ĐỨC DI-LẶC VÀ Ý NGHĨA SÁU ĐỨA BÉ
XUÂN ĐINH TỴ 1977
Trước hết tôi nói về danh hiệu của Ngài, kế đến sẽ nói đến ý nghĩa sáu đứa
bé chọc phá Ngài.
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói
chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân
Di-lặc hay là một mùa Xuân hạnh phúc quanh năm. Như vậy đức Phật có liên
hệ gì đến mùa Xuân, mà chúng ta cầu chúc một mùa Xuân Di-lặc. Có nhiều
người đã nghiên cứu lịch sử, họ cho rằng ngày mùng một Tết là ngày đản
sanh của đức Di-lặc. Tôi chưa biết đó là ngày đản sanh của một hóa thân
nào hay là hóa thân của tiền kiếp bao xa. Chúng tôi chỉ biết rằng ngày
mùng một tháng giêng là ngày vía đức PHẬT DI-LẶC.
Tại sao chúng tôi chỉ cần biết bao nhiêu đó, mà không cần coi ngày đản
sanh này phát xuất từ đâu? Bởi vì lịch sử của Bồ-tát ứng thân vô lượng,
làm sao chúng ta căn cứ một bề, lấy đó làm tiêu chuẩn. Cho nên chúng tôi
thấy rằng dù có thiếu cũng không sao. Nó không đem lại kết quả như ý, vì
lẽ đó cho nên chúng tôi không thiết tha xem có phải là đản sanh ở Ấn Độ
hay ở Trung Hoa. Chúng tôi chỉ biết một điều thật là quan trọng trên danh
nghĩa Di-lặc mà chúng ta thường tụng thường nguyện.
Khi nãy chúng ta đã tụng lên rằng: Nam-mô Long Hoa giáo chủ đương lai hạ
sanh Di-lặc Tôn Phật. Đó là chúng ta thể theo lời huyền ký của đức Bổn sư
Thích-ca Mâu-ni. Ngài đã huyền ký rằng sau này Bồ-tát Di-lặc sanh lên cung
trời Đâu-suất. Khi mãn công hạnh trên đó sẽ đến thế giới Ta-bà này thuyết
giảng. Bao giờ tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi là chót. Con người khi
đó ăn hiền ở lành tức là trải qua một cuộc biến động về những tai nạn gươm
đao v.v... chết chỉ còn một số trên non trên núi. Những người đó mới thấy
rằng do mình ăn ở hiền lành nên bây giờ mới sống sót. Họ mới phát tâm tu
hành, gìn giữ thập thiện. Tuổi thọ những người ấy tăng lên cho đến bốn
mươi tám ngàn tuổi, chừng đó đức Phật Di-lặc ra đời. Quí vị thấy theo lời
huyền ký đó thì bao lâu nữa Ngài mới ra đời? Có lẽ chúng ta sanh đi tử lại
chừng một trăm một ngàn lần, biết gặp được Ngài hay chưa? Vậy mà hiện tại
có lắm người vỗ ngực xưng rằng ta là Di-lặc. Như vậy họ xưng đó là mạo
danh, lợi dụng lời huyền ký ở trong kinh để làm cho người ta lầm tưởng. Sự
thật người học Phật chân chánh nghe nói đức Phật Di-lặc ra đời thì cứ nhớ
hiện giờ là thời kỳ giảm của chúng ta, vì chúng ta làm ác nhiều. Đối với
thập ác đa số đều thực hiện, vì đa số làm ác nên tuổi thọ càng ngày càng
giảm. Cứ một trăm năm giảm một tuổi, giảm cho đến mười tuổi là bao nhiêu
năm? Bây giờ chúng ta đang ở giai đoạn từ sáu mươi đến tám mươi tuổi thọ,
tạm nói là sáu mươi tuổi đi. Trăm năm giảm một tuổi, thì chừng nào đến
mười tuổi. Rồi từ mười tuổi tăng lên bốn mươi tám ngàn tuổi, thì còn bao
lâu nữa. Như vậy thời gian Ngài ra đời còn xa lắm. Tôi đã từng nói mỗi
đức Phật ra đời không làm việc trùng lập nhau. Cho đến bao giờ giáo lý
của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, danh từ Tam Bảo không còn biết tới nữa thì,
mới có một đức Phật khác ra đời là đức Phật Di-lặc. Hiện nay người ta
còn nhớ vanh vách danh từ Tam Bảo, còn thờ Phật đầy chùa, Tăng Ni còn đầy
đường, làm sao nói giáo lý Phật hết được? Các ngài đâu có làm việc trùng
lập với nhau. Đó là chúng tôi nói phóng ra về ý nghĩa ngày Xuân.
Tại sao chúng ta gọi đức Di-lặc là Long Hoa giáo chủ? Bởi vì đức Phật
Thích-ca gọi là Ta-bà giáo chủ, vị giáo chủ trong cõi Ta-bà này. Còn đức
Phật Di-lặc sẽ thành đạo dưới cội cây Long Hoa trong thời đó, cho nên gọi
là Long Hoa giáo chủ. Ngài là đức Phật sẽ thành trong tương lai, và tương
lai đó bao xa khó mà tính hết thời gian được. Nhưng chúng ta tin rằng
tương lai sẽ có đức Phật ra đời. Nếu đức Phật ra đời, đó là một diễm phúc
cho chúng sanh, là một cây đuốc sáng cho nhân loại. Vì vậy cho nên khi
nghĩ đến đức Phật ra đời là chúng ta cảm thấy cả một nguồn hạnh phúc an
lành.
Đối với tất cả chúng ta ngày mùng một Tết là ngày đầu của một năm, ngày mở
màn cho năm tới. Mà năm tới với người Phật tử thì tràn trề hứa hẹn. Hứa
hẹn cái gì? - Hứa hẹn mình sẽ thành Phật. Đó là hứa hẹn rất cao siêu rất
quí báu. Tất cả chúng ta hứa hẹn rằng ngày mai sẽ thành Phật chắc chắn như
vậy. Cho nên ngày mùng một Tết này là ngày vía đức Phật Di-lặc, cũng là
ngày hứa hẹn hạnh phúc cho chúng sanh. Hạnh phúc bằng cách giải thoát nạn
khổ đau, ra khỏi vòng luân hồi, chớ không phải hạnh phúc trong ngũ dục tầm
thường của nhân gian. Thế nên mỗi năm đến ngày mùng một Tết, toàn thể Tăng
Ni cùng chư Phật tử đến chùa lễ Phật gọi là ngày đầu năm, nhưng thật tình
là ngày vía đức Phật Di-lặc, ngày vía của vị Phật sẽ thành. Đức Phật
Di-lặc là hình ảnh ở bên ngoài mà cũng là sự hứa hẹn ở nội tâm chúng ta.
Chúng ta nhớ đến đức Phật sẽ thành ở ngày mai thì, chúng ta cũng nhớ luôn
mai kia chúng ta sẽ thành Phật. Vì vậy cho nên ngày mùng một Tết không chỉ
lạy đức Phật với lòng thành kính mà thôi, chúng ta còn mong rằng ngày mai
chúng ta cũng sẽ thành Phật như Ngài. Thế nên mọi người Phật tử chúng ta
cầu chúc cho nhau một mùa Xuân Di-lặc tức là một mùa Xuân hứa hẹn sẽ thành
Phật. Chính cho bản thân mình, chớ không phải chỉ có mùa Xuân của đức
Di-lặc ở bên ngoài. Đó là ý nghĩa thâm sâu của ngày vía đức Phật Di-lặc
vào ngày mùng một Tết. Tất cả chúng ta nhớ đến ngày vía đức Phật Di-lặc
tức là nhớ đến cái hy vọng tươi đẹp của ngày mai, chớ không phải chúng ta
chỉ nhớ đức Phật Di-lặc mà quên hẳn nơi mình. Đó là tôi nói ý nghĩa Long
Hoa giáo chủ đương lai hạ sanh.
Bây giờ chúng ta đi vào ý nghĩa hình tượng của Ngài. Chắc rằng chúng ta ai
cũng từng thấy hình tượng đức Di-lặc ở các ngôi chùa. Có khi người ta thờ
Ngài với vẻ mập mạp; cười toe toét. Có chỗ khác cũng thờ hình tượng như
vậy mà có sáu đứa nhỏ. Đứa thì chọc ngón tay vô rún, đứa thì móc lỗ mũi,
đứa thì móc miệng, đứa thì dùi lỗ tai v.v... mà Ngài cứ cười hề hề không
phiền, hoặc bị chướng ngại gì hết.
Tại sao như vậy? Hình ảnh đó nói lên cái gì? Đó là điều thiết yếu, chúng
ta nên chú tâm vào chỗ đó. Chắc rằng quí vị không quên khi học kinh Lăng
Nghiêm lúc mười phương chư Phật dị khẩu đồng âm tuyên bố cho ngài A-nan và
đại chúng nghe: “Khiến ông phải luân hồi sanh tử, chính là sáu căn của
ông, chớ không phải vật gì khác... khiến ông chóng chớng Vô thượng Bồ-đề,
cũng chính là sáu căn của ông, chớ không phải vật gì khác.” Như vậy cội
gốc sanh tử cũng là sáu căn của chúng ta: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của chúng ta. Như vậy con đường để
trở về giác ngộ hay là con đường sanh tử luân hồi có một hay là hai? Sanh
tử luân hồi cũng đi con đường đó mà Bồ-đề Niết-bàn cũng đi con đường đó,
nhưng mà có khác nhau. Một người thì đi theo chiều thuận của nó gọi là
thuận lưu, một người đi theo chiều nghịch, cũng trên con đường đó mà đi
ngược trở về gọi là nghịch lưu. Đi theo chiều thuận đó là sanh tử luân
hồi. Đi theo chiều nghịch đó là giải thoát sanh tử. Như vậy thì không có
hai đường. Ví dụ chúng ta về Sài Gòn, cũng đi trên đường Vũng Tàu - Sài
Gòn. Sài Gòn - Vũng Tàu cũng đi đường đó thôi. Nhưng nói về Sài Gòn là đi
trở về, nói đi Vũng Tàu là đi trở ngược ra. Chỉ khác một người đi trở ra,
một người đi trở vô thôi. Khác nhau ở chỗ đó. Đường thì một mà hai người
đi nghịch hoặc thuận chiều, kết quả sẽ có hai ngả khác nhau, và hai địa
điểm khác nhau. Cũng như vậy, nơi sáu căn của chúng ta nếu ta thuận chiều
với nó, đó là chúng ta đi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta đi ngược chiều
với nó là chúng ta trở về Niết-bàn, Bồ-đề, giải thoát v.v... Như vậy để
thấy rõ trên con đường tu, tuy nói nó rất nhiều, nhưng sự tu căn bản chỉ
đừng cho sáu căn chạy theo sáu trần bên ngoài. Nếu sáu căn đi theo sáu
trần gọi là thuận lưu, đi theo chiều luân hồi. Nếu sáu căn không chạy theo
sáu trần, không nhiễm, không dính, không mắc, đó là người trở về Bồ-đề
Niết-bàn không đâu xa lạ. Đức Phật Di-lặc là một vị Phật sẽ thành ở ngày
mai do Ngài tu cái gì? Chính cái hình ảnh là câu trả lời cụ thể nhất. Mỗi
đứa bé soi lỗ tai móc lỗ mũi của Ngài mà Ngài vẫn cười không tỏ vẻ bực
dọc, không tỏ vẻ chướng ngại buồn bã. Vì vậy Ngài sẽ thành Phật chắc chắn.
Còn chúng ta thì sao? Có ai móc lỗ tai thì thế nào? Nếu ai móc lỗ tai mình
thì không đánh cũng đá, không đập thì la. Phải vậy không? Móc lỗ mũi mình
cũng thế. Như vậy đối sáu căn của chúng ta, có ai động tới thì không chịu
nổi. Chỗ không chịu nổi đó làm chướng ngại chúng ta. Sáu đứa bé đó theo
danh từ chuyên môn gọi là lục tặc, tức là sáu đứa cướp. Nó phá phách.
Nhưng thật tình nó có phá mình hay không? Nếu bị móc lỗ tai mà mình không
cảm thấy khó chịu lại thấy đã ngứa thêm thì không bị chướng ngại. Hiện tại
chúng ta có thể nói gần như một trăm phần trăm đều bị chướng ngại bởi
những lời nói bên ngoài. Những lời chửi mắng dèm pha, nguyền rủa, tất cả
những cái đó tới lỗ tai mình, mà mình coi như gió thổi lá dương hay gió
thổi cành liễu bên ngoài thì, nó có gì là xấu xa hay không. Nếu mình thấy
đó là lời nói thù hằn, mỉa mai sâu độc, hiểm ác v.v... thì lúc đó mình làm
sao? Tùy tâm niệm mình mà bực bội tức tối, vì những lời nói như vậy. Mình
ghi nhận nó vào với những tâm niệm hận thù, đen tối thì, nó sẽ thành những
thứ thuốc độc làm cho tan hoang của báu nhà mình. Còn nếu mình nghe nó mà
mình chỉ dang ra một cách dễ dàng cho nó nương theo gió đi đâu thì đi,
đừng vướng mắc ở mình, tự nhiên mình an lành tự tại. Vì vậy cho nên, chúng
ta tu là phải tu ngay tại sáu căn của mình. Tai nghe những tiếng khen chê
hoặc là chửi bới hoặc là đề cao v.v... mình cũng xem thường, vì tiếng nói
không thật. Chính bản thân mình còn không thật, huống là tiếng nói bên
ngoài. Tâm không động đó là mình đã thắng đứa bé móc lỗ tai mình rồi. Con
mắt mình thấy có đẹp có xấu, thấy tất cả hình ảnh phía trước, dù hình ảnh
nào mình cũng dửng dưng không lay động không dính mắc. Như vậy bao nhiêu
hình ảnh dàn trải tràn trề trước mắt mình, mình cũng vẫn an lành tự tại.
Ngược lại mình thấy một hình ảnh, mình liền cho đó là đẹp đó là xấu. Rồi
cái đẹp mình sợ nó mất đi. Nếu nó xấu thì sanh tâm bực tức. Như vậy một
hình ảnh nào hiện tới với mình đều là hình ảnh của phiền não hết. Không có
hình ảnh nào gọi là an vui là tự tại, mà đều là chớa đầy tính chất phiền
não.
Sự
thật những hình ảnh đó có phải là phiền não hay không? Phiền não là tự ai?
Như vậy phiền não gốc tự nơi mình. Mình thấy nó mà mình không luyến nó,
không bê tha theo nó, mình không ghét bỏ nó, thì nó vẫn là nó. Có lỗi lầm
gì đâu? Lỗi lầm là chính lòng luyến ái của mình. Tại chính lòng sân hận
của mình chớ không phải hình ảnh có lỗi lầm. Khi mình chớa chấp sân hận,
chớa chấp luyến ái, thì đó là cái đã cướp mất của báu nhà mình rồi. Con
mắt đem những hình ảnh vào để cướp mất của báu nhà mình? Đó là cái chướng
của đứa bé móc mắt. Còn nếu ngược lại mình không mắc kẹt, hình ảnh là hình
ảnh, mình vẫn an nhiên thì, đứa bé ấy có làm gì thì làm, mình vẫn an ổn.
Lỗ mũi cũng thế. Lỗ mũi mình ngửi mùi hôi, mùi thơm, đừng mắc kẹt tất cả
những mùi thế tục. Coi như luồng khói vừa qua mũi rồi mất, không có gì
hết, không có gì là thật thì, có gì làm cho mình nhiễm. Ngược lại, tại
chúng ta si mê, cho nên mùi thơm đến thì thích, mùi hôi đến thì bực. Do đó
tự mình đem giặc vào cướp của báu nhà mình, rồi tự làm thành chướng ngại.
Nếu mình ngửi mùi hôi thơm vẫn coi như khói như gió hay là như tất cả các
mùi bên ngoài, không có gì thật hết. Tự nhiên trong lòng mình được tự tại.
Tôi có thể đơn cử vài ba cơ quan như mắt tai mũi lưỡi. Đó là bốn cái hằng
tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận tiện làm cho mình ưa, những hoàn cảnh
trái ngược làm cho mình giận. Tác dụng do bốn thứ này gây ra, phải diệt
cho hết. Như lưỡi chúng ta nếm những vị cay, đắng, mặn, ngọt. Tất cả cái
đó, cái nào nó hợp với lưỡi thì chúng ta thích, cái nào không hợp với lưỡi
thì chúng ta không thích. Vì vậy mà chúng ta khổ từ năm này sang năm khác.
Mỗi khi lên mâm cơm, thấy những món gì mình cảm nghĩ là hợp với lưỡi của
mình thì bữa đó mình vui, những món gì mình cảm nhận trái với lưỡi của
mình thì mình bực. Rồi vui và bực đó làm mình phải chướng. Do đó mà phải
chạy tìm kiếm, do đó mà phải sanh ra lời nói xấu ác làm cho những người
chung quanh không vui. Vì lẽ đó chúng ta tập bao giờ lưỡi mình đối với vị,
vị nào cũng không cần phải quí trọng nó. Cốt làm sao cho mình được an ổn
tu hành là quí. Còn tất cả cái ngon cái dở chẳng qua là tạm của cái lưỡi
mà thôi. Như vậy chúng ta thắng được các thứ đó, tức là đã thắng cái miệng
của chúng ta rồi.
Tuy nói sáu căn chớ thật tình có năm căn là tối quan trọng, tức là mắt tai
mũi lưỡi thân, năm cửa đón tiếp bên ngoài. Còn ý là cái phụ họa trong năm
căn ấy. Mỗi khi năm căn tiếp xúc với năm trần thì ý theo đó mà phụ họa để
thương ghét buồn giận. Vì vậy, ngay năm căn kia mà chúng ta đón nhận đúng
pháp thì cái căn thứ sáu (ý căn) không còn làm trở ngại nữa. Sở dĩ chúng
ta nói rằng sáu căn đó là lục tặc, sáu tướng cướp vì căn cứ trên phần ô
nhiễm của chúng ta. Khi sáu căn đó tiếp xúc với sáu trần thì chúng ta mắc
kẹt, chúng ta nhiễm theo nên gọi là sáu đứa cướp, bởi vì kho báu nhà mình
bị sáu chú đó cướp đi. Cướp bằng cách nào? Ví dụ lỗ tai mình nghe tiếng
rồi mình phân biệt tiếng khen tiếng chê, sanh buồn sanh mừng. Và như vậy
mình có bị mất chưa? Khi có buồn có mừng là bị mất của. Nó lén ăn cướp hồi
nào, nó mang ra đường nào? Giờ đây, chúng ta vui sướng lên khi nghe tiếng
khen, bực bội, giận trong lòng khi nghe tiếng chê, như vậy gọi là chúng ta
mất của. Của đó giặc mang đi và lấy hồi nào? Quí vị nhớ coi. Nói suông thì
khó mà biết dấu vết của giặc. Nếu không biết dấu vết của giặc, thì không
biết của mình để đâu luôn. Vậy cần biết của mình ở đâu và dấu vết giặc
mang đi đường nào, mới có thể giữ của được.
Quí vị nên nhớ khi lỗ tai nghe người khen người chê mà mình vui hoặc mình
bực tức, lúc đó gọi là mất của. Vậy thì bọn giặc nó lén vô hồi nào và kho
tàng của cải mình ở đâu? Nó lấy bằng cách nào và mang đi bằng đường nào?
Nhớ kỹ thử coi. Nó lấy bằng cách nào? Nó mang ra đường nào? Nó đem để đâu?
Đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng thôi. Chớ sự thật nó không mang đi đâu.
Nếu nó mang đi thì mình hết rồi, mai mốt mình có giữ thì cũng không còn
của đâu mà giữ. Nên nhớ như vậy đó. Nhưng chúng ta lại quen nghe thí dụ
rồi mắc kẹt trên thí dụ. Mình nghĩ khi có lấy tức là có mang đi. Nhưng
không ngờ nếu thật tình nó mang đi thì ngày mai ngày mốt đóng cửa sáu chú
bé đó lại thì, dù có giữ cũng là giữ cái kho không. Phải vậy không? Đâu
còn của cải gì, đã hết rồi. Vì vậy cho nên phải biết rõ ràng là tuy nói nó
cướp của mình, nhưng mà nó không cướp gì hết. Chỉ do tiếp xúc bên ngoài,
chấp nhận qua năm căn của mình rồi tâm mình xao xuyến hoặc buồn hoặc giận.
Đó là những đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ mình rồi. Những
đám mây đen nổi dậy che lấp mặt trời trí tuệ mình, đó gọi là đã cướp. Khi
nào mình nghe những tiếng khen chê mà trong lòng không xao động, những đám
mây đen không nổi dậy, mặt trời trí tuệ của chúng ta vẫn sáng rực không bị
mờ, không bị tối, như vậy là chúng ta giữ được tinh thần trí tuệ. Khi mà
chúng ta có trí tuệ tức là mình giàu, nếu mình lúc nào bị cướp thì lúc đó
là mất trí tuệ, cũng như lúc nào thấy trong tay không có tiền gọi là
nghèo. Khi nào có sẵn tiền mới gọi là giàu. Chúng ta cũng vậy, lúc nào trí
tuệ chúng ta hằng sáng tỏ, lúc đó gọi là chúng ta giàu. Còn nếu phút giây
nào đó trí tuệ bị mờ tối không còn phát hiện nữa gọi là mất của báu, ta
nghèo đi. Cái nghèo đó là cái nghèo tạm thời, phải vậy không? Nhưng cũng
có thể là nghèo vĩnh viễn. Tạm thời với ai và vĩnh viễn với ai? Nếu chúng
ta giờ phút này bị nó khuất nó che đi, chúng ta mất cái trí tuệ, nhưng rồi
chúng ta có dẹp tan những đám mây đó, để cho mặt trời trí tuệ sáng trở
lại. Người biết dẹp những đám mây đen cho mặt trời sáng trở lại gọi đó là
người nghèo tạm thời. Còn những người cứ nuôi dưỡng những đám mây đen đó,
hết đám này tới đám khác, cứ luôn luôn như thế thì, dù có mặt trời trí tuệ
mà cả đời họ vẫn sống trong đen tối. Như vậy đời này đen tối, đời sau đen
tối, và cứ tiếp nối như thế mãi thì, tự nhiên họ nghèo vĩnh viễn không bao
giờ hết nghèo. Vì vậy cho nên đối với người biết tu và không biết tu là ở
tại chỗ đó. Dù chúng ta cũng bị cướp của báu, chúng ta cũng bị mây đen che
lấp mặt trời trí tuệ, nhưng chúng ta tin rằng chỉ có che trong một phút
một giây, rồi chúng ta sáng lại. Chớ chúng ta không tối mãi như bao nhiêu
người bị tối đó.
Vì
vậy ý nghĩa Đương lai hạ sanh của đức Phật Di-lặc là một ý nghĩa hứa hẹn
nơi lòng của chúng ta, chúng ta sẽ sáng ra ở ngày mai hay là ở những phút
sau này, chớ không tối mãi. Cái hứa hẹn đó phải là cái hứa hẹn thật sự chớ
không phải hứa hẹn suông hứa hẹn rỗng. Có người cũng hứa hẹn, hứa hẹn bằng
miệng suông. Nghĩa là sao? Thấy họ cũng có hình thức người tu, đi chùa lễ
Phật, nhưng mà cứ chất chớa bao nhiêu phiền não ở trong tâm. Tai nghe
tiếng thì dồn vô, mũi ngửi mùi thì dồn vô. Cứ như vậy mà dồn hết những cái
nghịch vào trong lòng mình. Cả ngày cứ sống với cái xao xuyến lo buồn, lo
kiếm những món ngon, lo chứa những mùi thơm, lo chứa những mùi hôi, lo
chứa những hình tướng đẹp v.v... Như vậy những cái lo đó làm cho mất đi
mặt trời trí tuệ sáng ngời của họ rồi. Cho nên họ phải chịu khổ đen tối.
Còn chúng ta biết tu khi có cái gì làm chúng ta bị che khuất một phút, một
giây thì hối hận, ăn năn cố làm cho tan đám mây mờ đó. Và nguyện làm sao
đừng đem nó vô nữa, để cho mặt trời trí tuệ không bị che khuất lấp phút
giây nào hết. Như vậy đó cái hứa hẹn thật. Hứa hẹn thật đó là hứa hẹn của
người biết tu, chớ không phải hứa hẹn của người hứa suông, nói tu thành
Phật, nhưng tự họ không biết huân tập không biết sửa chữa.
Chúng tôi thấy rằng chính chỗ thiết yếu đó là cái chỗ mà đức Phật Di-lặc
được gọi là con người hạnh phúc của ngày mai, cũng là con người hạnh phúc
của hiện tại. Chúng ta thấy rằng con người hạnh phúc là con người mập mạp
vui tươi. Mình nhìn đức Phật Di-lặc lúc nào cũng mập mạp cũng vui tươi
cho nên người ta tượng trưng Ngài là con người hạnh phúc của ngày mai. Cái
mập mạp vui tươi đó là do cái gì? Nhờ trong lòng không có những đám mây
đen che lấp mặt trời trí tuệ, vì vậy mà sáu đứa kia dù có móc tai, móc mũi
v.v... mà Ngài vẫn thấy như không. Còn chúng ta bởi thấy cái đó là cái
chướng, cho nên trán chúng ta nhăn lại, mày cau mắt đỏ lên, mặt chúng ta
thì méo v.v... Cứ như vậy mà tạo ra bao nhiêu xấu xa. Nhìn vào gương thấy
gương mặt mình là gương mặt đau khổ. Cái khổ đó chính vì lòng mình không
cam chịu sáu đứa giặc nó phá phách. Nếu nó phá phách mà mình không để cho
nó làm chướng thì, cái phá đó không trở thành phá nữa, mà đó là cợt vui
với nhau. Còn nếu chúng ta thấy là phá thì lúc đó chúng ta tự nhiên sanh
ra bực dọc, sanh ra khó chịu. Vì vậy người tu không ai chẳng có sáu đứa
giặc, sáu đứa cướp đó. Người nào cũng sẵn như vậy, nhưng nó thành giặc hay
là bạn thân của mình là chính tại mình. Nếu khi nó cợt phá mình mà mình
biết cho nó là trò chơi ảo mộng không nghĩa lý gì thì, mình cho nó là một
cuộc đùa chơi. Còn nếu nó cợt phá mà mình cho nó là sự trêu ghẹo thật sự
thì mình bực tức lên. Đó là cái khổ đau của mình. Thế nên biết tu nơi sáu
căn rồi tự nhiên mình biết được an lành tự tại. Dù chưa thành Phật, hiện
đời ta cũng hạnh phúc tràn trề. Ngày nào tháng nào cũng đều là ngày tháng
vui tươi, năm nào cũng là năm đẹp đẽ. Vì vậy mà chúng ta hay chúc nhau một
mùa Xuân viên miễn.
Đó
là mùa Xuân Di-lặc, mùa Xuân mà trong lòng không phiền muộn lo âu nào. Như
vậy mới gọi là mùa Xuân hạnh phúc. Còn có lo âu, có phiền muộn thì chưa
phải là hạnh phúc. Cho nên nhớ đến đức Phật Di-lặc, nhớ đến sáu đứa bé móc
tai, móc mũi của Ngài, chúng ta nên hằng giờ hằng phút kiểm điểm lại mình,
thử xem giặc nó cướp của mình hay không. Nếu chúng ta ở mọi trường hợp, đi
đứng nằm ngồi, tiếp duyên đối cảnh, chúng ta đều sống đúng với tinh thần
của đức Phật Di-lặc là không để cho sáu đứa giặc cướp của mình. Được như
thế, tôi tin rằng dù quí vị tu không muốn được an vui, tự nhiên cũng được
an vui, quí vị không đòi thành Phật, tự nhiên rồi cũng thành Phật. Còn
chúng ta khao khát nguyện cầu thành Phật mà cứ nuôi dưỡng sáu đứa giặc đó,
nó luôn cướp của mình hằng ngày thì, dù cho cầu mấy đi nữa, cái quả Phật
cũng còn xa lơ xa lắc, đối với mình phải không?
Vì
vậy cái tu thiết yếu là chỗ biết trở về của mình. Mà trở về mình, chính là
đừng có để cho sáu căn dẫn giặc vô, gọi là nghịch lưu. Nghịch lưu tức là
trở về với tánh giác. Còn nếu luôn bị sáu căn dẫn giặc về cướp mất của
mình thì gọi đó là thuận lưu, tức là đi theo chiều sanh tử.
Do
đó, hôm nay nhân ngày vía đức Phật Di-lặc và cũng là ngày Tết Nguyên Đán
tôi cầu chúc cho tất cả quí vị tăng ni, cư sĩ nam nữ đều trở về nguồn giác
của mình. Nói gọn hơn là nguyện cầu cho tất cả quí vị kể từ ngày mùng một
Tết này cho đến trọn năm và cho đến suốt đời đều luôn luôn là “Bối trần
hiệp giác”.
Đó
là ý nghĩa trở về nguồn giác của chúng ta.
]
|