhằm tiến đến chăng?” Nếu nói tâm bình
thường là đạo như vậy mình có thể nhằm tiến tới để được tâm đó hay không?
Ngài Nam Tuyền trả lời: “Nghĩ nhằm tiến đến là trái.” Vừa nghĩ tiến đến để
đạt đạo là trái với đạo rồi. Ngài Triệu Châu hỏi thêm: “Khi chẳng nghĩ làm
sao biết là đạo?” Theo quan niệm của ngài Triệu Châu là muốn biết đạo phải
do nghĩ mà biết, nay không do nghĩ tiến đến thì làm sao biết đạo? Ngài Nam
Tuyền đáp: “Đạo chẳng thuộc biết, chẳng biết, biết là vọng giác, không
biết là vô ký, nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không thênh
thang rỗng rang, đâu thể dối nói phải quấy.” Ngay đó Sư ngộ, như vậy ngang
đó ngài Triệu Châu liền ngộ, còn quí vị ngộ chưa?
Bởi chưa ngộ, nên nay tôi mới giải thích trắng ra cho quí vị thấy. Tất cả
chúng ta, người học đạo hay người tầm đạo, ai cũng nghĩ rằng trên đường tu
mình phải tìm cho được đạo hay là thấy cho được đạo; nhưng muốn tìm được
đạo, thấy được đạo phải làm sao? Chúng ta cứ nghĩ rằng đạo là cái gì quí
giá cao cả ở ngoài mình, chớ không phải ở nơi mình, thế nên mình cứ nghĩ
tìm đạo; ngài Triệu Châu cũng có tâm niệm tương tự chúng ta, Ngài đến hỏi
ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền chỉ thẳng: “Tâm bình
thường là đạo.” Quí vị nghĩ “tâm bình thường” là tâm như thế nào? Ngồi đâu
cũng nghĩ chuyện năm trên năm dưới, đó là tâm bình thường phải không? Vừa
có dấy niệm lên là động, mà động là bất bình thường. Thế nên cái tâm bình
thường là cái tâm phẳng lặng không động, tâm đó là đạo, chớ chẳng đâu xa,
cũng như nói mặt nước phẳng là khi nào không dậy sóng, phải không? Nếu dậy
sóng thì mặt nước không còn phẳng nữa, phẳng tức là lặng lẽ, là bình
thường, vừa dấy sóng lên là động, là bất bình thường. Như vậy ngài Nam
Tuyền không ngại chỉ thẳng cho chúng ta thấy rằng “Tâm bình thường là đạo”
chớ không phải cái gì xa xôi. Đạo là cái tâm bình thường đó. Qua câu nói
đó ngài Triệu Châu chưa hài lòng, Ngài nói: “Lại có thể nhằm tiến đến
chăng?” Nếu tâm bình thường như vậy thì tôi có thể tiến đến để đạt đạo
được chăng? Quí vị thấy Ngài nói tiến đến để đạt đạo, thì cái nghĩ tiến
đến là bình thường hay bất bình thường? Vừa nghĩ tiến đến là đã bất bình
thường, mà bất bình thường là mất đạo; vì vậy ngài Nam Tuyền trả lời:
“Nghĩ nhằm tiến đến là trái.” Trái với cái gì? Trái với đạo! Bởi vì vừa
nghĩ tiến đến đã là động, mà động tức là bất bình thường, cho nên trái với
đạo. Cũng như mặt nước phẳng nếu dấy sóng lên là trái với mặt nước phẳng,
phải không? Vì vậy nên nói nghĩ nhằm tiến đến là trái. Nhưng ngài Triệu
Châu cũng chưa hài lòng, Ngài nghĩ đạo là cái gì phải do suy nghĩ mà biết
mới gọi là đạo, chẳng lẽ tâm bình thường lặng xuống là đạo hay sao? Vì vậy
Ngài mới hỏi thêm: “Khi chẳng nghĩ làm sao biết đạo?” Nếu không suy nghĩ
gì cả làm sao biết đó là đạo, phải không? Nghĩa là đạo là cái mình hay suy
nghĩ mà biết, nhận ra, nay không cho suy nghĩ, không cho biết thì làm sao
biết đó là đạo? Ngài Nam Tuyền mới bảo “Đạo chẳng thuộc biết và chẳng
biết, biết là vọng giác, không biết là vô ký”, nghĩa là tâm lặng lẽ đó là
đạo, vừa dấy biết thì đó là vọng giác, còn không biết gì cả đó là vô ký,
cả hai đều sai. Nếu thật đạt đạo, tức là thật nhận ra cái đó thì sao? Thì
không còn nghi ngờ gì nữa cả, chỗ đó nó thênh thang như hư không rỗng
rang, không có thể nói là phải hay là quấy, nghĩa là vừa nói quấy là hai
bên, mà hai bên là trái với đạo. Ngay đó ngài Triệu Châu ngộ, như vậy thì
ngài Triệu Châu ngộ được tâm bình thường là đạo. Quí vị thấy chỗ đó chưa?
Đây là tôi nói trắng quá rồi chắc không còn ai nghi ngờ gì nữa.
Để
tôi dẫn thêm một Thiền sư khác, đó là Thiền sư Đạo Ngộ. Ngài Sùng Tín là
một ông thợ làm bánh bao ở trước cổng chùa, như vậy chúng ta biết trình độ
văn hóa của ông đến đâu rồi, phải không? Là một người làm nghề bánh bao,
nhưng được cái tốt là biết phát tâm cúng dường, nên hôm nào cũng đem vài
cái bánh bao đến cúng thầy (tức Thiền sư Đạo Ngộ). Cứ như thế trong một
thời gian, ngài Đạo Ngộ nghĩ thương tình người có đạo tâm, nên một hôm khi
Sùng Tín đem bánh bao cúng cho Ngài, Ngài chỉ nhận phân nửa, còn phân nửa
Ngài trả lại và nói: “Ta cho lại ngươi để về nuôi dưỡng con cháu”, Sùng
Tín ngạc nhiên quá, thưa rằng: “Con cúng cho Thầy mà Thầy cho lại con để
làm gì?” Đạo Ngộ nói: “Ngươi cúng cho ta, ta cho lại ngươi thì có lỗi
gì?”. Câu chuyện đối đáp đó làm ông băn khoăn: Tại sao mình cúng cho thầy
mà thầy cho lại mình? Suy nghĩ một lúc không biết ông hiểu làm sao rồi
phát tâm đi tu. Khi ông xin xuất gia, Đạo Ngộ nói: “Được, ta cho ngươi
xuất gia.” Sau khi Ngài xuất gia, ngài Đạo Ngộ bảo: “Nay ông làm thị giả
cho ta, ta sẽ chỉ tâm yếu cho ông.” Từ đó Sư bắt đầu làm thị giả, mãi đến
hai ba năm không thấy Đạo Ngộ chỉ dạy tâm yếu gì cả. Cho đến một hôm thắc
mắc quá, Sư ẩn nhẫn không nổi mới ra hỏi thầy: “Từ ngày con vào đây đến
nay chưa được Thầy chỉ tâm yếu.” Đạo Ngộ bảo: “Từ ngày ngươi vào đây, ta
chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.” Nghĩa là Sùng Tín thấy từ ngày
thầy bảo làm thị giả hứa dạy tâm yếu, mà cả mấy năm chưa dạy câu nào nên
Sư phải hỏi. Khi Sư hỏi thì Đạo Ngộ nói rằng: “ Từ ngày ngươi vào đây, ta
chưa từng chẳng chỉ dạy tâm yếu cho ngươi.” Quí vị thấy có nghi không? Thế
nên Sư nghi, hỏi thêm: “Thầy chỉ dạy ở chỗ nào?” Đạo Ngộ bảo: “Ngươi dâng
trà lên, ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận,
ngươi xá lui ra thì ta gật đầu, chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu?” Như vậy
chỉ dạy tâm yếu không có lời phải không? Nghĩa là dâng trà thì vì đưa tay
mà tiếp, nếu dọn cơm xong mời thì bắt đầu đến ngồi cầm đũa, phải không?
Cho tới xá lui ra thì gật đầu, chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu. Sùng Tín
cúi đầu im lặng suy nghĩ, nghĩ tại sao việc đó là tâm yếu? Sư vừa suy
nghĩ, Đạo Ngộ liền bảo: “Thấy thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai.”
Qua câu nói đó, Sư ngộ, liền hỏi thêm “làm sao giữ gìn”? Đạo Ngộ bảo: “Mặc
tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có thánh
giải khác.” Đó là điểm đặc biệt, tôi giải thích thêm cho quí vị thấy cái
chủ yếu.
Khi người thị giả dâng chung trà, mình đưa tay nhận chung trà, lúc đó có
suy nghĩ gì không? Mà có biết không? Đó nhận chung trà mà không có một
niệm suy nghĩ gì cả. Khi người thị giả dọn cơm sẵn, xá mời thì mình bước
tới ngồi và cầm đũa, lúc đó thế nào? Ngồi cầm đũa đâu có gì phải suy nghĩ?
Khi người thị giả xá chào lui thì mình gật đầu, trong giai đoạn gật đầu
đâu có suy nghĩ gì phải không? Như vậy trong những động tác hằng ngày của
chúng ta mà không có một niệm nghĩ suy, đó là tâm yếu rồi, phải không? Tâm
yếu hiện rõ ràng trong mọi hành động, nếu thấy được chỗ đó thì chỗ nào mà
không chỉ tâm yếu? Không dạy tâm yếu? Như vậy quí vị thấy tâm yếu này có
giống tâm bình thường ở trên không? Đâu có hai phải không? Nhưng ở đây đặc
biệt là khi Sùng Tín cúi đầu suy nghĩ: Việc đó sao gọi là tâm yếu? Vừa suy
nghĩ thì Đạo Ngộ nói thẳng một câu: “Thấy thì thẳng đó liền thấy.” Trong
những hành động, ngay đó mà thấy, vừa suy nghĩ liền sai; chúng ta thấy rõ
tâm yếu là gì rồi phải không? Nên ngay câu đó Sư mới ngộ, chớ khi kể những
hành động trên Sư chưa ngộ được. Đến khi Sư suy nghĩ, Đạo Ngộ nói: “thấy
thì thẳng đó liền thấy suy nghĩ liền sai”, ngay đó Sư ngộ. Nhưng khi ngộ
rồi, làm sao gìn giữ để đừng mất tâm yếu đó? Đấy là vấn đề then chốt. Khi
hỏi “làm sao gìn giữ” thì Đạo Ngộ trả lời: “Mặc tánh tiêu dao, tùy duyên
phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm chẳng có thánh giải khác.” Rất nhiều người
hiểu lầm các câu này: “Mặc tánh tiêu dao” nghĩa là thế nào? Nghĩa là chúng
ta thổi sáo, đi dọc đường dọc sá như là người điên phải không? Thong thả
rong chơi xứ này xứ nọ, thổi sáo thổi kèn hoặc là đàn địch v.v... Như vậy
có phải là “nhậm tánh tiêu dao” không? Quí vị thấy phải không? “Nhậm tánh
tiêu dao” hay mặc tánh tiêu dao là thế nào? Quí vị nhớ tánh tiêu dao chớ
không phải thân tiêu dao, phải rõ chỗ đó. Tánh của mình thế nào mà gọi là
mặc tánh tiêu dao? Tánh thấy, tánh nghe có động không? Có giới hạn không?
Bởi nó không động, không giới hạn cho nên nó thênh thang; trong cái thênh
thang không động đó, cứ mặc nó đừng kiềm đừng giữ thì đó là mặc tánh tiêu
dao; chớ không phải nói mặc tánh tiêu dao rồi cầm ống sáo đi nơi này, nơi
kia thổi, rồi nói tôi mặc tánh tiêu dao. Đó là cuồng Tăng chớ không phải
tiêu dao, nhớ như vậy; đa số người hiểu lầm điểm đó. Tánh của mình là
thênh thang, là lặng lẽ, không bận không phiền, mình đừng thêm một cái gì
cho nó nữa, đừng kềm đừng giữ thì đó gọi là tánh tiêu dao. Còn chúng ta
lâu nay tu là kềm là giữ, bởi kềm giữ nên nó trái với tự tánh. Quí vị phải
hiểu cho thật rõ chỗ đó. Lại có một số người hiểu lầm chữ tùy duyên phóng
khoáng. Tùy duyên là duyên đến thì mình theo đó; phóng là buông, khoáng là
rộng rãi; tùy duyên là buông hết, không vướng, không bận, không bị điều gì
làm phiền nhiễu, đó gọi là tùy duyên phóng khoáng. Chúng ta đâu không nghe
bài kệ của ngài Sơ tổ Trúc Lâm: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”, nghĩa là
ở trong chỗ bụi bặm mà vui với đạo,tức là vui với tâm bình thường đó, rồi
hãy tùy duyên. Tùy duyên như thế nào? “Cơ tắc xan hề khốn tắc miên”: đói
thì ăn, mệt thì ngủ đó gọi là tùy duyên. Đói ăn mệt ngủ là tùy duyên là
phóng khoáng.
Còn gặp quán rượu thì bước vào hay thấy rạp hát thì lao tới, phải đó là
tùy duyên phóng khoáng không? Quí vị thấy phải không? Tùy duyên phóng
khoáng là đến ăn thì ăn, đến mặc thì mặc, đến nghỉ thì nghỉ, không để một
niệm nào làm rối, làm bận lòng mình. Buông hết những tâm niệm, lòng mình
thênh thang rộng rãi đó gọi là tùy duyên phóng khoáng. Thí dụ chúng ta cầm
chổi quét chùa hay đi nhổ cỏ mà tâm vẫn thênh thang rộng rãi, đó là tùy
duyên phóng khoáng, chớ không phải nói tùy duyên phóng khoáng rồi đến
tiệm, ngồi quán hoặc gặp cái gì làm cái ấy bất kể tốt xấu. Tùy duyên phóng
khoáng là trong cuộc sống bình thường: ăn, mặc hay làm công tác trong phạm
vi nhà chùa, trong phạm vi đạo đức mà không bận lòng, không có vọng tưởng,
tâm vẫn an nhiên tự tại, đó mới gọi là tùy duyên phóng khoáng. Đừng như
một số cuồng Tăng hiện nay, nói phóng khoáng rồi bày ra những chuyện tầm
phào, gặp nữ sắc cũng không kỵ, gặp rượu chè cũng không tránh, ai mời vào
tiệc rượu cũng ngồi, rồi nói tôi tùy duyên phóng khoáng. Trong nhà thiền
gọi đó là cuồng thiền, chớ không phải tùy duyên phóng khoáng. Chính những
trọng điểm này tôi muốn nhắc thật kỹ đó quí vị hiểu mà tu, chớ để nhiều
khi hiểu lầm một chữ mà có thể là họa trên đường tu của mình. Tôi nhắc
lại: Tánh của chúng ta lặng lẽ thênh thang, chúng ta không phải kềm, không
phải giữ, đó là mặc tánh tiêu dao; còn gặp công tác nào làm công tác ấy,
gặp ăn thì ăn, gặp nghỉ thì nghỉ, mà tâm chúng ta vẫn lặng lẽ thênh thang
đó là tùy duyên phóng khoáng. Ăn, nghỉ, mặc, trong nề nếp đạo đức, chớ
không phải ăn, mặc, nghỉ theo cách của nhiều người nói “đói thì ăn”, rồi
khi xuống chợ, đói liền vào quán ngồi ăn, hay khi đi đường mệt thì nằm ì
ngoài đường ngủ rồi nói “mệt thì ngủ”. Đó gọi là cuồng thiền, thiền hiểu
một cách loạn không đúng lẽ thật, làm trái với tư cách người tu, làm trò
cười cho thiên hạ, đó là những kẻ hiểu lầm. “Tùy duyên phóng khoáng” là
tùy theo hoàn cảnh, đến ăn thì ăn, đến mặc thì mặc, như trong những câu
chuyện vừa kể trên: dâng trà thì tiếp trà, dâng cơm thì nhận cơm, xá chào
thì cúi đầu. Tùy duyên phóng khoáng là như thế! “Chỉ hết tâm phàm chẳng có
thánh giải khác”, chủ yếu là hết tâm phàm. Tâm phàm là tâm nào? Là tâm
vọng tưởng điên đảo. Buông xả hết những tâm vọng tưởng điên đảo là đủ, đó
là đạo, chớ đừng mong thấy gì đặc biệt hay tuyệt vời. Thường người tu hay
mong thấy những gì kỳ đặc, mong có những tiếng lạ, mong có những điều
huyền diệu; thế nên khi lặng hết vọng tưởng, chúng ta chưa hài lòng, chúng
ta muốn thấy hào quang, muốn biết bay v.v... Đó là muốn có cái gì của
thánh đem vào mình, đó là cái bệnh của đa số người tu; vì vậy nên Ngài
dạy: “chỉ hết tâm phàm”, tức là những vọng tưởng điên đảo của chúng ta
sạch hết thì đó là thánh rồi, chớ đừng đòi cái thánh nào thêm nữa. Thế
nên, “chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh giải khác”, không có thánh giải nào
ở ngoài đến, ngừng ngay phàm tình tức là vọng tưởng, nó là chủ của nghiệp,
là nhân của luân hồi sanh tử, hết nhân đó là giải thoát sanh tử phải
không? Chỗ không sanh, không diệt nhưng hằng tri hằng giác là cái bất
sanh, bất tử, như vậy bất sanh bất tử không phải thánh là gì? Thế mà chúng
ta đòi thêm Thánh nữa, có phải là đầu lại thêm đầu hay không? Thế nên ở
đây Ngài chỉ thẳng cho chúng ta biết “chỉ hết tâm phàm”, tức là chỉ cần
hết vọng tưởng thôi, đừng đòi thêm điều gì khác nữa. Có nhiều người thường
hỏi tôi, sau khi vọng tưởng lặng hết thì còn cái gì, tức là muốn làm sao?
Muốn thêm Thánh giải nữa phải không? Tôi chỉ trả lời: Ráng hết vọng tưởng
giùm tôi đã, rồi việc kia sau, đừng có đòi. Nhưng người tu ai cũng mong
hết được cái này phải có cái gì khác, chớ không ngờ hết cái này thì là
Thánh mất rồi! Như vậy quí vị mới hiểu chủ yếu của người tu là dứt mầm
sanh tử luân hồi, khi nhân sanh tử luân hồi hết, đó là giải thoát, chớ
không còn cái giải thoát nào khác nữa. Vì vậy nên hết tâm phàm là hết luân
hồi, hết luân hồi là giải thoát, đừng đòi thêm Thánh giải nào khác nữa.
Hết tâm phàm thì ngay nơi đó là đạo, phải không? Như vậy quí vị mới thấy
chỗ thiết yếu của ngài Đạo Ngộ dạy. Sau khi chúng ta nhận được hay tâm yếu
trong mọi hành động của mình, muốn gìn giữ nó thì phải mặc tánh tiêu dao
tức là đừng kềm đừng giữ. Có nhiều người nói “giữ tâm thanh tịnh” thì tôi
hay nhắc giữ là sai, giữ là trái với mặc tánh tiêu dao. Vì cái thanh tịnh
đó là tự tánh của mình mà giữ nó tức nhiên là bị kềm, hết tiêu dao, phải
không? Còn tùy duyên phóng khoáng là theo duyên gặp hành động nào thì thực
thi hành động đó, gặp ăn thì ăn, mặc thì mặc, nghỉ thì nghỉ, nhưng tâm
thênh thang rộng rãi, chớ không phải nói tùy duyên phóng khoáng rồi làm
những điều trái đạo đức. Lâu ngày tâm phàm tự hết, khi ấy không cần thánh
giải nào khác, vì tự nó là Thánh. Đó là chỗ chỉ dạy đầy đủ của ngài Đạo
Ngộ.
Tôi dẫn thêm một câu chuyện nữa, như trong đoạn đầu chúng ta thấy ngài
Triệu Châu ngộ đạo nơi ngài Nam Tuyền, ngộ ngay chỗ “bình thường tâm là
đạo” nên sau này Ngài dạy lại đồ đệ, đây tôi dẫn câu chuyện: Một hôm có vị
Tăng mới vào chùa, đến thưa với Ngài rằng: “Con mới vào tùng lâm, xin Thầy
chỉ dạy.” Ngài Triệu Châu hỏi: “Ăn cháo xong chưa?” Tăng thưa: “Ăn xong.”
Ngài bảo: “Rửa bát đi.” Dạy cái gì lạ vậy? Người ta nói giải thoát nói
giác ngộ v.v... phải không? Đây chỉ hỏi “ăn cháo xong chưa”, khi ông Tăng
trả lời “ăn xong”, Ngài bảo “rửa bát đi”, ngay đó ông Tăng ngộ. Như vậy
ông Tăng ngộ cái gì? Cái ngộ này có khác với cái ngộ của ngài Sùng Tín hay
không?
Dâng trà thì tiếp, dâng cơm thì nhận, xá lui ra thì cúi đầu. Ở đây ăn cháo
xong thì rửa bát, có phải là “Bình thường tâm” hay không? Như thế quí vị
mới thấy rõ các ngài chỉ dạy lại nhau cái đó, chớ chẳng cái gì khác hơn,
chính cái mình đã nhận được nơi thầy thì đem truyền lại cho đệ tử, nhưng
truyền lại một cách rất lạ lùng phải không? Không ai có thể hiểu nổi! Tại
sao bảo ăn cháo, bảo rửa bát mà lại ngộ đạo, đạo ở chỗ nào? Vì vậy nên sau
này Thiền sư Hoằng Trí có làm một bài tụng để ca ngợi chỗ đó. Ngài nói:
“Chúc bãi linh giao tẩy bát bồn,
Hoát nhiên tâm địa tự tương phù.
Như kim tham bảo tùng lâm khách,
Thả đạo kỳ gian hữu ngộ vô?”
Tôi tạm dịch:
“Cháo xong liền dạy rửa chén tô,
Bỗng dưng tâm địa tự tương phù
Hiện nay là khách tùng lâm cũ,
Hãy nói khoảng này có ngộ không?”
Chúng ta ở trong tùng lâm mười năm, mười lăm năm có bằng vị Tăng bảo ăn
cháo, bảo rửa chén đó không? Thật là đơn giản, mới vào mà bảo “ăn cháo
đi”, thưa “ăn cháo xong”; bảo “rửa bát đi” liền ngộ đạo. Quí vị thấy người
xưa dạy: Đạo là chỗ bình thường đó. Ăn cháo rửa bát có phải là mặc tánh
tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng hay không? Hiểu được đoạn trên thì đến
chỗ này chúng ta không thấy lạ.
Đến câu chuyện thứ tư: Ngài Động Sơn Thủ Sơ, khi còn là một Thiền khách,
Ngài đến hỏi đạo nơi ngài Vân Môn, ngài Vân Môn hỏi: “Ông vừa rời chỗ
nào?” Ngài thưa: “rời Tra Độ”, tức là từ Tra Độ đến. Ngài Vân Môn hỏi:
“Mùa hạ ở đâu?” Thủ Sơ đáp: “Ở chùa Báo Ân tại Hồ Nam.” Vân Môn hỏi: “Rời
chỗ kia lúc nào?” Thủ Sơ đáp: “Ngày 25 tháng 8.” Vân Môn bảo: “Tha ông ba
gậy! Đến nhà tham thiền đi.” Quí vị có thấy thắc mắc không? Có lỗi gì mà
bảo “tha ông ba gậy, xuống nhà tham thiền đi”. Thủ Sơ làm lỗi gì? Nếu
không có lỗi tại sao tha ba gậy? Đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn. Đọc
sách thiền, đến đoạn này, ai cũng bóp trán, phải không? Hỏi đâu nói đó một
cách thật thà không một chút điêu ngoa, tại sao lại tha ba gậy, rồi bảo
xuống nhà tham thiền. Đó là một thắc mắc, mà chính sư Thủ Sơ cũng thắc
mắc; có lẽ trưa đó Sư ngủ không được, cho nên đến chiều Sư đi thẳng vào
thất của ngài Vân Môn hỏi: “Bạch Hòa thượng khi sáng con có lỗi gì?” Nếu ở
trường hợp Sư, chúng ta cũng thắc mắc như vậy. Ngài Vân Môn nói: “Cái túi
cơm, Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy!” Quí vị thấy Ngài nói làm sao? Ngài quở
“cái túi cơm! Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”, Giang Tây tức là chỗ của Mã
Tổ, Hồ Nam là chỗ của ngài Thạch Đầu. Đó là hai vị Thiền sư nổi tiếng đời
Đường. “Là thế ấy” nghĩa là sao?
Quí vị thấy hỏi “ở đâu” - thưa “ở Tra Độ” - hỏi “mùa hạ ở đâu” - thưa “ở
chùa Báo Ân tại Hồ Nam” - hỏi “rời chỗ kia lúc nào” - thưa “ngày 25 tháng
8”; đó có phải là chuyện bình thường hay không? Trả lời như vậy có cần
phải suy nghĩ gì không? Hỏi đâu đáp đó rõ ràng bình dị, không phải suy
nghĩ gì cả. Trong khi hỏi đáp bình thường không bận suy nghĩ đó có phải là
tâm bình thường hay không? Chính chỗ đó. Nhưng Ngài muốn làm cho nổi sóng,
nổi gió nên Ngài nói “tha ông ba gậy”, đó là nổi sóng đó. Chúng ta không
hiểu lỗi tại chỗ nào, đó là cái kỳ đặc của ngài Vân Môn, ta phục Ngài là
phục ở điểm đó. Câu “tha ba gậy” làm cho mình thắc mắc băn khoăn không
biết tại sao câu trả lời rất bình dị mà Ngài cho là có lỗi. Thế nên sư Thủ
Sơ đợi đến chiều lên hỏi lại, khi hỏi lại thì ngài Vân Môn quở: “cái túi
cơm”, nghĩa là ông không có thông minh chút nào hết, như là cái túi cơm
vậy thôi! Ở “Giang Tây, Hồ Nam là thế ấy”: chỗ Mã Tổ, chỗ ngài Thạch Đầu
chỉ dạy cái đó thôi, cái chỗ bình thường đó! Ngay đó Thủ Sơ ngộ. Sư ngộ
đạo là nhờ cái kỳ đặc hay cái khéo tay của ngài Vân Môn. Đọc qua câu
chuyện ai cũng phải ngạc nhiên, ngạc nhiên ở điểm nào? Chỗ “tha ông ba
gậy” đó. Trong nhà thiền gọi đó là cái thuật làm sóng gió, chính nhờ cái
thuật đó mà sư Thủ Sơ mới nhận ra một cách dễ dàng. Như vậy quí vị thấy
các Thiền sư ngày xưa có dạy điều gì khác đâu phải không? Các ngài chỉ
muốn chỉ cái chân thật cho chúng ta, mà cái chân thật đó là ngay chỗ bình
thường. Trong mọi hành động, mọi ngôn ngữ, nếu không thêm dấy niệm suy
nghĩ thì ngay trong đó là đạo. Như vậy ở đây có người nào không có cái đó?
Tất cả chúng ta ai thiếu cái đó? Thế mà có ai dám nhận không?
Đến đây tôi dẫn câu chuyện có mà không chịu nhận: chuyện ông Sa-di Cao.
Khi ngài Dược Sơn và ông Sa-di Cao nói chuyện, qua câu trả lời của Sa-di
Cao, ngài Dược Sơn biết đó là người đã thấy, nên mới khoe với các đồ đệ
lớn như Vân Nham, Đạo Ngô, nhưng hai vị này chưa tin. Vì vậy ngài Dược Sơn
muốn hỏi lại một lần nữa, để xác định lối trả lời của Sa-di Cao đúng lẽ
thật cho hai vị kia tin. Ngài mới hỏi ông Sa-di Cao: “Ta nghe ở Trường An
rất náo loạn, ngươi có biết chăng?” Sa-di Cao trả lời: “Nước con an ổn.”
Ngài hỏi thêm: “Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?” Ông Sa-di Cao
đáp: “Chẳng do xem kinh được cũng chẳng do thưa hỏi được.” Ngài Dược Sơn
hỏi: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi sao chẳng được?” Ông
Sa-di Cao đáp: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận.”
Câu chuyện ngừng ngang đây.
Tôi nói ra ngoài một chút, tôi hỏi quí vị: “Vào mười hai giờ đêm giao thừa
này, ở dưới phố đốt pháo ồn lắm, quí vị có nghe chăng?” Quí vị thử trả lời
tôi xem. Sao không trả lời giống ông Sa-di Cao? Sao không trả lời rằng:
“Chùa con yên tịnh.” Quí vị trả lời theo câu hỏi của tôi mà không trả lời
theo ông Sa-di Cao. Dưới chợ thì pháo nổ ồn, nhưng ở chùa mình thì yên
tịnh. Tôi nói như vậy, quí vị thấy sao? Có thấy gì ở chỗ đó chưa? Nếu quí
vị trả lời như tôi trả lời là hợp với ông Sa-di Cao, còn nếu nói “nghe
pháo nổ ở dưới phố” thì chưa hợp.
Tôi nhắc lại cho quí vị thấy, ngài Dược Sơn nói: “Ta nghe ở Trường An
(Trường An là thủ đô của nhà Đường) rất náo loạn (tức là ồn náo) ngươi có
biết chăng?” Nếu trả lời như quí vị thì nói “dạ biết” phải không? Cũng như
tôi hỏi: “Ở dưới chợ, khi hôm pháo nổ ồn, quí vị có nghe chăng?” Quí vị
nói: “Dạ nghe.” Như vậy câu trả lời đó không hợp với ý Sa-di Cao. Sa-di
Cao liền thưa: “Nước con an ổn.” Ông ở trong nước Tàu, Trường An là thủ đô
nước Tàu, tại sao ông nói “nước con an ổn”? Câu trả lời của tôi “chùa con
yên tịnh” hợp với ý ông Sa-di Cao. Tại sao vậy? Trả lời như vậy có cái kỳ
đặc gì trong đó? Quí vị thấy chưa? Động là ồn, người qua lại xôn xao là
náo, ồn náo là tiếng động và người xôn xao. Thấy kẻ qua người lại xôn xao
là thấy, tiếng động là ồn là nghe. Khi hỏi ồn náo là muốn hỏi ông có thấy
có nghe sự ồn náo ngoài kia chăng? Sa-di Cao trả lời: “nước con an ổn”,
hay là nước con yên tịnh. Người đi là xôn xao mà cái thấy có xôn xao hay
không? Như vậy động là tiếng, xôn xao là người, còn cái thấy, cái nghe có
động, có xôn xao bao giờ? Thế nên nói “nước con an ổn” hay “chùa con yên
tịnh” là để chứng minh người đó đang nhớ cái của mình không động. Động là
cái bên ngoài! Trái lại, khi hỏi “nghe không”, chúng ta đáp “dạ nghe”, là
chúng ta đã lệ thuộc vào bên ngoài mất rồi! Như vậy để thấy người xưa muốn
thí nghiệm người được luôn luôn nhớ mình, nhớ không quên; đó mới là người
thường sống với cái thật. Thế nên qua câu trả lời thì ngài Dược Sơn chấp
nhận ngay, cả hai huynh đệ là ngài Vân Nham và ngài Đạo Ngô đều gật đầu.
Nhưng muốn thí nghiệm thêm nữa, ngài Dược Sơn mới hỏi: “Ngươi do xem kinh
được hay thưa hỏi được?” Cái không động đó là do ngươi xem kinh được hay
thưa hỏi thiện tri thức mà được? Nếu là chúng ta thì trả lời như thế nào?
“Dạ do thưa hỏi được!” Ông trả lời rằng: “Chẳng do xem kinh được cũng
chẳng do thưa hỏi được.” Cái nghe, cái thấy đâu phải do kinh mà được, đâu
phải do thầy dạy mà được, phải không? Cái đó đã sẵn nơi mình từ khi cha mẹ
sanh đến giờ. Nó đã sẵn rồi đâu đợi xem kinh hay thưa hỏi. Thế nên ông trả
lời: “chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được”; đó là chỉ
thẳng cái của mình có sẵn từ xưa; mới nghe như có vẻ phủ nhận công ơn Thầy
Tổ phải không? Nhưng sự thật là như vậy, Thầy Tổ chỉ là người chỉ bóng
thôi, còn cái thật là cái sẵn nơi mình. Ngài Dược Sơn mới hỏi thêm câu
nữa: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?” Ý Ngài
nói chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi mà được thì có nhiều người họ không xem
kinh, không thưa hỏi sao chẳng được? Đây là gạn lại lần chót, Sa-di Cao
trả lời: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì không chịu thừa nhận thôi!” Có
sẵn đó mà không nhận nên coi như không được, chớ có người nào không được.
Câu nói chí lý vô cùng! Quí vị được hay không được? Chỉ cần biết thừa nhận
hay không, phải vậy không? Nếu không biết thừa nhận, thì mình là kẻ lang
thang, hạt châu trong chéo áo mà vẫn là kẻ cùng tử, quí vị phải nhớ rõ.
Để kết thúc tôi dẫn một câu chuyện lý thú nữa là chuyện ngài Tử Hồ bắt ăn
trộm. Câu chuyện này tôi thích nhất và hay kể nhiều nhất, tôi biết quí vị
thuộc, nhưng mỗi lần kể là một lần mới. Nhớ như vậy! Ngài Tử Hồ là một vị
Hòa thượng Thiền sư, chúng của Ngài được trên năm trăm người. Một hôm giữa
đêm, bỗng Ngài la to: “Ăn trộm! Ăn trộm!” Chúng hốt hoảng chạy đến, người
đầu tiên chạy đến bị Ngài chụp ôm nói: “Bắt được rồi! Bắt được rồi!” Người
bị bắt hoảng hốt thưa: “Dạ con! Không phải, không phải!” Ngài nói: “Phải!
Phải! Chỉ tại ông không dám nhận thôi!” Quí vị thấy câu chuyện nói điều
gì? Cả năm trăm người, ai cũng có cái đó mà không dám nhận, buộc lòng Ngài
phải dùng phương tiện kỳ đặc: Ôm một ông thầy nói ăn trộm, tự nhiên ông
phải bào chữa: dạ con! không phải ăn trộm. Thế nên ông nói: “con! không
phải! không phải!” thì Ngài nói: “phải, phải! chỉ tại ông không dám nhận
thôi”. Thành ra hai chữ “phải” và “không phải” nhắm vào việc gì? Ông Tăng
nói “không phải” là không phải ăn trộm, nhưng Ngài nói “phải” là phải cái
gì? Thành ra chữ thì như đối đáp nhau, mà ý thì thật là khác muôn dặm! Chữ
“phải, phải” của Ngài là chỉ cho chúng ta ai cũng sẵn có mà không chịu
nhận. Như vậy hình ảnh Ngài chụp một người la ăn trộm, người đó nói con
không phải ăn trộm thì Ngài nói “phải, phải, tại ngươi không dám nhận”,
câu chuyện đó chừng nào chúng ta mới quên được?
Người xưa muốn cho chúng ta thừa nhận cái thật của mình mà lâu nay đã bỏ
quên, nên các ngài dùng đủ phương tiện để nhắc chúng ta nhớ. Riêng tôi
không có phương tiện khéo như vậy, nên tôi mới dẫn chuyện của người xưa để
nhắc cho quí vị nhớ. Qua những câu chuyện tôi kể và giải thích ở đây, nếu
quí vị nhận được, biết quí nó như hòn ngọc vô giá hay một hạt minh châu
thì lời giải thích của tôi hôm nay là hữu ích, tức tôi là kẻ có công. Nếu
quí vị nhận được nó mà xem thường, nghĩ rằng cái đó ai mà không có, một
thằng bé con cũng có, ông già cũng có, có gì quan trọng; nếu quí vị xem
thường như vậy thì tôi là kẻ có tội. Vì muốn cho quí vị tiến tu không còn
ngờ vực nữa, nên tôi không ngại rụng hết lông mày vì quí vị mà chỉ thẳng,
nếu quí vị biết ngay nơi đó quí trọng gìn giữ như hòn ngọc báu thì quí vị
sẽ là người hữu dụng trong nhà đạo, và tôi cũng là người giúp quí vị đủ
lòng tin để tiến tu. Bằng không, nếu quí vị xem thường điều đó, thì đó là
lỗi lớn của chúng tôi.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
] |