BÀI THUYẾT PHÁP ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT
NGUỒN GỐC PHẬT PHÁP
TẤT NIÊN NĂM ẤT SỬU 1986
Hôm nay nhân ngày cuối năm, chúng tôi nhắc lại bài thuyết pháp đầu tiên
của đức Phật để quí vị nắm vững đầu mối của sự tu hành, và đi đúng con
đường đức Phật đã vạch sẵn cho chúng ta.
Là
con người, tất cả chúng ta đều yêu thương, quí trọng, gìn giữ bản thân và
lo âu sợ hãi, khổ đau vì bản thân của chúng ta. Chủ yếu của sự tu hành là
phải biết bản thân chúng ta như thế nào? Thường chúng ta hướng bên ngoài,
nói chung là chúng ta chạy theo ngũ dục lục trần mà không tự biết mình, cả
đời tạo nghiệp khổ mà không hay biết! Thế nên trong bài thuyết pháp đầu
tiên cho năm anh em ông Kiều-trần-như, đức Phật đi thẳng vào vấn đề, ngài
thuyết pháp Tứ đế.
Đức Phật chỉ thẳng con người thật của chúng ta, con người đó thật sự là
đau khổ hay là an vui? Nó là an vui mà mình quí trọng thương yêu, gìn giữ,
hay nó là đau khổ mà mình quí trọng, thương yêu, gìn giữ? Nếu không hiểu
con người thật của chúng ta, mà tìm hiểu những việc bên ngoài, đó là bỏ
cội gốc mà theo ngọn ngành. Nếu chúng ta đem hết tâm tư và khả năng tìm
hiểu những việc ngoài chúng ta, mà không tìm hiểu con người thật của chúng
ta, đó chưa phải là căn bản. Cũng như đứng trước một căn nhà, muốn tìm
hiểu căn nhà ấy, trước tiên chúng ta phải hiểu ông chủ nhà, ông chủ nhà
hiểu rồi, chúng ta tìm hiểu căn nhà không khó, con người là chủ còn sự vật
chung quanh chỉ là bạn, là phụ thôi. Danh từ chuyên môn nhà Phật gọi con
người là chánh báo, ngoại cảnh là y báo. Chánh báo tốt, y báo theo đó mà
tốt, chánh báo xấu, y báo theo đó mà xấu. Vì vậy chánh báo là chủ, y báo
là bạn, là phụ. Thế mà chúng ta tìm hiểu y báo mà không hiểu rõ chánh báo,
đó là một khuyết điểm lớn lao.
Khi dạy chúng ta tu hành, việc đầu tiên đức Phật bắt buộc chúng ta phải
xác định thân này là khổ hay vui? Thấy thật rõ điều đó, chúng ta mới nhận
đúng tất cả vấn đề. Mọi sự mọi vật đều phải qua cách nhìn và cách phán
đoán của chúng ta, nếu chúng ta không tự biết mình mà nói biết sự vật
chung quanh đúng lẽ thật, điều đó không bao giờ có! Vì vậy phải biết mình
đúng như thật, rồi mới biết người, biết ngoại cảnh đúng như thật. Nếu mình
biết mình một cách sai lầm, với người với ngoại cảnh mình cũng biết sai
lầm. Cho nên chủ yếu của đạo Phật là phải biết mình.
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là pháp Tứ đế. Thứ nhất đức Phật nói
về Khổ đế. Chúng ta lầm tưởng khổ đế là cái gì xa lạ bên ngoài, sự thật
khổ đế xác nhận sự khổ ngay nơi con người chúng ta. Chúng ta phải xét lại
thật kỹ con người mình là khổ hay là vui. Nếu là khổ phải cố gắng tu cho
hết khổ, nếu là vui thì tu làm chi cho thừa! Biết đúng như thật rồi, chúng
ta mới nói đến chuyện tu hành, nếu không biết đúng như thật thì không nên
nói đến chuyện tu! Vì sao? Vì thân này là cội gốc, nếu không biết rõ nó mà
biết những việc khác cũng chỉ là việc bên ngoài thôi. Vì thế chúng ta phải
xác nhận thật rõ thân này là khổ hay là vui?
Trong bài thuyết pháp đầu tiên đức Phật bảo: Thân này là khổ. Chúng ta cần
xác nhận thân này có khổ thật hay không? Khi nghe đức Phật nói thân này là
khổ, chúng ta đều cho rằng đạo Phật là bi quan, chán đời. Nhưng đây là một
lẽ thật không thể chối cãi được. Vì thế dùng chữ khổ suông chưa đủ mà phải
nói “Khổ đế”, tức là cái khổ đúng như thật, chớ không phải chuyện tưởng
tượng phi lý.
Đức Phật nêu lên hoặc là tứ khổ, hoặc là bát khổ. Tứ khổ gồm có: sanh,
già, bệnh, chết. Chúng ta thường nghĩ sanh là mới lọt lòng mẹ, khóc oa oa
là khổ. Nhưng theo chúng tôi nghĩ sanh là sanh hoạt hiện tại của mình
trong cuộc sống hằng ngày, đó là khổ hay vui? Còn lúc vừa lọt lòng mẹ dù
có khóc đi nữa, mình cũng không có cảm giác đau khổ. Vì vậy ngay khi chúng
ta đang sống, là khổ hay vui? Từ thuở bé thơ đến lúc tuổi già, từ hai mươi
ba mươi tuổi, đến sáu mươi bảy mươi tuổi, trong khoảng thời gian đó, những
điều chúng ta ước muốn được như ý nhiều hay bị mất như ý nhiều? Trong mười
điều ước muốn, chúng ta đạt được nhiều lắm là ba điều như ý, còn lại là
bất như ý. Như ý gọi là vui, bất như ý gọi là khổ. Như vậy vui ít, khổ
nhiều. Trong cuộc sống của chúng ta, những điều bất như ý xảy ra quá
nhiều, tức là đau khổ quá nhiều.
Tuổi già có khổ không? Khi tuổi còn trẻ, da dẻ hồng hào, sức khỏe đầy đủ
muốn làm điều gì, muốn đi nơi nào đều được như ý. Đến lúc già nua, sức
khỏe suy mòn, đi đứng run rẩy, nói năng lập cập, răng long má cóp, còn gì
là sung sướng như tuổi thanh xuân. Tuổi già chẳng khổ là gì?
Đến cái khổ thứ ba là bệnh. Bệnh thì làm sao vui được! Cái khổ thứ tư là
chết. Như vậy sanh, già, bệnh, chết là bốn cái khổ không ai chối cãi được.
Bốn cái khổ đó do từ đâu mà ra? Đó là do cái thân vô thường của chúng ta,
thân chúng ta luôn luôn đổi thay ở nguyên một vị trí, nó bị chuyển biến
cho nên có sanh, có già, có bệnh, có chết, vì thế mà chúng ta đau khổ. Thử
kiểm lại xem trên thế gian này có ai thoát khỏi bốn cái khổ đó không? Chắc
hẳn là không, vì đó là phần chung của mỗi người chúng ta. Cho nên Phật nói
khổ đế tức là cái khổ là một lẽ thật.
Đi
xa hơn nữa, Phật nói đến tám cái khổ. Ngoài bốn cái khổ sanh, già, bệnh,
chết nơi bản thân mình, Phật nói thêm bốn cái khổ là: ái biệt ly khổ:
người mình thương yêu mà phải xa lìa nên đau khổ; oán tắng hội khổ: người
mình không ưa mà phải giáp mặt nên khổ; cầu bất đắc khổ: những gì mình
thích và mong cầu mà không được như ý nên khổ. Đó là ba cái khổ liên hệ
mình với người và sự vật chung quanh. Đến cái khổ cuối là ngũ ấm xí thạnh
khổ, tức là thân ngũ ấm này là gốc của đau khổ, cái khổ này liên hệ chung
cả thể xác lẫn tinh thần. Thân ngũ ấm của con người gồm phần vật chất và
tinh thần, là một dòng biến chuyển, bởi thân vô thường biến chuyển cho nên
đau khổ. Khi biết thân là vô thường chúng ta có say mê nó, tô điểm nó cho
đẹp hơn người không, chúng ta có vun bồi nó để thụ hưởng cho lâu dài
không? Như khi chúng ta biết rõ món đồ giả, chỉ dùng đôi ba năm thì hư bể,
thử hỏi làm sao giữ gìn nó được một trăm năm. Cho nên khi biết món vật chỉ
dùng được đôi ba năm, chúng ta phải tận dụng nó cho hữu ích, chớ không cố
giữ nó làm gì. Thân chúng ta cũng như vậy, tạm bợ, vô thường và đau khổ,
nếu chúng ta không sử dụng nó cho hữu ích, lợi mình, lợi người, thì uổng
phí một cuộc đời. Biết thân là tạm bợ chúng ta phát tâm làm lợi ích chúng
sanh. Nếu thấy thân mình là lâu bền, tốt đẹp và quí báu thì chúng ta sanh
tâm kiêu căng ngã mạn; thấy thân mình là lâu bền chúng ta lo tích lũy dành
dụm, rồi thấy mình hơn người nên sanh tâm khinh rẻ kẻ khác. Do đó vừa thấy
thân lâu dài quí báu, thì bao nhiêu tật xấu theo đó mà sanh.
Hiện tại trong các Phật tử chúng ta, ai là người thấy thân mình là vô
thường, đau khổ? Hay chúng ta thấy nó chân thật lâu dài? Chúng ta không
dám xác nhận mạnh mẽ thân này là vô thường, cứ nghĩ rằng mình sẽ sống đến
tám mươi chín mươi tuổi. Già như những vị bảy mươi tuổi cũng nghĩ mình sẽ
sống đến chín mươi tuổi, chớ không bao giờ nghĩ mình có thể chết một vài
năm gần đây! Đó là lẽ thật mà chúng ta không gan dạ nhìn thẳng, cứ tưởng
tượng đời sống mình còn lâu dài, nên việc tu cũng yếu, việc làm lợi ích
chúng sanh cũng nhẹ. Đó là một khuyết điểm của người Phật tử chúng ta.
Biết rõ thân này là đau khổ, bởi nó là vô thường, chúng ta phải cố làm sao
cho mình hết khổ, cho người hết khổ. Chúng ta phải tìm nguyên nhân cái đau
khổ của thân, đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ điều này trong đế thứ
hai: đó là Tập đế. Nguyên nhân của thân đau khổ là ba thứ độc tham, sân,
si, hay nói nhiều hơn là sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến.
Sở
dĩ chúng ta khổ trong cuộc sanh sống vì có những điều bất như ý. Chúng ta
muốn mà không được nên bất như ý, muốn thuộc về tham. Bởi có tham nên mới
có bất như ý, nếu không tham làm gì có bất như ý, phải không? Có những cái
tham vượt quá khả năng mình, ví dụ khả năng mình có năm hay bảy, mà mình
tham đến một ngàn, như vậy là tham muốn quá sức, nên bất như ý quá nhiều
thì đau khổ cũng quá lắm. Như vậy gốc của đau khổ là lòng tham quá sức.
Khi muốn cái này được rồi, lại muốn đến cái thứ hai, khi được rồi lại muốn
đến cái thứ ba... Lòng tham cứ tăng thêm mãi không có chỗ dừng, cho nên
con người không bao giờ được như ý. Lòng tham vô chừng nên ở địa vị nào, ở
hoàn cảnh nào, con người cũng bất như ý. Khả năng mình hữu hạn mà lòng
tham vô hạn, làm sao không đau khổ.
Khi chúng ta đến tuổi già, chúng ta khổ, vì sao? Vì chúng ta muốn trẻ mãi.
Khi tuổi già đến tức là bất như ý rồi. Nếu chúng ta đừng tham trẻ, khi già
đến chúng ta cứ cười với cái già, thì có khổ gì đâu! Cái chết cũng như
vậy. Vì mình muốn sống nên khi cái chết đến mình khổ. Sanh, già, bệnh,
chết đều khổ, gốc từ lòng tham mà ra, nếu hết tham thì bốn cái khổ đâu
còn.
Do
sân nên khổ, điều này dễ hiểu. Do si nên khổ, cũng dễ hiểu. Si là không
thấy đúng như thật, vì không thấy đúng như thật nên mới tham. Thấy đúng lẽ
thật rồi, khả năng mình bao nhiêu, thấy rõ bấy nhiêu, không sai lầm, không
tham quá sức mình thì đâu có khổ. Vì tham quá sức nên bất như ý, nên mới
khổ. Vì vậy tham, sân, si là nguyên nhân của đau khổ, rõ ràng như vậy.
Khi biết rõ nguồn gốc của đau khổ là tham, sân, si, hay chung tất cả là
sáu thứ căn bản phiền não. Muốn hết đau khổ, phải làm sao? Đến đây đức
Phật nói đế thứ ba là Diệt đế. Như một ông thầy thuốc thấy bệnh nhân đang
bị bệnh hoành hành, ông thầy muốn trị bệnh, trước hết phải làm sao? Tức
phải tìm nguyên nhân bệnh, rồi sau đó mới trị, nguyên nhân bệnh hết rồi,
quả tự nhiên đâu còn. Vì thế diệt đế là diệt hết nguyên nhân tạo thành quả
đau khổ, nguyên nhân diệt sạch rồi, quả đau khổ hết, hết khổ gọi là vui,
phải vậy không?
Chủ yếu đạo Phật là dạy chúng ta thấy được quả đau khổ, rồi tìm nguyên
nhân gây đau khổ, và tiêu diệt nguyên nhân đó, tức nhiên quả đau khổ hết.
Cũng như khi biết bệnh do một loại vi trùng phá hoại hoành hành, biết được
vi trùng đó rồi, dùng thuốc trị, vi trùng chết hết, bệnh sẽ được lành.
Cũng như thế, diệt là diệt sạch nguyên nhân đau khổ, thì quả đau khổ đâu
còn, đó là tinh thần diệt đế.
Muốn diệt sạch nguyên nhân đau khổ, tức phải dùng những phương pháp, đến
đây đức Phật dạy đế thứ tư là Đạo đế. Đạo đế là những phương pháp hay
những phương thuốc tiêu diệt hết nguyên nhân đau khổ. Trong các kinh
A-hàm, đạo đế gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhưng căn bản là Bát thánh
đạo.
Chúng ta thấy rõ đức Phật nói khổ đế chỉ lẽ thật ngay nơi bản thân chúng
ta. Khi nhận thức thấu đáo được lẽ thật rồi, chúng ta phăng lần đến nguyên
nhân của đau khổ, rồi tìm cách tiêu diệt cho sạch các nguyên nhân đó, thì
quả đau khổ đâu còn. Muốn tiêu diệt các nguyên nhân đau khổ phải dùng
những phương pháp, đó là Đạo đế.
Như vậy pháp Tứ đế nhắm thẳng vào con người chúng ta từ quả đến nhân, từ
khổ đến hết khổ, chớ không có nghĩa khổ rồi cam chịu khổ. Người đời mang
thân khổ mà không biết khổ, không biết khổ thì nói gì để diệt khổ! Vì vậy
khi mang thân khổ mà tưởng là vui, rồi tự hào hãnh diện... Khi mang thân
khổ mà họ không hay không biết, chúng ta thử nghĩ đáng giận hay đáng
thương? Như một người bị bệnh hủi nặng không còn sống bao lâu nữa, nhiều
lắm là sáu tháng hay một năm mà họ cứ giận người này, ghét người kia, hung
dữ, tham lam, tật đố, như vậy đáng thương hay đáng giận? Mang cái thân đau
khổ, mỏng manh mà không tự biết, thật là đáng thương chớ không nên đáng
ghét.
Chúng ta tu Phật bắt đầu bằng chữ khổ, mà kết thúc bằng chữ lạc. Cho nên
biết khổ, rồi tiêu diệt nguyên nhân khổ để mà vui, chớ đâu phải biết khổ
để rồi chịu khổ. Như vậy pháp Phật là pháp khổ hay pháp vui? Pháp Phật dạy
rất lạc quan, vì Phật chỉ cho chúng ta thấy quả đau khổ rồi tìm cách tiêu
diệt nguyên nhân đau khổ, hết đau khổ tức là an vui. Rõ ràng mở màn bằng
khổ mà kết thúc lại là vui. Còn ở thế gian mở màn bằng vui mà kết thúc
bằng khổ. Thí dụ một người chưa biết uống rượu, gặp bạn bè nài nỉ uống
rượu, lúc ấy là vui lắm phải không? Nhưng đến khi uống say rồi ngã bờ ngã
bụi lúc ấy khổ hay vui? Mở màn là vui mà kết quả là khổ, đó là điều lầm
lẫn của con người thế gian.
Đức Phật chỉ thẳng đau khổ là căn bản để rồi tìm cách tiêu diệt nó để đưa
đến an vui. Nhưng an vui trong đạo Phật như thế nào? Cái vui đó ra làm
sao? Ví dụ khi chúng ta bị đói bụng quá sức, đó là khổ hay vui? Bao tử xót
xa bào bọt, đó là khổ, phải không? Nhưng khi chúng ta ăn vào độ hai ba
chén cơm, vừa đủ no thôi, lúc bấy giờ cơn đói bụng hết thì cái khổ khi đói
bụng cũng hết, nên nói ăn no thì vui, là vui làm sao? Tức là cái khổ của
cơn đói bụng khi trước không còn. Hết khổ nên nói được vui là như vậy. Cái
vui ở đây, không phải là cái vui của tiệc trà mâm rượu, mà là cái vui an
ổn, an nhiên tự tại. Thân mình khi đói đi không nổi, đứng không yên, khi
ăn được vài chén cơm thân thể khỏe mạnh trở lại muốn đi đâu, muốn làm việc
gì cũng được nên gọi là vui, cái vui này không hiện ra bên ngoài nhộn nhịp
như là người lớn hay vỗ tay.
Còn mang thân này chứa chấp tham sân si, chúng ta còn đau khổ. Nếu tiêu
diệt hết tham sân si, tuy còn thân này mà lúc đó chúng ta không còn đau
khổ. Còn thân là còn già còn chết, nhưng tham sân si, nguyên nhân của đau
khổ, đã diệt sạch rồi, lúc đó còn đau khổ hay không? Chúng ta phải xác
nhận điều này cho thật rõ, vì nghe nói thân này là khổ, còn mang thân là
còn khổ. Như vậy những vị A-la-hán khi chứng quả rồi, tham sân si đã sạch
hết, khi ấy các ngài cũng còn thân mà các ngài có khổ như chúng ta không?
Khi các ngài già, các ngài chết các ngài có rên rỉ, có buồn thảm hay
không? Như thế để thấy rằng tuy còn thân mà hết nhân tham sân si rồi cũng
hết đau khổ. Vì thế các vị A-la-hán khi gần tịch các ngài vui vẻ tịch chớ
không sợ sệt như chúng ta. Chúng ta thấy rõ rằng nhân đau khổ không còn,
dù còn thân này, quả đau khổ cũng đã giảm bớt đi rồi. Hiểu như vậy, chúng
ta mới thấy hiệu nghiệm của sự tu hành. Nhiều người không hiểu nói rằng
diệt đế là diệt sạch nguyên nhân đau khổ rồi chết mới được Niết-bàn, mới
hết khổ. Nếu chết rồi ai biết mình được Niết-bàn, ai biết mình hết khổ? Đó
là chuyện hứa hẹn xa xôi thiếu thực tế. Như đức Phật sau khi thành đạo
Ngài mới ba mươi mốt tuổi cho đến tám mươi tuổi, trong khoảng thời gian
bốn mươi chín năm, Ngài cũng già, cũng bệnh, cũng chết, mà Ngài có khổ như
chúng ta không? Thế mới thấy diệt hết nguyên nhân đau khổ rồi, tuy còn
thân này mà vẫn không có khổ. Đó là cái đặc biệt, là bằng chứng cụ thể của
sự tu, không phải nói đợi đến chết nhập Niết-bàn mới hết khổ. Các vị
Bồ-tát, các vị A-la-hán cũng mang thân như chúng ta mà các ngài không khổ
là như vậy. Chúng ta cũng thế, ngay trong thân này mà diệt hết nguyên nhân
đau khổ rồi cũng hết khổ.
Chúng ta tu cốt để diệt khổ, khổ diệt sạch rồi tức là an vui. Chúng ta an
vui nên muốn đem cái an vui lại cho mọi người, đó là tự lợi, lợi tha, và
đó cũng là lòng từ bi. Chúng ta tu được hết khổ, thấy người khác còn đau
khổ, chúng ta phải thương họ, tình thương đó là lòng từ bi. Có giác ngộ
liền có từ bi là như vậy. Nếu không giác ngộ, lòng từ cũng chỉ gượng thôi
chớ không có thật, vì sao? Vì không giác ngộ thì còn mê lầm, tức còn đau
khổ, nếu có thương người cũng chỉ thương gượng mà thôi, vì mình có hết khổ
đâu mà lo cho người hết khổ. Thí dụ như chúng ta dư giả có nhiều của cải,
tự mình không đói thiếu. Khi thấy người đói thiếu mình tìm cách giúp họ dễ
dàng. Nếu mình đang đói thiếu như họ, mình có nói tôi thương anh quá, tôi
thương chị quá, đó cũng là lời nói suông thôi, chớ mình cũng không giúp họ
một cách thiết thực được. Vì thế, có giác ngộ mới có từ bi, đó là lòng từ
bi chân thật. Do hưởng được sự an vui, mình mới đem cái an vui đó đến cho
người.
Người tu chúng ta hiện tại chưa làm được nhiều lợi ích cho người, nhưng
ráng nỗ lực tu, dẹp sạch tham sân si. Khi được an ổn rồi, muốn làm lợi ích
cho người rất là thuận lợi. Nếu chưa hết tham sân si mà muốn làm lợi ích
cho người, đôi khi cũng gặp trở ngại. Thí dụ bình thường chúng ta tỉnh táo
sáng suốt, thấy huynh đệ có nhiều phiền não, chúng ta khuyên nhủ. Nhưng
đến khi chúng ta gặp việc bối rối, sự sáng suốt cũng mất đi, nên lời nói
việc làm không còn sáng suốt nữa. Vì vậy người mà chúng ta khuyên dạy khi
trước mất lòng tin nơi chúng ta, nên sự lợi tha không được trọn vẹn. Khi
tỉnh nói đúng, lúc mê lời nói không còn đúng nữa, nên làm mất lòng tin nơi
người. Nếu được tỉnh mãi mãi, chắc không bao giờ làm mất lòng tin của
người. Thế nên, được tỉnh giác trọn vẹn, việc lợi tha mới được trọn vẹn.
Nếu sự tỉnh giác chưa trọn vẹn, dù có lợi tha, cũng chỉ một phần nào thôi,
khó mà trọn vẹn được.
Nói tóm lại, khi biết rõ bản chất thân chúng ta là vô thường, là đau khổ,
chúng ta cố gắng tiêu diệt cái đau khổ. Đau khổ hết sạch rồi, chúng ta
được an vui. Đó là tinh thần pháp Tứ đế trong các bộ kinh A-hàm.
Nói xa hơn chút nữa, ngay nơi thân vô thường đau khổ này, các Bồ-tát nhìn
thấy nó như thế nào? Nó cũng vô thường, cũng đau khổ, nhưng ngay nơi thân
vô thường đau khổ, các ngài nhận được cái không vô thường, không đau khổ.
Qua cái nhìn của Tứ đế, nhìn nơi thân nơi tướng, nên thấy thân này là vô
thường, là đau khổ từ nguyên nhân tham sân si mà ra. Dẹp sạch tham sân si
thì đau khổ cũng hết. Qua tinh thần Đại thừa, hay qua cái nhìn của các
Thiền sư, chúng ta lại thấy khác. Các ngài thấy rõ thân này là vô thường
đau khổ. Nhưng trong cái vô thường đau khổ đó, bươi sâu vào lại có một cái
không vô thường, không đau khổ, đó là cái gì? Đến đây là bước qua giai
đoạn thứ hai.
Cái không vô thường, không đau khổ, là cái gì? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức
Phật nói chuyện với vua Ba-tư-nặc. Nhà vua nói: Thân của ông lúc mười tuổi
trẻ hơn lúc hai mươi tuổi, lúc hai mươi tuổi trẻ hơn lúc ba mươi tuổi, cho
đến năm nay già hơn năm ngoái, tháng này già hơn tháng trước v.v... cho
đến mỗi ngày mỗi phút mỗi giây nó đã đổi thay, nó già từng phút từng giây.
Đức Phật bảo: Trong cái sanh diệt vô thường, hay trong cái già chết đổi
thay đó, có một cái chưa từng già chết, ông có biết không? Nhà vua thưa
không biết. Đức Phật mới chỉ cho Vua cái không già không chết ở ngay trong
cái thân già chết. Cái không già không chết đó, đức Phật chỉ từ cái thấy,
từ cái nghe.
Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, đến đoạn đức Phật đưa tay lên xòe nắm, xòe
nắm rồi hỏi ngài A-nan: Ông có thấy không? Ngài A-nan thưa: Dạ thấy. Hỏi:
Thấy cái gì? Thưa: Thấy tay Phật xòe nắm. Hỏi: Tay ta xòe nắm, còn cái
thấy của ông có xòe nắm không? Ngài A-nan thưa: Cái tay Phật có xòe nắm,
chớ cái thấy của con không có xòe nắm. Xòe nắm tức là động, động là vô
thường, là sanh diệt. Còn cái thấy không xòe nắm, không xòe nắm tức là
không động, không động là không vô thường, không sanh diệt. Như vậy chúng
ta thấy rằng ngay trong cái thân vô thường sanh diệt này có cái không phải
vô thường, không phải sanh diệt.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nhận thấy ngay trong thân sanh diệt vô thường cái
Pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt, cho nên mở đầu bài Chứng Đạo Ca
Ngài có nói mấy câu:
“Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật
Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.”
Pháp thân giác liễu vô nhất vật là ngay trong thân tứ đại ngũ uẩn này giác
ngộ được cái Pháp thân. Pháp thân đó không có một vật, cũng gọi là Bản
nguyên, là Tự tánh, là Phật thiên chân. Khi giác ngộ được pháp thân rồi,
nhìn lại ngũ uẩn này, thấy như thế nào? Ngũ uẩn phù vân không khứ lai,
nghĩa là thân ngũ uẩn này chẳng khác nào như mây nổi bay qua lại trong bầu
trời, khi tụ khi tán, lúc có lúc không, có nghĩa lý gì đâu! Tam độc thủy
bào hư xuất một. Tam độc là tham sân si, chẳng khác nào như bọt nước chợt
nổi chợt tan, chỉ còn trong khoảnh khắc, đâu có lâu bền.
Ngộ được pháp thân rồi, thấy thân ngũ uẩn như mây nổi, tham sân si như
bong bóng nước, chúng ta tuy còn thân này nhưng có thấy khổ hay không?
Hàng Nhị thừa thấy thân này là khổ, nguyên nhân của khổ là tham sân si.
Đến Đại thừa nhất là Thiền tông, ngay nơi thân đau khổ sanh diệt vô
thường, thấy được pháp thân chưa từng vô thường sanh diệt. Đứng từ pháp
thân nhìn lại thân vô thường sanh diệt chẳng khác nào như đám mây nổi, ba
độc tham sân si như bong bóng nước. Như vậy quả và nhân của thân này đều
là tạm bợ giả dối, không có nghĩa lý gì. Đối với thân này còn buồn khổ hay
không, còn rên rỉ trước sự mất còn của nó hay không? Nhận được pháp thân
chân thật rồi, thân vô thường đau khổ này không còn gì là quan trọng.
Bồ-tát không sợ tam độc, cũng không quí tiếc thân này, vì sao? Vì các ngài
đã giác ngộ, thấy được pháp thân ở trong thân sanh diệt. Giác ngộ tức là
hết si mê, biết thân như mây nổi nên không còn tham lam, hết tham lam nên
sân hận cũng không còn. Các hàng Bồ-tát không còn sợ thân này đau khổ,
cũng không còn sợ nguyên nhân làm cho thân này đau khổ, cho nên các ngài
luôn luôn vui vẻ.
Các vị chưa chứng Bồ-tát, còn tu theo hạnh A-la-hán, thấy thân này là đau
khổ, sanh tử là đau khổ, thấy tham sân si là nguyên nhân gây đau khổ, cho
nên nếu chưa dẹp sạch ba độc, các ngài không bao giờ vui được. Các ngài tu
hành khổ hạnh, luôn luôn cố gắng để tiêu diệt tham sân si. Còn các Bồ-tát
nhận được cái thân chân thật ngay trong thân này nên các ngài hằng tỉnh
hằng an.
Một vị Cổ đức có bài tụng ngắn sau đây:
“Chư Phật tại tâm đầu
Người mê chạy ngoài cầu
Trong ôm báu vô giá
Chẳng biết một đời thôi.”
Phật tại tâm đầu. Phật ở đâu? Tức ở ngay nơi đầu tâm của mình. Vì sao
không nói ở đuôi tâm mà nói ở đầu tâm? Dấy niệm là động, trước khi dấy
niệm là tịnh. Dấy niệm là tâm. Khi chưa dấy niệm, Phật ở ngay đó rồi, nên
nói chư Phật ở đầu tâm là như vậy. Vừa dấy niệm là thành chúng sanh, vừa
dấy niệm Phật thành ở đuôi. Niệm lặng xuống Phật hiện trở lại. Chúng ta
thường chấp rằng khi niệm dấy lên, niệm đó là tâm.
Thật ra Phật ở đầu niệm tức là trước khi niệm sanh đã có Phật rồi. Người
mê chạy ngoài cầu. Người mê chạy tìm Phật ở núi này, non kia, ở Tà Lơn,
Ông Cấm, không bao giờ thấy Phật ngay nơi tâm mình. Trong ôm báu vô giá
tức là trong lòng đã ôm sẵn một hòn châu báu vô giá. Chẳng biết một đời
thôi, trong tâm ôm sẵn hòn ngọc báu vô giá mà không biết để một đời trôi
qua, uổng phí một đời.
Qua bốn câu tụng đơn giản của Thiền sư, chúng ta thấy rõ ràng Phật không ở
đâu xa, chỉ ngay nơi đầu tâm; mình không biết nên chạy nơi này nơi kia,
trèo non lội suối để tìm Phật, mà nào có gặp Phật đâu. Đã có sẵn hòn ngọc
báu vô giá ở trong lòng mà không hay biết để trôi qua một đời, thật đáng
tiếc đáng thương!
Người tu Phật dù tu theo hạnh Thanh văn hay hạnh Bồ-tát, mục đích là đạt
được sự an vui. Hàng Thanh văn thấy thân là khổ, tìm nguyên nhân của khổ
để tiêu diệt, khổ diệt sạch hết là được an vui. Còn các Bồ-tát thấy rõ
trong thân đau khổ có cái chân thường an lạc, các ngài sống trở về với cái
chân thường an lạc đó, cũng được an vui. Các hàng Thanh văn và Bồ-tát ở
hai quan điểm khác nhau, nẩy sanh lòng từ bi, chỉ dạy cũng khác nhau. Các
vị Thanh văn thấy thân là đau khổ, diệt hết khổ được an vui. Nhìn lại
chúng sanh mang thân đau khổ mà không tự biết, lại say sưa trong đó, các
ngài khởi lòng từ bi chỉ dạy cho con người diệt nguyên nhân đau khổ để
được an vui. Còn các Bồ-tát thì khác, thấy ngay nơi thân vô thường đau
khổ, có cái chân thường an lạc. Các ngài không dạy mình dẹp tham sân si,
mà dạy mình phải giác ngộ, thấy được cái chân thật ngay trong cái hư dối.
Giác ngộ là phá được si, nên tham không còn, mà sân cũng hết. Các ngài
không dạy pháp tu, mà bảo chúng ta phải nhận được cái chân thường an lạc,
Thiền tông gọi đây là Kiến tánh khởi tu. Nhận được cái chân thật rồi,
chúng ta từ từ mà bỏ những sai lầm.
Hàng Đại thừa chỉ thẳng cho chúng ta thấy trong thân vô thường có cái chân
thường. Vì thế biết bao nhiêu kinh điển Đại thừa đều nhắm vào điểm này.
Trong kinh Pháp Hoa, Phật nói chỉ có một Phật thừa, và chỉ thẳng cho chúng
ta Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm cốt chỉ Chân tâm, kinh Viên Giác chỉ
thẳng tánh Viên giác.
Thiền tông cũng vậy, bảo chúng ta phải kiến tánh, nghĩa là nhận ra bản
tánh, rồi sau đó khởi tu, đó là điều căn bản. Chúng ta phải thấy ngay nơi
thân tạm bợ hư dối có cái chân thật. Đừng lầm thân giả dối cho là chân
thật. Nếu mê lầm cho thân giả dối là chân thật, thì mọi điều mê lầm khác
sẽ theo đó mà sanh ra không thể kể hết. Nhận được cái chân thật rồi, biết
thân là giả dối như mây nổi thì bao nhiêu vấn đề đều được giải quyết. Cho
nên nói Đại thừa là đốn ngộ.
Lòng từ bi của Đại thừa là chỉ cho chúng ta nhận được cái chân thật nơi
mình. Nhận được cái chân thật rồi, thì thân này không còn quan trọng, cho
nên hết đau khổ. Trong kinh Pháp Hoa, có ví dụ người nghèo đi lang thang
say sưa, được bạn cho một hòn ngọc báu cột trong chéo áo, bảo nhớ lấy ra
mà tiêu dùng. Lòng từ bi là chỉ thẳng cho chúng ta thấy hòn ngọc báu vô
giá. Thế nên cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh chỉ làm một việc là nói: “Tôi
không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài cốt chỉ cho
mọi người nhận được hòn ngọc báu. Chư Bồ-tát đều nhắm thẳng chỉ cho chúng
ta nhận ra hòn ngọc báu đó, sự tu hành theo đó được dễ dàng, và kết quả
đúng như sở nguyện.
Không riêng gì hàng Bồ-tát Đại thừa mới có từ bi, mà hàng Nhị thừa cũng có
từ bi. Nhưng hai bên có cái nhìn khác nhau nên mới chia thành Tiểu thừa
Đại thừa. Dù sao mục tiêu chánh yếu cũng không hai, thấy rõ thân này là
khổ, giải hết được đau khổ, đưa đến an vui.
Chủ yếu của đạo Phật dù Tiểu thừa hay Đại thừa cũng là đem lại nguồn vui
cho chúng sanh, chớ không có chán nản. Đem lại nguồn vui tức là nguồn an
ổn, phấn khởi, vui tươi. Người tu lâu có hiệu lực thì không buồn mà vui.
Nếu tu lôi thôi, nghĩ đến cái được cái mất thì còn vui buồn. Thật tình tu
có đạo lực thì được an ổn, ít có buồn vui.
Tất cả chúng ta từ Tăng Ni đến Phật tử nam nữ phải nỗ lực tu làm sao mỗi
ngày mỗi bớt khổ mới gọi là thật tu. Nếu tu mà càng ngày càng chồng chất
thêm đau khổ, đó chưa phải là biết tu. Tu có nghĩa là giải khổ, chớ không
phải tu để thêm khổ. Giải khổ gọi là biết tu, chưa giải khổ được chút nào
đó là chưa biết tu. Dù ở chùa dù học đạo nhiều năm mà chưa bớt khổ, cũng
chưa phải là biết tu, đó là điều chúng tôi xác nhận rõ ràng như vậy.
Chúng ta học đạo cốt làm sao cho hết khổ. Với tinh thần Thiền tông, muốn
hết khổ là phải nhận ra hòn ngọc báu của mình hay là nhận được Pháp thân.
Chúng tôi nhắc lại câu chuyện của ngài Cảnh Thanh. Ngồi trong am với chú
thị giả, Ngài nghe ở bên ngoài có con rắn bắt con nhái, con nhái kêu ẹo
ẹo. Ngài hỏi chú thị giả: “Tiếng gì ở ngoài?” Chú thị giả thưa: “Tiếng rắn
bắt nhái, nhái kêu.” Ngài nói: “Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.” Ý
nghĩa làm sao? Cái nào là chúng sanh khổ, cái nào là khổ chúng sanh? Con
nhái bị con rắn bắt, đó là chúng sanh khổ. Còn khổ chúng sanh là ai? Là
chú thị giả hay là ai? Hay là người quên mình theo vật? Ai quên mình theo
vật thì người đó khổ, đó là khổ chúng sanh. Ngay nơi mình có hòn ngọc báu
mà lúc nào chúng ta cũng quên nó, mãi chạy theo âm thanh sắc tướng bên
ngoài, cho nên bị vô thường chi phối, do đó chúng ta khổ. Khi nghe tiếng
chỉ biết tiếng mà không nhớ mình, khi thấy cảnh chỉ biết cảnh mà không nhớ
mình. Vì vậy cảnh khổ gọi là chúng sanh khổ, quên mình đó là khổ chúng
sanh. Khi ngài Cảnh Thanh hỏi, muốn không bị Ngài nói là khổ chúng sanh,
chúng ta phải đáp thế nào để thế cho chú thị giả? Nếu có mặt nơi đó, chúng
tôi sẽ nói thế:
Quan Âm diệu trí lực
Năng cứu chúng sanh khổ.
Để
kết luận buổi nói chuyện hôm nay, chúng tôi dẫn một bài kệ bằng chữ Hán
của Thiền sư Chân Nguyên vào đời Lê ở Việt Nam:
Nhất tánh viên minh cá cá đồng
Bao la thiên địa tổng hư không
Ngã kim trực chỉ Tây lai ý
Tâm tịch linh tri thị chánh tông.
Nhất tánh viên minh cá cá đồng: một tánh tròn sáng mỗi người ai cũng đồng
có sẵn như vậy. Bao la thiên địa tổng hư không: tánh tròn sáng ấy bao trùm
cả trời đất và hư không. Nếu thấy được tánh bao la ấy thì thân này thật là
bèo bọt không đáng kể. Ngã kim trực chỉ Tây lai ý: nay tôi nhắm thẳng ý
Tây lai, tức là ý của Tổ sư từ Ấn Độ sang. Tâm tịch linh tri thị chánh
tông: câu kết thúc này thật là quá hay. Tâm tịch, chữ tâm là tâm đầu như
đoạn trước tôi đã nói. Khi những tâm vọng tưởng phân biệt lặng xuống rồi,
còn cái linh tri tức là cái biết sáng suốt không phân biệt, đó là chánh
tông mà Bồ-đề-đạt-ma đem sang.
Bản dịch:
Một tánh sáng tròn mỗi mỗi đồng,
Bao trùm trời đất cả hư không,
Nay ta nhắm thẳng Tây lai ý,
Lòng vắng biết thiêng ấy chánh tông.
Chúng ta tu thiền thấy ý Tổ sư từ Ấn Độ sang rõ ràng bằng một câu kết
thúc: Lòng vắng biết thiêng ấy chánh tông.
Quí vị ráng ứng dụng như vậy thì một đời tu của chúng ta không uổng phí.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
] |