TIN TÂM
XUÂN BÍNH DẦN 1986
Để
nhắc nhở quí vị trong năm mới về sự tu hành, tôi sẽ nói một câu chuyện.
Muốn cho quí vị qua năm Bính Dần này tinh tấn tu hành đúng theo tinh thần
Thiền tông, tôi sẽ nhắc và nói rõ về việc TIN TÂM. Vì phần nhiều người tu
chúng ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, nhưng ít người tin Tâm của mình,
nên hôm nay tôi nói thẳng về phương pháp hay đường lối để làm sao mình
nhận hiểu, tin được tâm của mình để tu hành. Đó là mục đích của câu chuyện
tôi nói hôm nay.
Tâm là cái gì? Từ xưa đến nay ai cũng hay nói: Tôi không cần đi chùa, tôi
chỉ tu tâm cũng được rồi! Nhưng tâm là cái gì để mà tu? Đó là điều mà
nhiều người muốn biết. Hoặc khi nói chuyện với nhau, có người bảo rằng:
tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi tính thế kia, như vậy tâm là cái nghĩ tính
hay tâm là cái gì khác nữa, đó là điều mà chúng ta phải biết rõ. Đúng ra
chữ Tâm của nhà Phật là chỉ cho cái “Biết”, biết nghĩ, biết tính, biết
tốt, biết xấu, biết dở, biết hay... tóm lại tất cả cái thuộc trên lãnh vực
biết đều gọi là tâm. Vì thế, nếu chúng ta không phân biệt rành rẽ sẽ chỉ
nhận tâm là cái biết phân biệt mà quên tâm còn là cái biết thầm lặng sáng
suốt không phân biệt; thế nên trong nhà Phật mới chia tâm làm nhiều thứ để
giải thích, nhưng ở đây tổng quát tôi chia làm hai loại: loại thứ nhất là
tâm vọng, loại thứ hai là tâm chân.
Tâm vọng là gì? Tức là những cái biết thuộc về suy nghĩ, thuộc về phân
biệt gọi là tâm vọng. Chúng ta phải biết rõ nghĩa chữ tâm, tâm là cái
biết, nhưng cái biết suy tính, cái biết phân biệt, cái biết đó là động, là
sanh diệt nên gọi là vọng. Vọng là dối, không có thật, có rồi mất hoặc
chợt sanh rồi diệt, không bền, không lâu nên gọi là vọng. Trái lại, cái
biết thường hằng không đổi, mãi mãi bất sanh bất diệt, tức là không động
và không có tướng trạng, cái biết đó gọi là tâm chân hay chân tâm. Như vậy
tâm chân thật là chỉ cái biết không bao giờ đổi thay, không bao giờ sanh
diệt. Nhưng tất cả chúng ta ai cũng chỉ nhận được cái biết thuộc về suy
tính, thuộc về phân biệt, ít ai nhận được cái biết thầm lặng hằng còn và
không sanh diệt. Bởi không hiểu được điều đó nên chỉ nhận tâm mình là cái
hư dối cho đó là tâm thật, còn tâm chân thật lại quên đi. Thế nên trong
kinh “Tứ Thập Nhị Chương” đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo rằng: “Tỳ-kheo các
ông chớ nên tin tâm của các ông, khi nào chứng A-la-hán thì mới nên tin.”
Như vậy quí vị thấy đức Phật nói: “các ông chớ nên tin tâm của các ông”
tâm đó là tâm nào? Tâm đó là cái tâm hư dối, tâm hư dối mà tin nó thì
không được. Tại sao? Vì nó là đổi thay, là sanh diệt; tin cái đổi thay
sanh diệt thì thế nào mình cũng bị biến đổi, bị sanh diệt. Đợi “khi chứng
A-la-hán rồi mới tin tâm các ông”, khi chứng A-la-hán thì tâm đó là tâm
gì? Sau khi chứng A-la-hán thì cái biết không còn sanh diệt nữa, nên khi
ấy mới đáng tin. Như vậy, quí vị mới thấy rõ, đức Phật muốn cho chúng ta
đừng lầm lẫn hai cái tâm: tâm phân biệt hư dối và tâm lặng lẽ chân thật.
Nếu chúng ta cho cái hư dối là thật thì tự chúng ta bị lầm bị mê, đi mãi
trong sanh tử nên Ngài mới nhắc chúng ta như vậy. Nay quí vị đã biết rằng
mình có tâm hư dối và tâm chân thật, nhưng chủ yếu là phải biết mình có
cái tâm chân thật phải không? Muốn biết tâm chân thật thì làm sao mà biết?
Những vị tu khi ngộ đạo tự nhiên thấy, tự nhiên nhận ra, còn nếu chưa ngộ
đạo thì khó mà nhận, khó mà biết. Nay tôi chỉ y theo lời dạy của Phật của
Tổ để chỉ cho quí vị, khả dĩ quí vị có thể nhận được phần nào. Như trong
kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói rằng: Có một cái gọi là “Nhất tinh minh sanh
lục hòa hợp”. Chữ Tinh là ròng rặc, Minh là sáng suốt, Tinh Minh là ròng
rặc sáng suốt hay là sáng suốt một cách thuần túy. Từ một cái sáng suốt
thuần túy đó sanh ra sáu cái hòa hợp. Sáu cái hòa hợp là gì? Là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý; sáu cái đó gọi là sáu hòa hợp. Tại sao gọi là sáu
hòa hợp? Vì muốn thấy thì phải có con mắt, có cảnh bên ngoài và thức theo
đó phân biệt, vì vậy cái biết của con mắt thuộc về hòa hợp, đủ duyên hòa
hợp mới có, ý suy nghĩ thì cũng có cảnh bên ngoài, có danh, có tướng rồi
mới nương đó suy nghĩ, như thế cũng là duyên theo cảnh, nên gọi là lục hòa
hợp. Tuy nhiên trong cái chạy theo, duyên theo cảnh đó lại có cái ngầm
không theo mà chúng ta không thấy, nên chư Phật, chư Tổ luôn luôn bảo
chúng ta phải khéo đừng có lầm chạy theo cảnh mà phải thấy có một cái thật
ngầm ở trong. Vì thế chư Thiền sư hay nói, phải như con ngỗng chúa khi
uống sữa, chỉ uống sữa mà chừa nước lại. Quí vị nghĩ sữa hòa lẫn với nước,
chúng ta chỉ uống toàn sữa, bỏ nước lại, việc đó dễ hay khó? Cũng như vậy
nơi sáu căn, trong chỗ hòa hợp, chúng ta phải làm sao nhận ra được cái
thuần túy tinh anh mà đừng theo cái hư dối phân biệt, đó là sự khôn ngoan
khéo léo của mình. Vì vậy người tu là phải khéo nhận nơi mình có một tinh
minh sáng suốt phát ra nơi sáu căn gọi là sáu hòa hợp. Mắt nhìn cảnh, tai
nghe tiếng nhưng đừng lệ thuộc vào cái sanh diệt bên ngoài hay cái sanh
diệt của vọng tâm mà nhớ sống được với chân tâm đó là điều khôn ngoan
nhất, cũng như con ngỗng chúa uống sữa bỏ nước lại vậy.
Hình ảnh trên trong kinh Lăng Nghiêm, sau này các Thiền sư đều diễn tả lại
bằng một hình thức lạ lùng, mới nghe chúng ta không hiểu nhưng đến khi
thâm nhập, hiểu được thì thấy rất hay. Như Thiền sư Vân Nham khi đến Qui
Sơn, ngài Qui Sơn nói rằng: “Nghe nói ông biết làm sư tử múa phải không?”
Vân Nham thưa: Phải!
Hỏi: Ông múa được mấy xuất?
Đáp: Tôi múa được sáu xuất.
Sau này ngài Vân Nham được ngài Dược Sơn (tức là thầy) hỏi: Ông biết làm
sư tử múa phải không?
Đáp: Dạ phải!
-
Ông múa được mấy xuất?
-
Con múa được sáu xuất.
Ngài hỏi lại Dược Sơn: Hòa thượng biết làm sư tử múa không?
Dược Sơn đáp: Biết.
Hỏi: Hòa thượng múa mấy xuất?
Đáp: Ta múa một xuất.
Ngài Vân Nham kết luận: “Một tức là sáu, sáu tức là một.” Như vậy hai thầy
trò ngài Vân Nham nói chuyện sư tử chơi cho vui hay là nói chuyện trong
kinh Lăng Nghiêm? Ông thầy múa một xuất tức là nhất tinh minh, đệ tử múa
sáu xuất tức là lục hòa hợp. Nhưng tại sao dùng hình ảnh con sư tử trong
đó? Vì sư tử là chúa loài thú, mọi loài thú nghe tiếng của nó đều kinh
hoàng, không có loài thú nào dám chống lại; cái chân thật ví dụ như con sư
tử, còn những vọng tưởng phân biệt ví dụ như các loài thú khác; biết làm
sư tử múa là chỉ cho biết được cái thể nhất tinh minh, một xuất là nhất
tinh minh, sáu xuất là sáu hòa hợp. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy từ Phật
đến Tổ đều thấy rõ nơi mình có một cái chân thật, từ cái chân thật đó theo
duyên phát ra sáu cửa. Thế nên có đủ tâm chân thật mà chúng ta không nhận,
không biết tưởng như mình không có. Đấy là tôi nói chuyện trong kinh Lăng
Nghiêm và thầy trò của ngài Vân Nham.
Tiếp theo tôi dẫn chuyện một Tổ sư ở Ấn Độ là ngài Ba-la-đề. Vua Dị Kiến
hỏi Ngài về Phật tánh thì Ngài đáp thế này: “Nơi thai gọi là thân, ở đời
gọi là người, nơi mắt gọi là thấy, nơi tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt
các mùi, nơi lưỡi đàm luận, nơi tay nắm bắt, nơi chân chạy nhảy, biến hiện
thì khắp sa giới, thu lại thì chỉ trong hạt bụi, người hiểu cho là Phật
tánh, người không hiểu gọi là tinh hồn.” Quí vị thấy Ngài có giấu giếm
không? Như vậy thì nơi tai, nơi mũi, nơi lưỡi đều có mang tánh chất Phật ở
trong đó, thế nên kinh Pháp Hoa nói là Tri kiến Phật. Mang tánh chất Phật,
nhưng người hiểu mới thấy đó là Phật tánh, còn người không hiểu nói là
tinh hồn tức là hồn linh của mình. Tại sao? Hiểu thì như con ngỗng chúa
biết lọc sữa uống chừa nước lại, còn không hiểu thì sao? Như sữa hòa lại
chúng ta uống luôn cả nước đầy bụng mà không thể lọc sữa nổi, hiểu và
không hiểu khác nhau ở chỗ đó! Quí vị thấy chư Tổ đã trình bày thật rõ
ràng cho chúng ta thấy, không có giấu giếm một chút nào, nhưng vì chúng ta
mê muội nhiều đời nên nghe thì dường như hiểu mà sống thì sống không được,
đó là tại cái mê lầm muôn đời của chúng ta.
Tôi dẫn thêm một vị nữa là Thiền sư Đại An, Ngài nói rất rõ, Ngài dạy
chúng rằng: “Cả thảy các ngươi, mỗi người có hòn ngọc lớn vô giá, từ cửa
con mắt phóng quang soi sáng núi sông cây cỏ, từ cửa lỗ tai phóng quang
nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ, sáu cửa ngày đêm thường phóng
quang sáng cũng gọi là phóng quang tam-muội, các ngươi không biết lại nhận
bóng trong thân tứ đại v.v...” Quí vị thấy chúng ta đều có hòn ngọc quí,
nhà Thiền gọi là hòn ngọc quí, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là một tinh minh
phải không? Cái tinh minh hay là hòn ngọc quí chỉ có một, nhưng tùy duyên
phóng ra sáu cửa. Khi phóng ra sáu cửa thì ở tai nó nhận lãnh âm thanh, ở
mũi nó nhận lãnh mùi thơm hôi, như vậy nó hằng phóng quang ra sáu cửa mà
chúng ta không biết, do không biết nên mình nhận cái gì? - Cái bóng trong
thân tứ đại! Cái bóng tức là những vọng tưởng suy nghĩ đó. Tôi hỏi quí vị
chúng ta suy nghĩ, chúng ta suy nghĩ thế nào? Suy nghĩ những gì mình đã
nghe tên, thấy tướng phải không? Có thấy tướng, nghe tên mình mới suy nghĩ
được. Quí vị thử suy nghĩ cái chưa từng nghe tên, chưa từng thấy tướng thử
xem được không? Có danh, có tướng là có bóng gieo rắc vào tâm hồn mình, từ
bóng đó mình mới duyên theo mà khởi suy nghĩ, như vậy là duyên cái bóng
đâu phải thật, còn cái hằng nghe hằng thấy của quí vị có lúc nào không có
hay chăng? Cái thấy cái nghe không bao giờ vắng mặt, nhưng cái suy nghĩ
thì khi nào duyên theo bóng của sự vật bên ngoài mới có nghĩ, vì thế Ngài
mới bảo là chúng ta không nhận được cái chân thật phóng ra từ sáu cửa mà
chỉ nhận cái bóng trong thân tứ đại, cái bóng trong thân tứ đại tức là tâm
vọng tưởng. Như vậy tất cả chúng ta hiện nay gọi là sống bằng tinh thần
hay là bằng tâm của mình, tâm đó là tâm nào? Tâm đó là tâm duyên theo
bóng, cái chạy theo bóng, duyên theo bóng thì không phải thật mà chúng ta
cả ngày cứ sống với cái bóng đó, đã sống với cái bóng, là cái không thật
thì nó sẽ dẫn chúng ta đi trong cái không thật, tức là đi trong sanh tử
luân hồi như mộng như huyễn. Trái lại nếu chúng ta sống được với cái chân
thật thì vòng luân hồi mộng huyễn không còn nữa, đó là gốc của sự tu.
Đến Tổ Huệ Khả, quí vị nhớ Tổ Huệ Khả đã nhận được pháp tu nơi Tổ
Bồ-đề-đạt-ma qua câu chuyện an tâm. Câu chuyện an tâm quí vị nghe rồi. Một
thời gian sau, một hôm Ngài bạch với Tổ Bồ-đề-đạt-ma rằng: “Từ đây về sau
con dứt hết các duyên.” Bồ-đề-đạt-ma bảo: “Chớ rơi vào đoạn diệt.” Ngài
thưa: “Không rơi.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma hỏi: “Con làm thế nào?” Ngài thưa: “Con
rõ ràng thường biết, nói không thể đến.” Rõ ràng thường biết, trong bài kệ
ngài Chân Nguyên dùng chữ “biết thiêng” đó, biết thiêng chữ Hán gọi là
linh tri, linh tri là cái biết rõ ràng, cái biết đó “nói không thể đến”.
Cái rõ ràng thường biết diễn tả không được. Tổ bảo rằng: “Đây là chỗ
truyền của chư Phật chớ có hoài nghi.” Quí vị thấy còn cái gì nghi nữa
không? Rõ như ban ngày! Như vậy chúng ta thấy rõ rằng Phật Tổ đã chỉ cho
chúng ta cái chân thật, cái đó ai cũng có nhưng vì chúng ta không khéo
nhận, chỉ nhận cái bóng duyên nơi sáu trần, do đó mà quên mất cái chân
thật. Tổ Huệ Khả khi nói dứt hết các duyên tức là cái tâm duyên lự theo
cảnh, theo bóng dáng của sáu trần đã sạch, Tổ Bồ-đề-đạt-ma sợ lại rơi vào
không nên Ngài bảo “coi chừng rơi vào đoạn diệt”. Nếu đến đó không biết gì
nữa thì chắc rơi vào đoạn diệt, nên Ngài thưa: Con không rơi vào đoạn
diệt. Hỏi: tại sao không rơi vào đoạn diệt, Ngài đáp: con rõ ràng thường
biết, rõ ràng thường biết nhưng chỗ đó nói không thể đến. Ngay đó Tổ liền
ấn chứng: Đây là chỗ truyền của chư Phật không nên hoài nghi. Đó là sự ấn
chứng cụ thể không còn nghi ngờ gì nữa. Phật tử nào có tập ngồi thiền, khi
ngồi có một phút giây nào tâm lặng, những khi đó mình không mê ngủ thì khi
ấy mình có thấy, có nghe và có biết mình đang lặng không? Mắt vẫn thấy,
tai vẫn nghe và không có vọng, như vậy không phải rõ ràng thường biết là
gì? Đâu phải đợi vọng tâm dấy lên mới biết. Rõ ràng chúng ta có cái
thường biết hiển nhiên ở nơi chúng ta, không đợi có vọng tâm mới biết,
nhưng khổ thay chúng ta cũng như mọi người cứ đợi vọng tâm dấy lên mới cho
là tâm mình, mới cho là biết thì đã quên mất cái rõ ràng thường biết thầm
lặng ở trong rồi. Vì thế chúng ta phải nhận ra mình có cái rõ ràng thường
biết, đó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Tại sao nói tỉnh, nói giác? Vì
chúng ta có cái rõ ràng thường biết hằng hữu mà chúng ta đã quên lại nhận
cái bóng duyên theo ngoại cảnh làm tâm mình, như vậy không phải mê là gì?
Nhận lầm đó là tâm mình nay biết là cái bóng không phải thật và mình nhận
chân được cái thật thì không phải giác là gì? Đó là chỗ mê giác rõ ràng:
Chạy theo bóng dáng của sáu trần là mê, nhận biết là vọng dối để sống với
cái rõ ràng thường biết của mình là giác chớ không có gì xa lạ. Nhận được
cái đó, trong nhà Thiền gọi là Kiến tánh, tức là thấy được bản tánh bất
sanh bất diệt của mình; chữ thấy không phải là mắt thấy mà là nhận ra rõ
ràng, như vậy quí vị tin được mình có cái đó chưa?
Tôi đã giải thích để quí vị biết mình có cái tâm đó, nay mình phải tin cho
sâu, nhận cho kỹ. Làm sao tin nhận chân tâm cho sâu cho đúng? Đây tôi dẫn
lời của Tổ Bá Trượng. Khi ngài Thần Tán học nơi Tổ Bá Trượng xong trở về
chùa với thầy Ngài, thầy Ngài tu theo giáo, chỉ biết tụng kinh gõ mõ thôi,
trong khi Ngài đã ngộ được lý Thiền, nhưng không biết làm sao nhắc thầy
mau tỉnh. Một hôm ông thầy tắm, vì thầy già yếu nên bảo đệ tử kỳ lưng, khi
kỳ lưng Ngài vỗ trên lưng thầy nói: “điện Phật đẹp mà Phật không Thánh”
tức là không có sáng. Ông thầy nghe ngó lại, Ngài nói: “Tuy Phật không
Thánh vẫn hay phóng quang.”
Lại một hôm, bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, có một con ong chui đầu
vào tấm giấy dán ở cửa sổ tìm lối ra. Sư trông thấy nói: Thế giới thênh
thang như thế mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được?
Sư liền nói kệ:
Không môn bất khẩn xuất,
Đầu song dã thái si,
Bách niên tán cổ chỉ,
Hà nhật xuất đầu thì?
Dịch:
Cửa không chẳng chịu ra,
Quá ngu chui cửa sổ,
Giấy cũ trăm năm dùi,
Ngày nào thoát ra được?
Ông thầy nghe hơi bực mình nhưng cũng lấy làm lạ nên hỏi: Ngươi đi học đạo
mấy năm, nay thấy được cái gì mà nói nghe lạ vậy? Ngài thưa rằng: Con được
Tổ Bá Trượng chỉ cho con đường tu hành. Ông thầy biết đệ tử có cái gì lạ
mới bảo: “Ngày mai hội chúng lại, ngươi lên giảng cho ta xem!” Hôm sau
đánh trống, chúng hội lại, ông thầy cũng làm thính giả ngồi ở dưới, đệ tử
ngồi trên tòa giảng, câu giảng đầu tiên của Ngài là dẫn lời Tổ Bá Trượng,
nguyên văn chữ Hán là:
“Linh quang độc chiếu, Siêu xuất căn trần,
Thể hiện chân thường, Bất câu văn tự.
Tâm tánh vô nhiễm, Bản tự viên thành,
Đản ly vọng duyên, Tức như như Phật.”
Qua hai câu đó, ông thầy ngộ, nói: Ta chưa bao giờ được nghe giáo lý tuyệt
vời như thế này! Tôi giải thích lại để xem quí vị thấy rõ hay chưa. “Linh
quang độc chiếu”, linh là sáng mà quang cũng là sáng nhưng không thể nói
cả hai đều sáng, mà nói sáng suốt lóng lánh, độc chiếu là riêng soi, đây
có khác gì khi nãy nói là hòn ngọc báu hay kinh Phật nói một tinh minh
đâu? “Siêu xuất căn trần”, căn là sáu căn và trần là sáu trần, tức là cái
đó vượt hơn sáu căn và sáu trần. Tại sao? Vì sáu căn thuộc về thân, mà
thân là tướng sanh diệt; sáu trần thuộc về duyên hợp nên cũng là tướng
sanh diệt, còn cái này không phải sanh diệt nên nói siêu xuất cả căn và
trần. “Thể hiện chân thường” là ngay trong đó hiện bày cái chân thường.
“Bất câu văn tự” nó không thuộc về chữ nghĩa, nó hiện rõ ràng, nhưng không
thuộc về chữ nghĩa. “Tâm tánh vô nhiễm” là tánh của tâm đó không có nhiễm,
nói tánh của tâm là để chỉ cho tâm chân thật, còn nói tâm là chỉ tâm phân
biệt hư dối, tâm chân thật đó không có nhiễm; quí vị nhớ Lục Tổ khi ngộ,
Ngài nói bài kệ: “bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, nghĩa là xưa
nay không phải một vật thì chỗ nào mà dính bụi bặm, tức là không nhiễm,
thật là rõ ràng. “Bản tự viên thành” là vốn tự tròn đủ, nó không nhiễm và
nó tự tròn đủ chớ không có thiếu thốn gì cả, nghĩa là ngay nơi đó tròn đủ
không thiếu thốn; nhưng làm sao sống được với nó đây? “Đản ly vọng duyên,
tức như như Phật.” Hai câu này là chỉ thẳng lối trở về đó. Muốn được sống
với nó thì chỉ lìa vọng duyên, lìa tâm hư dối duyên theo bóng dáng sáu
trần, khi ấy gọi là như như Phật, tức là ông Phật như như. Tại sao nói
Phật như như? Phật là giác, như như là lặng lẽ, tức là cái biết lặng lẽ,
mà biết lặng lẽ đó là chân tâm. Ngài Bá Trượng chỉ cho chúng ta thấy rằng
mỗi người chúng ta có một cái chân thật, cái chân thật đó sáng suốt siêu
xuất cả sáu căn sáu trần, luôn luôn hiện bày tướng chân thật, nhưng nó
không mắc kẹt trong văn tự trong chữ nghĩa, bản tánh nó không ô nhiễm, tự
tròn đủ, muốn sống với nó chỉ cần lìa các vọng duyên thì tự nó là Phật như
như. Như vậy tìm Phật khó hay dễ? Chịu khó lìa vọng duyên phải không? Đó
là Phật như như. Còn không chịu lìa thì không biết chừng nào mới có ông
Phật như như. Như vậy quí vị thấy đường tu không phải xa, cũng chẳng phải
khó, mà xa hay khó là tại mình chưa chịu lìa thôi, nếu lìa được là như như
Phật.
Tôi dẫn một đoạn nữa trong “Tín Tâm Minh” cho quí vị thấy rõ hơn. Tổ Tăng
Xán dạy:
“Nhãn nhược bất thùy, Chư mộng tự trừ,
Tâm nhược bất dị, Vạn pháp nhất như...”
Hình ảnh này đẹp làm sao! “Nhãn nhược bất thùy”, con mắt nếu không ngủ thì
“chư mộng tự trừ”, không có mộng nào hiện ra cả, phải không? Quí vị thấy
có đúng như vậy không? Chúng ta mở con mắt trao tráo rõ ràng sáng suốt như
thế này thì có mộng nào hiện ra không? Nhưng nếu nhắm mắt ngủ một chút thì
sao? Thấy cảnh này cảnh kia... bao nhiêu cảnh là bao nhiêu mộng, bao nhiêu
mộng hiện ra là do mắt mình ngủ, nếu mắt không ngủ thì không có mộng nào
hiện ra cả, đó là dụ. Tiếp theo Ngài hợp pháp: “Tâm nhược bất dị, vạn pháp
nhất như.” Tâm chúng ta nếu không có khác thì muôn pháp đều nhất như. Tâm
không khác nghĩa là sao? Tức là không có dấy niệm thứ hai, thứ ba nào. Có
một niệm tức là có khác, nó rõ ràng thường biết mà không có niệm nào khác
thì muôn pháp là nhất, là như, chớ không còn cái gì nữa cả. Như vậy quí vị
thấy muốn tìm muôn pháp nhất như phải tìm ở đâu? Có nhiều người không biết
tu, nghe nói tu đến khi tâm cảnh nhất như hay là muôn pháp đều như như
liền nghĩ rằng, muôn pháp như như tức là mình phải quán tất cả đều là
không ngơ thì nó như, phải không? Không phải! Chỉ khi nào chúng ta không
có một niệm dấy lên thì các pháp là nhất như. Trở lại thí dụ trên, quí vị
thấy con mắt không ngủ là dụ cho không khởi một niệm. Con mắt không ngủ
thì có thấy mộng nào đâu nên nói vạn pháp nhất như; con mắt lúc ngủ thì
hết mộng này đến mộng kia liên miên là dụ cho khi dấy niệm lên thì muôn
pháp thiên sai vạn biệt. Như vậy chúng ta thấy muốn hết mộng thì chỉ chịu
khó mở mắt, cũng như muốn cho tâm cảnh nhất như thì chỉ chịu khó tâm không
khởi niệm, không có niệm khác thì nó là nhất như. Quí vị thử khi nào ngồi
nhìn trời nhìn mây mà không có một niệm nào cả thì trời mây có phân biệt
cái này đẹp, cái kia xấu, cái này tên A, cái kia tên B không? Nếu không
khởi niệm, không có phân biệt tức là nhất như chớ gì? Còn mình khởi niệm
thì nói đây là mây vàng, kia là mây đỏ v.v... là nhiều thứ rồi. Thế nên
chủ yếu của người tu là phải làm sao biết rõ cái chân thật đó, đừng chạy
theo vọng tưởng, vọng tưởng lặng rồi thì muôn pháp nhất như, chớ không
phải nhồi muôn pháp trở thành một khối để nhất như. Đó là chủ yếu của chư
Tổ dạy. Như vậy đoạn này nói: “tâm nhược bất dị, vạn pháp nhất như” với
đoạn trên Tổ Bá Trượng nói: “đản ly vọng duyên, tức như như Phật” có khác
không? Nghĩa là đoạn trên thì lìa vọng duyên, còn đoạn này thì tâm chẳng
khác, chẳng khác tức là không loạn chớ gì? Như vậy trên nói “như như
Phật”, dưới nói “vạn pháp nhất như” là lối nói cho chúng ta thấy rõ.
Cũng trong Tín Tâm Minh có đoạn:
“Viên đồng thái hư, Vô khiếm vô dư,
Nhân do thủ xả, Sở dĩ bất
như.”
Tổ
lập lại chữ “như” một lần nữa. Mình có cái thể tánh đó tròn đồng thái hư,
nghĩa là trùm cả hư không; vô khiếm tức không thiếu, vô dư tức không thừa,
không thừa, không thiếu, hư không đến đâu thì tâm thể mình đến đó. Tại sao
vậy? Vì tâm thể không tướng, mà hư không cũng không tướng, không tướng nên
hư không đến đâu thì tâm thể đến đó, vì vậy nói tròn đồng thái hư, không
có thiếu, cũng không có thừa. “Nhân do thủ xả”, thủ là lấy, xả là bỏ, vì
chúng ta có lấy có bỏ do đó không được như. Quí vị thấy, nếu có lấy, có
bỏ, thì tâm đó dị chưa? Lấy khác bỏ khác, tức là tâm đã dị rồi, mà tâm đã
dị thì không phải, tức nhiên vạn pháp đâu được nhất như. Thế nên Tổ bảo
nếu còn thủ xả thì không có như, nếu mình bỏ thủ, bỏ xả rồi thì sẽ như.
Tất cả niệm của chúng ta khởi theo cái gì? Theo hai bên, nghĩa là hoặc thủ
hoặc xả, hoặc khen hoặc chê v.v..., tất cả các chấp hai đều nằm trong thủ
xả. Vì thế còn chấp hai là tâm không như. Tóm lại niệm nào dấy lên cũng
đều trong cái chấp hai. Ví dụ chúng ta nghĩ vật này tốt hoặc xấu, việc kia
có hoặc không... tốt xấu là hai, có không là hai, phải quấy là hai v.v...
vừa dấy niệm là nằm trong cái chấp hai; nhưng nếu lặng niệm xuống thì có
hai không? Biết mà không có hai, chính cái biết không hai đó mới là như,
còn dấy niệm theo hai bên là không như, đó là chỗ thiết yếu mà quí vị phải
thấy cho thật rõ. Như vậy đoạn này là tôi nhắc để quí vị thấy đường lối
tu.
Cũng trong Tín Tâm Minh, khi kết thúc Tổ nói: “Tín tâm bất nhị, Bất nhị
tín tâm.”
Ngài nói Tín Tâm là không hai, rồi lập lại không hai là Tín Tâm. Chúng ta
tin tâm là không hai, chúng ta không hai tức là tin tâm. Quí vị tin tâm
chưa? Nếu còn thấy hai là chưa tin. Chữ tin này không phải chỉ là chúng ta
biết có cái đó, mà chữ tin này là tin nhận, nhận được tâm chân thật; nhưng
muốn nhận được tâm chân thật là đừng thấy hai, còn có hai là không bao giờ
nhận được tâm chân thật. Như vậy tin nhận được tâm chân thật là khi nào
không còn hai, vì thế Ngài nói “tín tâm bất nhị” rồi Ngài lập lại “bất nhị
tín tâm”; vì tâm chân thật đó là không có niệm, dấy niệm tức là hai, muốn
nhận nó thì phải đừng dấy niệm. Thế nên quí vị thấy chư Tổ thuở xưa, khi
người nào dấy niệm hỏi điều gì có tánh cách đối đãi thì đều bị ăn đòn phải
không? Đó là để tập cho mình thấy đó là lỗi, đừng chạy theo nó nữa, không
theo cái hai mới tin được tâm, mà tâm đó là gì? Tâm đó là Phật phải không?
Nếu chúng ta tin được tâm đó tức chúng ta tin được ông Phật của mình. Tin
được Phật mình, nhận được Phật mình thì sớm muộn gì cũng thành Phật, nên
nói kiến tánh thành Phật. Ai tu lại không muốn thành Phật, phải không? Có
người nào nói tôi tu mà không thèm thành Phật? Tu là muốn được thành Phật,
nhưng muốn được thành Phật thì phải tin nhận tâm của mình, tin nhận tâm
của mình thì phải không hai, không hai đó là tin nhận. Tóm lại, quí vị
thấy chủ yếu của người tu muốn được thành Phật (tức là ông Phật sẵn của
mình) thì phải đừng bị vọng tưởng dẫn dắt, nếu để vọng tưởng dẫn dắt thì
không bao giờ chúng ta tin nhận được điều đó, nghĩa là còn vọng tưởng thì
dù nói cao xa gì đi nữa, cũng không đến được cái đó được.
Đấy là tôi dẫn trong Tín Tâm Minh, tiếp theo tôi dẫn một đoạn trong Chứng
Đạo Ca cho quí vị thấy các ngài cũng đều dạy chúng ta một điều đó. Chứng
Đạo Ca nói:
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn,
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên,
Mích tức tri quân bất khả kiến.”
“Thể nhược hư không vô nhai ngạn” là tâm thể đó giống như hư không, không
có bờ mé. Đoạn trên nói “viên đồng thái hư” là tròn đồng thái hư, không
thiếu không dư, đây Ngài nói thể đó như hư không, không bờ mé. Làm sao
sống được cái thể đó? Và làm sao biết được cái thể đó? “Bất ly đương xứ
thường trạm nhiên” nghĩa là không rời ngay chỗ này mà nó thường lặng lẽ,
ngay chỗ này tức là hiện giờ quí vị đang ngồi đây, có cái lặng lẽ đó hay
không? Có ông Phật hiện không? Đâu phải chạy tìm nơi nào, mà ngay nơi đây
có ông Phật hiện tiền rồi! Vì thế nên nói: “mích tức tri quân bất khả
kiến”, khởi niệm tìm tức là mất tiêu không bao giờ thấy được ông Phật,
lặng lẽ ngồi an như vậy thì ông Phật hiện tiền, nhưng vừa dấy niệm tìm ông
thì mất ngay. Dấy niệm lên là ông Phật không còn, niệm lặng xuống là ông
Phật hiện tiền. Chính chỗ đó quí vị mới thấy, tâm thể của chính mình là
trùm khắp, còn vọng tưởng của mình thì giới hạn tạm bợ. Tỉ dụ chúng ta
nghĩ về người thì vọng tưởng chỉ giới hạn trong con người, khi chúng ta
nghĩ tới cây thì vọng tưởng chỉ duyên theo bóng của cây, nó có giới hạn,
nghĩ cái đó rồi nó mất; như vậy nó có tướng giới hạn và tạm bợ mà cho là
mình, còn tâm thể trùm cả hư không, chưa bao giờ sanh diệt chúng ta lại bỏ
quên, đó là điều thật đáng thương cho mình. Chúng ta bỏ cái chân thật mà
chạy theo cái hư dối, hài lòng với cái hư dối để rồi lăn lộn trong vòng
luân hồi sanh tử, vì thế chư Phật, chư Tổ thương xót mới ra đời chỉ cho
chúng ta cái đó. Phật Tổ thương chỉ cho chúng ta cái đó, nhưng chúng ta
thì sao? Chúng ta không chịu làm đúng như lời Phật Tổ dạy, như vậy Phật Tổ
phụ mình hay mình phụ Phật Tổ? Nhiều khi quí vị cứ nghĩ Phật bỏ mình,
nhưng Phật bỏ mình hay mình bỏ Phật? Như thế mới thấy rõ ràng chúng ta là
người quí kính Phật nhưng vô tình chúng ta lại bỏ rơi Phật, phụ công ơn
Phật. Điều Phật chỉ dạy chúng ta không màng, chúng ta không cố gắng thực
hiện, chúng ta lại bỏ qua để rồi chúng ta sống trong sự cuồng loạn của
chúng ta, đó là chúng ta đáng khen hay đáng chê? Thật là những chúng sanh
mê muội đáng thương, đáng trách phải không? Mê muội thật quá lắm! Thế nên
chúng ta hiểu đạo là để tu, chớ không phải hiểu để nói, chúng ta làm sao
ứng dụng được những điều Phật Tổ dạy để mình trở lại với tâm chân thật của
mình. Vậy thì quí vị nhớ rằng thân này là tứ đại hòa hợp, tâm vọng tưởng
là duyên theo bóng dáng sáu trần, cái gì họp thì cái đó phải tan, cái
duyên theo bóng dáng là cái hư dối. Cái sẽ tan, cái hư dối mà chấp là
thật, là mình; còn cái chưa bao giờ mất, chưa bao giờ diệt lại trùm cả hư
không, chúng ta lại bỏ quên. Đúng như trong kinh PHÁP HOA nói là cùng tử,
lẽ ra nhận mình là con ông trưởng giả thì kho báu đầy nhà mặc tình hưởng,
nhưng không chịu nhận lại cam đi hốt phân để sống qua ngày. Qua hình ảnh
đó chúng ta mới thấy sự tàn tệ, sự điên cuồng của chúng ta: Có một cái
chân thật chúng ta có quyền hưởng trọn vẹn nhưng không chịu hưởng để đi
nhận một cái hết sức là tầm thường và hài lòng như vậy. Tất cả người chạy
theo cái tầm thường và hài lòng hãnh diện, chúng ta thấy họ thế nào? Thật
là đáng thương phải không? Giả sử họ ngồi ăn một mâm cơm đầy đủ cao lương
mỹ vị, mới nhìn thấy sang, thấy ngon nhưng ăn quá no những thức ăn khó
tiêu dễ sanh đau bụng rồi mới thấy khổ, một lát sau tiêu hóa ra cũng hôi
thúi. Vậy mà hài lòng, vậy mà quí trọng, đó thật là khờ dại, còn cái chân
thật thanh tịnh sẵn có lại bỏ quên! Thế nên chúng ta tu là cốt phải trở về
cái chân thật đó, sống được với cái chân thật đó mới thật là biết đạo, mới
thật là tu. Trái lại chạy theo bóng dáng bên ngoài dầu hay bao nhiêu cũng
chỉ là ảo ảnh thôi, không phải cái chân thật. Như thế quí vị thấy chủ yếu
của người tu Phật là phải tin nhận nơi mình cái chân thật, cái chân thật
đó gọi là Chân tâm hay Phật tánh. Để kết luận tôi không muốn nói dài dòng
mà kết luận bằng một bài kệ của cư sĩ Bàng Long Uẩn để nhắc cho quí vị nhớ
ông là cư sĩ mà còn nói được như thế này:
“Đản tự vô tâm ư vạn vật,
Hà phòng vạn vật thường vi nhiễu.
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống,
Kháp tợ mộc nhân khán họa điểu,
Mộc nhân bản thể tự vô tình,
Họa điểu phùng nhân diệc bất kinh.
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự bồ-đề đạo bất thành.”
Tôi tạm dịch:
Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
Ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu.
Trâu sắt chẳng sợ sư tử rống,
Giống như người gỗ xem chim vẽ,
Người gỗ bản thể tự vô tình,
Chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh.
Tâm cảnh như như chỉ thế ấy,
Nào sợ bồ-đề đạo chẳng thành.
Quí vị thấy ông mở đầu bằng câu: “Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật.” Vô tâm đó
là vô cái vô tâm nào? Trong đoạn đầu tôi dẫn lời đức Phật bảo: “các thầy
Tỳ-kheo đừng tin tâm các ông”, vô cái tâm đó, vô cái tâm vọng tưởng điên
đảo đó. Chỉ vô tâm cùng vạn vật nghĩa là không có tâm điên đảo chạy theo
muôn vật thì ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu, ngại gì mà phải than: ôi
cái này, cái kia vây quanh, tôi tu không được! Tại sao tôi tu không được?
Tại cái này, tại cái kia v.v... đủ thứ cái tại. Như vậy là tại cái đó hay
tại mình có tâm với nó? Tôi ví dụ: Có một vật quí người ta để trước mắt
chúng ta, nó là nó, mình là mình, đâu phải tại món đồ quí mà tôi tu không
được, phải không? Tại thấy nó nên tôi tham tôi tu không được. Dấy niệm
tham nên tu không được, chớ vật quí là vật quí, mình là mình, đừng dấy
niệm tham thì có gì tu không được? Đến những tiếng khen, tiếng chê, tiếng
khen chê qua rồi mất, chúng ta đừng quan trọng nó, đừng dính với nó thì có
gì mà tu không được. Nhưng được người khen thì nhớ hoài, bị người chê thì
giận mãi, như vậy tu không được là tại chúng ta giữ nó, duyên theo nó nên
tu không được. Nếu nó như gió thổi, như tiếng pháo nổ, qua rồi thôi thì có
gì mà tu không được, phải không? Như vậy tu không được là tại cái gì? Tại
hữu tâm với vạn vật. Hữu tâm, thế gian gọi là hữu tình đó. Thấy cái gì
cũng cột, cũng nắm rồi đổ thừa tại vật này, việc kia làm lăng xăng tôi tu
không được. Thử hỏi trên thế gian này nơi nào không có những điều lăng
xăng phải không? Chỗ nào cũng là lăng xăng, chỉ mình đừng chạy theo nó thì
hết lăng xăng, vì vậy nên ông thốt ra hai câu: Chỉ tự vô tâm cùng vạn vật,
ngại gì vạn vật thường quấy nhiễu. Vạn vật không quấy nhiễu chúng ta, nếu
chúng ta không có tâm với nó, trái lại nếu mình có tâm với nó thì đổ thừa
tại nó quấy nhiễu mình. Ngài lại dùng thí dụ con trâu sắt không sợ sư tử
rống. Thường sư tử rống lên thì trâu hay voi gì cũng chạy cả, nhưng nếu
gặp trâu sắt, sư tử rống thì rống nó đâu chạy. Trâu sắt thì không sợ. Đến
thí dụ thứ hai là giống như người gỗ xem chim vẽ. Người gỗ đứng nhìn chim
vẽ thì cả hai như thế nào? Ngài nói: Người gỗ bản thể tự vô tình. Người gỗ
đâu có tình; chim vẽ gặp người cũng chẳng kinh, chim vẽ thấy người gỗ cũng
không sợ. Ba hình ảnh, hình ảnh thứ nhất là con trâu sắt, hình ảnh thứ hai
là người gỗ, hình ảnh thứ ba là con chim vẽ, cả ba đều không sợ ai hết. Sở
dĩ nó không sợ là tại sao? Tại nó vô tình, nó vô tâm. Chúng ta hiện nay
cũng vậy, nếu mình vô tâm với vạn vật, thì không vật nào quấy nhiễu mình
được cả. Thế nên để kết thúc Ngài kết thúc bằng hai câu: tâm cảnh như như
chỉ thế ấy, tức là đối cảnh mà tâm mình như như không chạy theo, thì nào
sợ bồ-đề đạo chẳng thành, nếu tâm mình không chạy theo cảnh thì đừng lo
không thành đạo Bồ-đề, mai chiều sẽ thành! Quí vị thấy sở dĩ mình không
thành đạo Bồ-đề là vì tâm chạy theo cảnh. Trái lại nếu tâm không chạy theo
cảnh thì tâm cảnh đều như như, mà tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền
chớ không tìm ở đâu nữa.
Tóm lại, chư Phật, chư Tổ đều chỉ rõ yếu điểm tu hành cho chúng ta. Yếu
điểm đó là tâm đừng chạy theo cảnh, khi tâm không chạy theo cảnh thì tâm
cảnh như như, tâm cảnh như như thì đạo Bồ-đề hiện tiền không phải tìm ở
đâu nữa, như vậy dù không muốn thành Phật thì Phật cũng hiện trước mắt.
Trái lại, nếu chúng ta cứ mong tìm mà tâm cứ động mãi thì không bao giờ
thấy Phật, đó là điều rõ ràng. Thế nên, mong rằng tất cả chúng ta, Tăng
Ni, Phật tử và cả tôi nữa (vì tôi chưa tách rời quí vị được) qua năm mới
này đều nỗ lực cố gắng tu hành, nhưng tu hành ở đây không có nghĩa là
chúng ta phải lạy một ngày vạn Phật hay là sám hối một ngày mười thời, mà
cố gắng tu hành ở đây là đừng để tâm chạy theo cảnh. Đừng để tâm chạy theo
cảnh, tâm và cảnh được như như thì đó là chúng ta không cô phụ công ơn
Phật Tổ và các vị Thiện tri thức chỉ dạy chúng ta. Như vậy mới xứng là
người con dòng họ Thích, mới không hổ thẹn xưng ta là Thích tử, trái lại
nếu chúng ta cứ để tâm rong ruổi theo vọng cảnh thì dù chúng ta có thương
Phật thế mấy cũng khó mà gặp Phật được. Vậy mong rằng quí vị và chúng tôi,
tất cả chúng ta nỗ lực để mỗi ngày mỗi ngày gần được Phật và một ngày nào
đó thì viên mãn sống với Phật chớ không còn quên, không còn bỏ sót nữa.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
] |