AN LẠC SAU KHI BỨNG GỐC KHỔ ĐAU
BÀI NÓI CHUYỆN VỚI PHẬT TỬ
XUÂN ĐINH MÃO 1987
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán năm Đinh Mão 1987, quí Phật tử đến chùa lễ
Phật và chúc mừng năm mới quí thầy. Để đáp lại lòng kính trọng Tam Bảo của
quí Phật tử, chúng tôi sẽ có lời chúc đầu năm hơi dài dòng một chút, không
chỉ một câu ngắn gọn rồi thôi, lời chúc này gồm nhiều chi tiết. Hôm nay
đầu đề chúng tôi chúc là: Cầu tam bảo gia hộ cho tất cả Phật tử một năm
mới hoàn toàn an lạc.
Khi nói đến an lạc, trước phải nói đến đau khổ. Nếu nói an lạc suông, quí
vị lại tưởng là mình thảnh thơi lắm, rồi không cố gắng tu hành. Vì vậy khi
chúc quí Phật tử một năm mới hoàn toàn an lạc, chúng tôi sẽ nói rõ nguồn
gốc đau khổ của con người hiện tại và vị lai. Nếu biết được nguồn gốc đau
khổ mình nhổ phăng bứt gốc bứt rễ nó lên thì an lạc sẽ đến, an lạc thật
sự.
Tất cả Phật tử chúng ta là con Phật phải nhìn thấy đúng như cái nhìn cái
thấy của đức Phật. Sau khi giác ngộ rồi, đức Phật thấy rõ được bản chất
của con người như thế nào, Ngài đem ra chỉ dạy để chúng ta thức tỉnh biết
rõ được con người mình. Khi biết rõ được con người mình thì chúng ta mới
biết làm sao để hết khổ và làm sao để đến an lạc thật sự, đó là gốc của sự
tu. Nếu chúng ta không biết bản chất của mình là vui hay khổ cứ sống lây
lất qua ngày, đua đòi theo những hình thức vật chất, chúng ta phải tạo
nghiệp thọ khổ, chẳng những đời này mà còn kéo dài không biết bao nhiêu
kiếp nữa. Vì lòng từ bi, đức Phật muốn cho mọi người hết khổ, nên trước
tiên Ngài chỉ rõ nguồn gốc đau khổ. Thấy được nó chúng ta mới có thể đào
bới nó lên được. Nếu không thấy nó chúng ta muốn cầu vui mà cái vui không
bao giờ đến, vì chúng ta có biết cái khổ đâu mà bới lên. Thành ra muốn vui
mà con người cứ khổ, cái khổ cứ tràn tới mãi mãi. Chính con người ở thế
gian đang là như vậy, lúc nào cũng chúc mừng nhau năm mới được an vui hạnh
phúc, nhưng đến cuối năm quí vị thấy có an vui hạnh phúc không? Luôn luôn
chúc nhau an vui hạnh phúc mà kết quả lại không có an vui hạnh phúc chi
hết, mà trái lại nhiều khổ đau, nhiều bực bội. Chúc như vậy chỉ là chúc
suông thôi.
Ở
đây chúng tôi muốn quí Phật tử thật sự sang năm này là một năm quí Phật tử
tạo nên một cội nguồn của sự an lạc. Muốn tạo nên cội nguồn an lạc đó
trước tiên quí Phật tử phải biết nguồn gốc đau khổ là cái gì? Biết được nó
rồi chúng ta mới có thể bứng gốc bứng rễ nó để thành an lạc.
Nguồn gốc đau khổ là cái gì?
Trong đạo Phật, lúc nào đức Phật cũng muốn chỉ cho mọi người thấy được lẽ
thật của kiếp sống con người. Chúng ta cứ tìm những điều quanh quẩn bên
ngoài mà những điều đó dù chúng ta thấy được lẽ thật của chúng, cũng là lẽ
thật bên ngoài thôi; còn bản thân chúng ta chưa biết chưa thấy đó là một
khuyết điểm lớn lao. Vì vậy đức Phật nói rõ bản chất của con người là khổ
hay vui? – Khổ! Vừa nghe thoáng qua chúng ta cảm thấy bi quan, nhưng đó là
sự thật.
Vì
sao bản chất con người là đau khổ?
Đức Phật dạy: đau khổ chia ra hai phần:
1. Đau khổ do sự cảm thọ.
2. Đau khổ do lòng tham ái.
Như vậy chúng ta cần xác định lại kiếp sống con người là đau khổ, chớ
không phải là an vui. Đức Phật dạy những đau khổ của con người là do:
-
Sanh, già, bệnh, chết,
-
Ái biệt ly khổ,
-
Oán tắng hội khổ,
-
Cầu bất đắc khổ,
-
Ngũ ấm xí thạnh khổ.
Chúng ta ở trên thế gian này thật là khổ. Trong cuộc sống quí vị muốn một
trăm điều, kết quả được bao nhiêu? Nhiều lắm là hai chục điều thôi tức là
có hai chục phần trăm được như ý. Đó là tôi nói ưu đó, có khi còn chưa
được như vậy nữa! Còn tám chục phần trăm là bất như ý, tức là không toại
nguyện, mà không toại nguyện là đau khổ. Nhìn tổng quát, đức Phật nói cuộc
đời con người là đau khổ, sanh là khổ. Đó là cái khổ thứ nhất.
Già có khổ không? Có ai nói già mà vui đâu! Già thì thân thể yếu gầy bệnh
hoạn, rồi răng rụng da nhăn, chân mỏi gối dùn, đi đứng lụm cụm, đủ chuyện
phiền hà, nên nói già là khổ.
Bệnh có vui không? Bệnh là khổ rồi, không ai chối được.
Còn chết thì sao? Là đại khổ!
Như vậy thử kiểm lại ở trần gian này, có người nào thoát khỏi sanh lão
bệnh tử hay không? Ai cũng sanh ra rồi già đi, ai cũng phải bệnh hoạn rồi
cuối cùng là chết. Không một ai thoát khỏi bốn điều này, cho nên nói kiếp
người đau khổ là như vậy.
Đến ái biệt ly: thương mà xa lìa. Những người mình thương rất là thương mà
xa lìa, có gì khổ cho bằng! Có người nào khỏi xa lìa thân nhân mình đâu,
thân nhất là cha mẹ, vợ chồng, anh em, bạn bè, có lúc cũng phải xa lìa.
Như vậy gọi là ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ: ghét mà gặp mặt nhau cũng
khổ. Những người mình không thích, không muốn thấy mặt mà cứ ở ngay trước
mắt mình hoài thì làm sao vui được! Cầu bất đắc khổ: mong cầu mà không
được như ý cho nên khổ. Cái khổ thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ. Năm ấm
sắc, thọ, tưởng, hành, thức cấu hợp thành thân này, luôn luôn chống đối,
bất an cho nên đau khổ.
Tám điều khổ vừa kể trên, chúng ta đều phải đa mang suốt cuộc đời, không
thiếu sót một điều nào. Có ai khỏi sanh già bệnh chết? Có ai không xa lìa
người thương, không gặp gỡ người mình ghét? Có ai cầu điều gì được điều
nấy đâu? Tám điều khổ của con người là sự thật, không chối cãi được. Đau
khổ là một lẽ thật không làm sao tránh được, nó luôn luôn theo dõi ép ngặt
khiến chúng ta bất an. Nếu có gượng cười gượng vui, chỉ trong giây lát rồi
cũng khổ. Ví dụ như khi gặp bạn bè vui tươi chốc lát, đến lúc về nhà đau
chân, mỏi lưng… cảm thấy khổ thân. Như gặp người thân thì mừng rỡ, nhắc
lại người xa cách thì than khóc. Gặp người mình thích thì tươi cười, gặp
người mình ghét thì bực bội. Cả ngày vui buồn thay đổi luôn luôn, điều vui
thì ít, đau khổ thì nhiều. Bản chất con người là đau khổ. Đức Phật gọi đó
là Khổ đế: Khổ là một lẽ thật không chối cãi được.
-
Tám điều khổ do đâu mà ra? Gốc từ cảm thọ mà ra. Cảm thọ chia ra làm hai
phần:
1.
Cảm thọ sai biệt của sáu căn rồi chấp nê sanh đau khổ.
2.
Cảm thọ do đuổi theo thú vui rồi giành giựt sanh đau khổ.
Vì
sao cảm thọ sai biệt của sáu căn gây nên đau khổ? Chúng ta ai cũng có sáu
căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Sáu căn này có những cảm thọ ngoại
cảnh không giống nhau. Thí dụ như mắt chúng ta nhìn thấy sự vật, nếu vị
nào có con mắt nghệ thuật, khi nhìn bình hoa đặt trên bàn thì trầm trồ
khen hoa chưng đẹp mắt. Nhưng một người khác không có mắt nghệ thuật nhìn
mấy nhánh hoa lưa thưa ngả nghiêng không có gì đẹp cả. Người bảo đẹp,
người cho là xấu, hai người không đồng ý nhau rồi sanh bực tức tranh cãi.
Con mắt xúc chạm với sắc trần, người thấy đẹp, người thấy xấu là do cảm
thọ sai biệt mà ra. Như vậy ai đúng? Nếu không ai đúng thì sao lại tranh
cãi? Thật là vô lý. Mỗi người có cái thấy không giống nhau. Do cái thấy
khác nhau, rồi không đồng ý với nhau nên sanh cãi rầy. Nguyên do là vì
chúng ta không có nhận xét đúng đắn.
Đến cảm thọ sai biệt của lỗ tai. Thí dụ hai ba người bạn ngồi chơi, một
người kể chuyện phải quấy trong xóm, rồi nói: Những người nghèo thật đáng
thương. Người bạn khá giả nghe nói như vậy thì vẫn bình tĩnh, trong khi
người bạn nghèo cho rằng mình bị khinh khi. Cùng nghe một câu chuyện, mà
một người thì không bị xúc phạm, còn một người thì bị tự ái, bị mặc cảm.
Lời nói có giá trị bằng nhau, nhưng khi nghe rồi sự cảm thọ khác nhau, nên
sanh vui buồn khác nhau. Một người cho rằng không có chỉ trích người
nghèo, một người cho rằng mình nghèo nên bị khinh khi, hai người không
đồng ý nhau nên sanh cãi vã. Đó là do sự cảm thọ sai biệt của lỗ tai.
Sự
cảm thọ của mũi có giống nhau không? Như người miền Nam nghe mùi sầu riêng
nói: thơm quá! Nhưng người miền Trung bảo: hôi quá! Cùng một mùi sầu riêng
người nói thơm, người nói hôi. Như vậy ai đúng? Người nói mùi sầu riêng là
thơm sẽ cãi với người kia. Người nói mùi sầu riêng là hôi sẽ cãi lại. Hai
người sẽ đi đến ẩu đả nhau. Ai đúng? Ai sai? Người bàng quan ngoại cuộc
nếu ở miền Nam thì cho rằng người ngửi thơm là đúng, nếu ở miền Trung thì
cho người ngửi hôi là đúng. Do sự huân tập khác nhau nên sự cảm thọ có sai
biệt. Sự tranh cãi đúng sai thật là vô ích, không khôn chút nào hết, lại
làm buồn lòng nhau, chẳng phải nguồn gốc của đau khổ sao? Buồn giận nhau,
không ngó mặt nhau, gọi là oán tắng hội, đau khổ từ đó mà sanh.
Sự
cảm thọ của lưỡi cũng khác nhau! Thí dụ cô đầu bếp làm thức ăn. Cô nấu
canh nêm nếm đàng hoàng rất là vừa ý. Nhưng vì cô quen ăn mặn nên những
người quen ăn lạt chê là nêm canh quá mặn. Cô đầu bếp tức giận nghĩ mình
nấu nướng kỹ lưỡng, nêm nếm vừa ăn lắm mà còn bị chê trách! Chung qui chỉ
vì thói quen của cái lưỡi người quen ăn mặn, người quen ăn lạt mà thôi.
Người quen ăn mặn cảm thấy vừa miệng thì người quen ăn lạt cho là mặn và
ngược lại, người quen ăn lạt cảm thấy vừa ăn thì người quen ăn mặn cho là
lạt. Như vậy lấy đâu làm tiêu chuẩn? Vì sao lại cãi nhau cho sự cảm thọ
của mình là đúng? Mỗi người có khẩu vị khác nhau. Cùng một thức ăn, người
khen ngon, người chê dở. Người thích món ăn này, người thích món ăn kia,
vì mỗi người có cảm thọ riêng biệt theo thói quen của mình. Chẳng những
chúng ta có thói quen đời này mà còn cả thói quen của đời trước nữa. Thí
dụ có người khi cha mẹ sanh ra chỉ ăn chay lạt, không ăn thịt cá được. Vì
lý do gì? Có phải là cảm thọ quá khứ còn lại, nên không thích mùi thịt cá.
Lại có người cha mẹ bảo ăn chay, thì thích dùng thức ăn mặn. Như vậy là do
thói quen của mọi người, hoặc ở hiện tại, hoặc đã huân tập trong quá khứ.
Chúng ta không nên chủ quan bắt buộc người khác phải giống mình. Nhưng ở
trên thế gian này phần đông chúng ta đều chủ quan muốn ai cũng giống mình,
nhất là con cái trong nhà. Nếu con trong nhà làm khác ý cha mẹ, cha mẹ sẽ
bực tức giận trách rầy la, tạo bao điều đau khổ trong gia đình. Tất cả
cũng do sự cảm thọ sai biệt mà ra.
Cảm thọ của thân như thế nào? Cũng riêng biệt tùy theo mỗi người. Thí dụ:
Hai người ở chung một căn phòng, một người mập béo, một người gầy ốm. Căn
phòng có một cửa sổ khi trời vừa mát người gầy ốm cảm thấy lạnh vội đi
đóng cửa sổ… Người mập béo nghĩ thế nào? Cảm thấy bực bội, khí trời nóng
bức vừa dịu mát lại đóng cửa sổ, không giận sao được! Rồi hai người cãi vã
nhau, có khi đi đến ẩu đả. Như vậy lẽ thật ở đâu? Đó là do cảm thọ sai
biệt của thân nên người ta bất đồng ý với nhau rồi sanh bất hòa, đó là
nguồn gốc đau khổ.
Thứ sáu là cảm thọ của ý. Điều này là quan trọng hơn hết. Cảm thọ của ý là
gồm nghiệp của quá khứ và thói quen của hiện tại. Mỗi người chúng ta sống
trong hoàn cảnh gia đình và xã hội khác nhau nên được sự giáo dục và hiểu
biết khác nhau. Người thấy thế này là phải, người thấy thế kia là phải.
Thí dụ: Một người sanh trong gia đình theo đạo Phật từ thuở bé, một người
sanh trong gia đình theo đạo Chúa từ thuở bé. Hai người ngồi nói chuyện
với nhau, do sự huân tập khác nhau nên có những cảm nghĩ khác nhau. Người
tin Chúa cho đạo Chúa là đúng, không chấp nhận đạo Phật. Người tin Phật
cho đạo Phật là hay, không chấp nhận đạo Chúa. Hai người tranh luận với
nhau, có những quan điểm bất đồng, bực bội cãi vã lẫn nhau. Đó là nguồn
gốc của đau khổ. Đến đời sống của vợ chồng trong gia đình cũng vậy. Người
chồng có sự huân tập của người nam, lo việc rộng lớn ngoài xã hội, người
vợ có sự huân tập của người nữ, lo việc tỉ mỉ trong nhà. Hai vợ chồng có
hai huân tập khác nhau, nên thường không đồng ý kiến với nhau. Ai cũng
thấy mình là đúng, người kia là sai, nên không ai chịu thua ai, cuối cùng
đi đến ly dị, hậu quả là con phải chịu đau khổ! Nguyên do từ đâu? Chỉ do
sự cảm thọ sai biệt, rồi chấp chặt cho quan niệm của mình là đúng, bắt
người khác phải nghe phải thấy như mình, phải có những cảm nghĩ những hiểu
biết như mình. Nếu không đồng ý nhau thì lắc đầu than thở: Sao không có ai
là bạn tri kỷ với mình! Thử hỏi trên thế gian này có mấy người tri kỷ
giống mình như một? Chắc là không rồi, vậy mà buộc lòng phải sống chung
nhau thật là quá đau khổ!
Thế thì phải làm sao cho hết đau khổ! Chỉ đừng chấp nê là hết đau khổ!
Cùng một mùi trái cây tôi ngửi cho là thơm cũng đúng, chị cho là hôi cũng
đúng theo thói quen của mỗi người, như vậy hòa nhau, tránh được sự tranh
cãi. Cùng một thức ăn chị nếm nghe mặn, tôi nghe lạt, cả hai đều đúng theo
thói quen của cả hai, tất nhiên hòa nhau không có tranh cãi v.v… Nếu còn
chủ trương sai biệt cho mình là đúng, người là sai, là còn tranh cãi, còn
đau khổ. Nhận chịu sự đau khổ là khôn hay không khôn? Quả thật không khôn.
Nhưng nếu ai bảo là mình ngu thì mình lại nổi giận lên, có phải là mâu
thuẫn không? Nếu còn chấp nê là còn đau khổ. Hiểu như vậy rồi, chúng ta
phải thông cảm với nhau, bỏ qua tất cả những sự sai biệt để sống hòa thuận
với nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Nếu biết chấp nê là sai quấy
thì phải mạnh dạn dẹp tự ái đến xin lỗi người, làm hòa với nhau thì cuộc
đời sẽ bớt được nhiều đau khổ.
Những người đến tôi để thưa kiện, đều than không ai thông cảm với mình
hết. Vì chấp sự cảm thọ của mình là đúng thì làm sao có người thông cảm
với mình được! Nếu buông tất cả chấp nê thì mọi người đều thông cảm với
mình. Chúng ta tu phải biết rõ lẽ thật đó, bỏ tất cả sự chấp nê do cảm thọ
sai biệt, thì đau khổ tự dứt. Không phải cầu Phật ban cho điều gì, không
phải cầu xin nơi miếu này lăng kia, mà phải biết rõ nguồn gốc của đau khổ
là do sự cảm thọ sai biệt của sáu căn, rồi chấp chặt vào đó, rồi tranh
đấu, giành giật, hơn thua với nhau, cuối cùng là đau khổ. Biết như vậy
chúng ta buông xả tất cả sự chấp nê là chúng ta hết đau khổ.
Nguyên nhân thứ hai của đau khổ là đuổi theo thọ lạc. Hiện giờ chúng ta
đang sống, ai cũng muốn cuộc đời được hạnh phúc. Thử hỏi quí vị cái gì là
hạnh phúc? Chúng ta chỉ nói đến hạnh phúc mà không biết cái gì là hạnh
phúc? Được ăn ngon, mặc đẹp là hạnh phúc chăng? Được nhiều tiền của, ở nhà
to rộng là hạnh phúc chăng? Được những gì mình mong muốn là hạnh phúc
chăng? Quí vị thử kiểm lại những điều đó có phải là hạnh phúc thật hay
không? Con người ai cũng mơ ước hạnh phúc, mơ ước mãi mà không bao giờ
toại nguyện. Vì sao? Thí dụ: Khi đang đói chúng ta nghĩ có một bữa cơm
ngon, hạnh phúc biết mấy! Nhưng khi được bữa cơm ngon, ăn đầy đủ rồi,
hạnh phúc còn không? Hạnh phúc qua mất rồi! Như vậy hạnh phúc chỉ có trong
chốc lát thôi, rồi qua mất không còn. Đang đi bộ, chúng ta nghĩ được một
chiếc xe đạp đi, chắc là hạnh phúc lắm. Nhưng khi được chiếc xe đạp đi lọc
cọc ba bốn hôm rồi nó hư, lúc đó có hạnh phúc không? Như vậy hạnh phúc
không bền, không thật, mà thế gian cứ đuổi theo cho nó là bền là thật!
Hạnh phúc qua rồi mất, đuổi theo cái qua rồi mất thì hạnh phúc ấy quả là
không thật. Biết hạnh phúc không thật mà chúng ta mơ ước nó hoài, thì mơ
ước đó trở thành hão huyền.
Khi chúng ta mơ ước một điều gì, nghĩ rằng khi được nó hạnh phúc biết bao!
Nhưng khi được rồi, còn hạnh phúc nữa không? Có gì hạnh phúc hơn, khi làm
mệt nhọc được nằm nghỉ một chốc lát, hạnh phúc biết mấy? Nhưng nếu bị bắt
buộc nằm một ngày, còn hạnh phúc hay không? Nếu nằm một ngày không được đi
đâu, lúc ấy cũng bực bội. Thành thử hạnh phúc không có thật, nó chỉ có
trong một giai đoạn nào thôi. Thí dụ chúng ta đang gánh gồng hết sức là
nặng, nếu có ai đỡ gánh dùm mình, lúc ấy chúng ta cảm thấy nhẹ bỗng lên,
hạnh phúc biết mấy! Nhưng nếu hết gánh rồi đi một lúc, chúng ta không còn
thấy hạnh phúc nữa. Như vậy hạnh phúc chỉ có trong chốc lát. Trong lúc khổ
đau, qua được cơn khổ đau tạm gọi là hạnh phúc. Hạnh phúc là do qua cơn
khổ đau, chớ nó không có thật. Cái không thật mà chúng ta tưởng chừng cả
đời hưởng hoài thì làm sao có được.
Chúng ta hiện giờ mong mỏi ước mơ là mong mỏi ước mơ cái gì? Ước mơ hạnh
phúc. Ước mơ hạnh phúc là ước mơ được: một là ăn ngon, hai là mặc đẹp, ba
là được những nhu cầu sung túc, bốn là được tiền bạc dồi dào, năm là được
gia đình sung sướng vui vẻ v.v… Những điều ước mơ đó được rồi mất, không
còn nguyên vẹn mãi. Như vậy hạnh phúc có hay không? Chúng ta mong muốn
những điều đó phải lâu bền mãi mãi, nhưng trên thế gian này đâu có điều gì
lâu bền mãi mãi. Như vậy suốt cuộc đời mình bị chúng chỉ huy sai sử. Như
mỗi sáng thức dậy, chúng ta chuẩn bị lo cho bữa ăn sáng, rồi đến bữa trưa
và bữa chiều. Chúng ta chạy loanh quanh tìm kiếm những thức ăn cho vừa
miệng, tức là suốt ngày chạy theo cái thọ lạc của lưỡi. Những thức ăn vừa
miệng khi để vào lưỡi có cảm giác ngon, nhưng khi nuốt qua rồi cảm giác ấy
không còn nữa. Như vậy mà chúng ta cứ chạy theo cái thọ lạc, chạy mãi
không có ngày cùng, cho đến ngày nhắm mắt cũng chưa vừa ý.
Đến cảm thọ của lỗ mũi, lỗ tai, con mắt cũng vậy. Cái nhà nhìn thấy phải
đẹp, chậu hoa, chậu kiểng phải vừa mắt v.v… Như vậy con người chạy tìm cái
thọ lạc suốt cuộc đời không có ngày cùng. Thọ lạc là tạm bợ giả dối không
thật. Đuổi theo thọ lạc tức là gởi gắm, hiến dâng đời mình cho cái giả
dối. Vậy mà chúng ta thấy hài lòng chạy theo nó từ năm này sang năm khác,
rồi cả một cuộc đời bị thọ lạc của sáu căn sai sử. Cả một cuộc đời chạy
theo thọ lạc, nếu có ai ngăn chận thì nổi giận ngay. Thí dụ: Đi chợ thấy
bó rau ngon, chúng ta vừa ngồi xuống lựa, chợt có người đến mua trước, thì
cãi vã nhau liền. Có chậu kiểng đẹp chưa kịp hỏi giá, chợt có người khuân
đi, chúng ta bực bội ngay. Chỉ vì thọ lạc của sáu căn mà chúng ta giành
giựt, hơn thua, tranh đấu với nhau cả đời không dứt. Có phải thọ lạc đã
chỉ huy lôi cuốn cả cuộc đời mình không? Cũng vì thọ lạc mà chúng ta phải
hận thù oán ghét lẫn nhau. Cảm thọ lạc nguyên là vô thường. Vì cái vô
thường đó chúng ta lại gây chuyện hơn thua, phải quấy, tranh giành với
nhau, có phải là việc làm đúng chân lý hay không? Vậy mà chúng ta bị nó
chi phối hoàn toàn không còn giây phút nào rảnh rỗi. Quí vị thường nói: cả
ngày tôi không rảnh, là tại sao? Chỉ vì đuổi theo thọ lạc: muốn ăn mặc vừa
ý, muốn thấy nghe vừa ý v.v… rồi chúng ta xoay quanh hết ngày này đến
tháng kia không rảnh phút nào. Cảm thọ đã chỉ huy cả một cuộc đời chúng
ta, lại gây ra bao nhiêu hận thùø đau khổ!
Ái
cũng là nguồn gốc của khổ đau. Trong nhà Phật ái chia làm ba thứ:
1.
Ái ngã.
2.
Ái thân thuộc.
3.
Ái sự nghiệp tiền của.
Ái
ngã là khổ. Có ai không tự thương mình đâu, dù mình có xấu đi nữa, con mắt
lệch một bên hay lỗ mũi xẹp một chút, mình cũng thương mình. Nếu biết mình
đẹp, thì mình càng thương mình hơn nữa, ái ngã chặt hơn nữa. Vì thương
mình nên những gì mình muốn mà không được thì khổ. Như mình muốn trẻ nghe
nói già là rầu, mình muốn khỏe mạnh mà bị bệnh hoạn là khổ, mình muốn sống
lâu nghe nói sắp chết lại càng đau đớn. Vì quá thương mình cho nên bị bốn
cái sanh già bệnh chết làm khổ. Ái ngã là gốc của bốn khổ vậy.
Ái
thân thuộc có hai cái khổ. Một là ái biệt ly khổ. Vì quá thương người thân
thuộc mà phải chia lìa nên chúng ta đau khổ. Có ái thì có tắng, tức là có
yêu thì có ghét theo sau. Nên người nào yêu nhiều thì ghét cũng nhiều. Vì
yêu nhiều nên người mình yêu mình thương tha thiết, người mình ghét mình
cũng ghét đắng cay không muốn nhìn mặt. Vì vậy mình khổ với người mình
thương bao nhiêu, mình cũng khổ với người mình ghét bấy nhiêu. Cho nên ái
biệt ly khổ đi đôi với oán tắng hội khổ. Đó là hai cái khổ do ái thân
thuộc.
Ái
tài sản sự nghiệp cũng là nguồn gốc của đau khổ. Có ai muốn gia sản của
mình càng ngày càng kiệt quệ đâu! Ai cũng muốn gia sản của mình càng ngày
càng to lớn. Muốn mà không được như ý thì đau khổ, tức là cầu bất đắc khổ.
Như vậy quí vị thử kiểm điểm lại có phải tám cái khổ của chúng ta đều nằm
trong ái mà ra: ái ngã, ái thân thuộc và ái sự nghiệp tiền của. Ái của
mình cạn thì tám cái khổ theo đó mà chết.
Thấy rõ gốc của đau khổ, chúng ta phải làm cách nào nhổ cái gốc đó lên.
Trong nhà Phật dạy muốn nhổ gốc của đau khổ, nghĩa là muốn dứt khổ, chúng
ta phải thấy rõ bản chất của thọ và ái cho tường tận. Thử hỏi quí vị cảm
thọ khổ và cảm thọ vui có thật hay không? Cảm thọ của sáu căn qua rồi
mất, đâu có thật! Thí dụ một bài hát thật là hay, khi nghe qua lỗ tai rất
là thích thú, nhưng nghe hát qua rồi mất, đâu còn mãi bên tai. Một thức ăn
ngon ăn rất vừa miệng, nhưng khi qua lưỡi rồi cũng mất, có còn mãi đâu
v.v… Bản chất của tất cả cảm thọ là vô thường, tức là tạm bợ giả dối. Biết
rõ cảm thọ là vô thường giả dối, chúng ta ưng làm tớ đuổi theo nó, hay
muốn làm chủ không lệ thuộc vào cảm thọ? Nếu giành được quyền làm chủ cảm
thọ thì vui, nếu bị cảm thọ làm chủ thì khổ. Quí vị nên can đảm chọn quyền
làm chủ cảm thọ thì trọn một năm nay nhất định quí vị hết khổ, hoàn toàn
an lạc.
Bản chất của ái có thật hay không? Ái là thương, thương yêu là nghĩ tới
thân này nó lâu dài bền bỉ, nhưng bản chất của thân là vô thường. Thương
yêu nó chỉ là thương yêu cái tạm bợ mà thôi. Thương yêu sự nghiệp cũng
vậy, sự nghiệp là vô thường, thương yêu thân thuộc, thân thuộc cũng là vô
thường. Những điều mình thương yêu đó đều vô thường, không có bền lâu.
Chúng ta lại thương yêu những cái vô thường hay sao? Hay là chúng ta
thương yêu cái gì lâu dài vĩnh cửu? Thí dụ khi đi chợ mua những vật cần
dùng quí vị chọn những thứ bền tốt hay những thứ tạm tạm xài vài ba hôm
rồi lại hư? Dĩ nhiên chúng ta lựa những vật dùng bền tốt, những gì tạm tạm
chúng ta không mua. Cũng như vậy, biết thân là vô thường, sự nghiệp là vô
thường, những người thân thuộc là vô thường chúng ta ôm ấp thương yêu
chúng nó để làm gì? Khi những giọt mưa từ mái nhà rơi xuống nổi lên những
bong bóng lóng lánh, quí vị thương chúng nó hay không? Nếu thương, chúng
nó bể thì sao? Bong bóng nước cũng lóng lánh, hạt kim cương cũng lóng
lánh, cả hai đều lóng lánh, quí vị thương cái nào hơn? – Thương hạt kim
cương hơn, tại sao? Vì nó lâu bền. Chúng ta thương cái gì lâu bền. Như vậy
thân này vô thường, sự nghiệp vô thường, những người thân thuộc của mình
cũng vô thường thì mình phải thương hay không? Mình thương cái nào không
vô thường, cái giải thoát không sanh tử, đó mới là cái mình thương. Những
cái vô thường chúng ta thương hoài cũng không được gì, vì chúng nó sẽ hoại
và sẽ mất. Chúng ta đeo đuổi cưu mang cái vô thường, hay đeo đuổi cưu mang
cái thoát khỏi vô thường? Có một cái thoát khỏi vô thường chúng ta không
thương, lại thương cái vô thường làm gì?
Chúng ta học đạo phải dùng trí nhận xét thấy cái gì bản chất là vô thường
là tạm bợ thì cái đó không có giá trị, qua rồi mất mà có giá trị gì! Đã
không giá trị, chúng ta đeo đuổi, cưu mang nó làm gì? Cái làm cho mình
được mãi mãi an vui tự tại giải thoát, cái đó mới là chân thật. Biết cái
vô thường rồi, chúng ta phải xoay lại cái chân thật vĩnh cửu. Khi trước,
chúng tôi hay kể câu chuyện: “Cô công chúa nũng nịu.” Thuở xưa có cô công
chúa rất được vua cha yêu quí. Một hôm nhân buổi trời mưa, công chúa ngồi
nhìn những giọt nước từ mái nhà rơi xuống, làm nổi lên những bong bóng rất
đẹp, công chúa thích quá nhưng không nói, vì bản chất hay làm nũng công
chúa vào phòng nằm, mặt mày ủ dột. Nhà vua có công chúa là con duy nhất,
thương con vô cùng. Đến giờ cơm, thấy con không ra dùng bữa, nhà vua nóng
ruột vào phòng thăm hỏi: Con ốm hay sao, không ra dùng cơm? Công chúa
không trả lời. Đến lượt hoàng hậu vào năn nỉ, công chúa cũng không đáp
lại. Hỏi han nài nỉ mãi, sau cùng công chúa nũng nịu thưa: “Con muốn có
xâu chuỗi bong bóng nước đeo vào cổ, con mới hết bệnh.” Vua cha chiều con
rất mực. Nghĩ mình là vua muốn gì lại chẳng được, nhà vua bèn ra lịnh cho
tất cả quần thần: “Ai kết được xâu chuỗi bằng bong bóng nước cho công chúa
đeo thì sẽ được phong quan tước, chia đất đai cho.” Đăng bảng lâu ngày mà
không ai dám lãnh. Sau cùng có một ông lão đến gỡ bảng, nhận xâu một chuỗi
bong bóng nước cho công chúa đeo. Ông lão được giới thiệu với công chúa.
Nàng rất đỗi vui mừng nói: “Nếu lão xâu cho tôi chuỗi bong bóng nước để
đeo, tôi sẽ hết bệnh ngay.” Ông lão nói: “Thưa thật với công chúa, tôi
già, con mắt lờ, nên lựa không được những hạt bong bóng đẹp. Vậy ngày mai,
khi trời mưa, tôi mời công chúa ra mái hiên chọn những hạt bong bóng nào
đẹp nhất, công chúa lượm đưa tôi xâu cho.” Sáng hôm sau, trời mưa, ông lão
và nàng công chúa ra mái nhà, những giọt mưa từ trên rơi xuống nổi bong
bóng, công chúa đưa tay vớt lấy…, vớt mãi đến trưa mà không được hạt nào!
Ông lão đứng chờ, chờ mãi không có hạt bong bóng nào để xâu! Cuối cùng,
quá mệt mỏi công chúa nói: “Thôi, tôi không thích bong bóng này nữa.” Nhà
vua mừng quá bảo: “Để ta cho con xâu chuỗi bằng kim cương con đeo.”
Ý
nghĩa câu chuyện vừa kể như thế nào?
Tất cả chúng ta có phải là công chúa đó không? Chúng ta cứ nắm bắt những
ảo ảnh vô thường, nắm bắt mãi cả đời mệt nhoài mà chẳng được gì. Rồi chúng
ta vào chùa cầu xin Phật cứu con. Đức Phật sẵn lòng từ bi cứu độ, cho
chuỗi kim cương thứ thiệt. Chúng ta chỉ chịu nhận thứ thiệt khi nào chúng
ta đã mệt nhoài với những thứ tạm bợ hư dối. Đức Phật tuy lấy ví dụ một
câu chuyện rất trẻ nhỏ nhưng đúng với bệnh của chúng sanh. Chúng ta giống
y nàng công chúa đó. Khi chúng ta thức tỉnh biết trở về với Phật, Phật sẽ
chỉ cho chúng ta cái chân thật. Nếu chúng ta sống được với nó, cái chân
thật ấy còn mãi, không bao giờ mất.
Người Phật tử muốn hết khổ phải thấy rõ bản chất của đau khổ không có
thật. Bản chất của đau khổ là ái và thọ, cả hai đều không thật. Càng đuổi
theo chúng càng đau khổ thôi. Nếu biết dừng lại, đau khổ sẽ bớt từ từ cho
đến một ngày nào chúng ta lìa hẳn nó, không còn đau khổ nữa.
Nhân nghe câu nào trong kinh Kim Cang mà Lục Tổ ngộ đạo? Trong kinh Kim
Cang, Phật dạy phương pháp an trụ tâm: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng
trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
Ngay đây Lục Tổ ngộ, rồi từ đó về sau Ngài hết khổ luôn. Muốn sanh tâm cầu
Vô thượng bồ-đề thì đừng dính với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu
trần không dính là an trụ tâm. Đó là hạnh phúc tuyệt vời. Nếu còn dính với
sáu trần là còn bất an, còn đau khổ. Nếu chúng ta không kẹt không chấp vào
cảm thọ của sáu căn, tức là chúng ta được giải thoát.
Cũng chính trong kinh Kim Cang đức Phật có dạy: “Phàm sở hữu tướng giai
thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Những gì có
tướng đều là vô thường, vô thường là tạm bợ, hư dối. Nếu thấy các tướng
không phải tướng là thấy Phật. Tại sao? Tỉ dụ hiện giờ thấy một món vật
đẹp, chúng ta biết rõ nó là duyên hợp hư dối; một vật gì quí, nó là duyên
hợp hư dối, một thức ăn ngon, nó là duyên hợp hư dối. Biết rõ được như
vậy, đó là có trí tuệ giác ngộ. Trí tuệ giác ngộ tức là Phật. Thấy tất cả
tướng không phải tướng tức là thấy tất cả vật đều không thật, tất cả đều
là duyên hợp hư dối. Thấy rõ như thế là thấy Phật, không phải tìm Phật ở
đâu xa. Nếu thấy Phật thì hết khổ.
Để
kết luận chúng tôi xin nhắc tất cả quí vị, nếu muốn hết khổ chúng ta phải
biết rõ bản chất của thọ và ái là vô thường, hư dối. Chúng ta phải diệt
hết, nhổ sạch gốc của thọ và ái, thì ngang đó chúng ta được an lạc. Niềm
vui không phải từ bên ngoài đem đến, không phải do sự giàu sang sung sướng
lắm tiền nhiều của, mà vui vì biết phá bỏ những mê chấp sai lầm. Buông bỏ
những sai lầm, đó là trí tuệ tỉnh giác, đó tức là Phật. Tu theo Phật cốt
để giác ngộ. Giác ngộ cho nên không lầm không mê, tức nhiên không khổ. Hết
ngu mê là sáng suốt, sáng suốt tức là hết khổ.
Nhân ngày đầu xuân năm Đinh Mão, tất cả quí vị đến đây lễ Phật và chúc
mừng quí Thầy, quí Thầy cũng chúc tất cả quí Phật tử sang năm mới này hãy
can đảm bỏ đi những chấp thọ và buông đi những ái trước. Chấp thọ và ái
trước buông bỏ thì nguồn đau khổ cạn, gốc đau khổ được bứng tung lên,
ngang đó quí vị sẽ hết khổ. Vì vậy chúng tôi chúc quí vị một năm mới hoàn
toàn an lạc sau khi bứng tận cội gốc khổ đau.
NAM-MÔ BỔN
SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
] |