MỘT MÙA XUÂN HẠNH PHÚC
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, cũng là ngày vía đức Phật Di-lặc. Chúng ta
là hàng Phật tử xuất gia và tại gia không quên được ngày quan trọng này.
Đứng về mặt dân tộc ngày lễ Nguyên Đán là ngày tối quan trọng của dân
chúng. Đứng về Phật pháp, ngày vía đức Phật Di-lặc là ngày rất thiết yếu
với người xuất gia. Bởi vì bao nhiêu người tu hành chúng ta đều có một
nguyện vọng là tương lai phải đạt đến kết quả viên mãn giác ngộ. Đó là
quan niệm chung của toàn thể người xuất gia cũng như hy vọng của người tại
gia. Ngày vía đức Phật Di-lặc đúng là ngày mùng một Tết, tức là ngày bước
vào năm mới, ngày bắt đầu của năm sắp đến. Có thể nói thời gian tương lai
thời gian hy vọng của tất cả chúng ta. Hy vọng chúng ta là hy vọng gì? Hy
vọng chúng ta là hy vọng đạt đạo, kết quả viên mãn công phu tu hành của
mình. Nên nhớ đến ngày vía đức Phật Di-lặc, tức là nhớ đến cái gì hứa hẹn,
ở ngày mai của chúng ta. Ngày mai đối với chúng ta không phải là những
ngày nguyện suông, những cầu mong hão huyền, mà chính là chúng ta phải làm
thế nào cũng được thọ ký như đức Phật Di-lặc. Ngài sẽ giáng trần thành
Phật trong hội Long Hoa. Cho nên, tới ngày đầu năm, ở chùa cũng như hàng
Phật tử với nhau thường hay chúc Xuân bằng những lời chúc tụng: Chúc quí
thầy quí cô được hưởng một mùa XUÂN DI-LẶC. Chúc hưởng một mùa Xuân Di-lặc
là ý nghĩa gì? Hoặc giả, có những thiệp chúc Xuân ở nhà chùa chúc rằng:
Chúc cho quí vị được hưởng một mùa “Xuân bất diệt” hoặc chúc cho quí vị
hưởng được một mùa “Xuân miên viễn”. Lời chúc tụng đó là để nhắc nhở nhau
trong đầu năm. Hôm nay, lời chúc tụng đó được giải thích từng phần để nói
chuyện ngày đầu năm, cũng là ngày vía đức Phật Di-lặc.
Trước hết là chúc một mùa XUÂN DI-LẶC. Trong chùa này chúng ta không có
thờ tượng Ngài. Trong các chùa xưa chắc rằng hầu hết tăng ni cũng như Phật
tử đều có thấy tượng Ngài. Tượng này có nhiều hình ảnh lắm, nhưng cái hình
ảnh chúng ta dễ nhận nhất là cái miệng và gương mặt Ngài. Miệng Ngài cười,
gương mặt Ngài vui vẻ. Lúc nào nhìn lên tượng Ngài cũng thấy cười. Có bao
giờ thấy tượng Ngài buồn hay không? Đức Di-lặc là vui cười. Như vậy chúc
một mùa Xuân Di-lặc là chúc một mùa Xuân vui cười, một mùa Xuân hạnh phúc.
Mà hạnh phúc là gì? Là an vui. Mỗi gia đình hay một người nào, trọn ngày,
trọn tháng, trọn năm đều được an vui, gọi đó là gia đình hạnh phúc. Bất an
và không vui gọi đó là hạnh phúc được không?
Tôi nói mùa Xuân gần tức là mùa Xuân hạnh phúc. Như vậy ta chúc nhau được
mùa Xuân hạnh phúc đó là nghĩa gần dễ thấy. Nhưng làm sao được hạnh phúc,
tức là chúng ta phải được an vui. Mà làm sao được an? An và vui cái gì? An
là tâm không lo không buồn không sợ hãi. Nếu chúng ta muốn được an, thì
niệm vui buồn sợ hãi chúng ta phải dẹp qua một bên. Chúng ta không lo buồn
sợ hãi thì tự nhiên tâm chúng ta an. Làm sao được vui? Sở dĩ chúng ta
không vui là tại sao? Tại chúng ta giận hờn bực tức. Nếu trong gia đình có
ai làm mình giận hờn bực tức thì mặt chúng ta vui hay quạu? Cho nên khi
nào vui là không có giận, khi nào giận thì không có vui. Chúng ta sở dĩ
không được an vui là vì trong lòng chúng ta lo sợ buồn rầu nên không an.
Chúng ta bực tức giận hờn nên không vui. Chúng ta muốn được an vui chỉ có
cách là không lo buồn tự nhiên tâm an. Không giận hờn bực tức thì tâm
chúng ta vui. Muốn hưởng một mùa Xuân Di-lặc với tánh cách cạn gần là một
mùa Xuân hạnh phúc thì, chúng ta gạt ra ngoài cái buồn hờn, giận tự nhiên
chúng ta hưởng được một mùa Xuân Di-lặc. Nếu không thì, dù ngày nay là
ngày mùng một cũng không thấy Xuân chút nào hết. Đã lỡ lo sợ thì làm sao
cho hết đây? Bảo suông làm sao hết được. Đang giận hờn bực tức thì làm sao
bảo đừng cho được? Đó là cái tu của mình? Nếu nói suông tức là không có
tu.
Muốn hết lo rầu sợ hãi, trong nhà Phật có nói nhiều phương pháp. Ở đây chỉ
nói phương pháp gần để cho quí vị ứng dụng. Khi mà quí vị lo buồn sợ hãi
thì quí vị liền đặt câu hỏi: - Khi lo, lo cho cái gì? Rồi tự trả lời: Cái
gì lo? - Cái lăng xăng. Cái đó nhìn lại coi nó là cái gì? Sẽ thấy nó mất
tiêu, nó không có nữa. Như vậy cái lo là cái không thật. Lo cho cái gì, lo
cho mình, lo cho gia đình mình, lo cho cái gì chung quanh mình. Mình là
cái gì? Mình là cái thân tứ đại giả hợp v.v... Mình phân chia mình phân
tích xét nét rồi, cái lo nó mất tiêu, vì nó không thật, thì còn cái gì nữa
để mà lo. Cái buồn cái sợ hãi cũng vậy. Phần nhiều chúng ta gặp cảnh đâm
ra sợ. Cứ tưởng tượng rồi sợ. Không tìm coi cái sợ là cái gì? Tại sao mình
sợ?
Thí dụ: Khi gặp con rắn mình run lên. Như vậy mình sợ rắn. Thử hỏi cái gì
sợ đó? Khi đặt câu hỏi thì mình hơi tỉnh lại bớt sợ. Vì cái gì mà sợ. Sợ
nó cắn mình. Xét cái mình này thật hay không? Xét một hồi rồi quên mất cái
mình cũng không thật nữa. Cho nên các Tổ hồi xưa, cảnh hãi hùng trước mặt
mà các Ngài không sợ là vì các Ngài biết cái tâm sợ nó không thật và cái
chủ đích để mà sợ cũng không thật luôn. Hai cái đều không thật nên các
Ngài không sợ.
Đức Phật, khi ngồi dưới cội bồ-đề, có con rồng chín đầu đến, nó đưa cái
đầu trước mặt đức Phật phun lửa, phì phì. Giả sử như mình thì sao? Tức là
mình kinh hoàng sợ hãi. Khi kinh hoàng sợ hãi, thì tâm đâu bình tĩnh sáng
suốt để mà giác ngộ. Sở dĩ đức Phật Ngài điềm nhiên, Ngài không sợ, vì
Ngài đã thấy rõ cái sợ là không thật và cái chủ đích của sợ nó cũng không
thật luôn. Như vậy ngay cái làm mình sợ cũng không thật. Con rồng hay con
rắn cũng là không thật. Cho nên khi chúng ta gặp cảnh kinh hoàng hoảng sợ,
dùng trí tuệ phân tích một lát thì hết sợ hết lo. Nếu mình không dùng để
quán xét, cứ theo tình cảm lo cho ngày mai. Cái lo sẽ tăng mãi rồi mất ăn,
mất ngủ, sanh bệnh hoạn. Rốt cuộc rồi đâu không tới đâu cả.
Như vậy chính vì không dùng trí tuệ quán xét cho nên đau khổ dài dài. Giờ
đây nếu gặp cảnh phải lo phải buồn phải sợ, chịu khó xét lại những phương
tiện chỉ dạy trong kinh, nào là kinh Bát Đại Nhân Giác, kinh Bát-nhã. Cứ
lấy đó mà ứng dụng. Hỏi một hồi thì nó hết lo hết sợ. Đó là nói đến cái lo
rầu sợ hãi để tâm mình an. Muốn tâm mình an phải nhìn lại nó. Nó là cái
đang lăng xăng lộn xộn đó. Nó ở đâu? Nó là cái gì? Nhìn nó mãi tự nhiên nó
tan hoang không còn nữa. Tức khắc mình thấy an ổn. Còn không nhìn lại nó,
nó lồng lộn lên kế mình hoảng hốt, đó là cái gốc mình nuôi dưỡng vọng
tưởng. Nếu mình tìm lại nó thì nó mất đi, vọng tưởng hết, lo sợ theo đó
đâu còn. Đó là phương pháp thiết yếu. Tôi nghĩ rằng chỉ có người biết ứng
dụng thì mới thấy kết quả tốt.
Đến bực tức giận hờn làm sao cho hết? Bực tức giận hờn đố kỵ làm người ta
không vui. Bao giờ dấy lên niệm tật đố, giận hờn, thì không sao vui được
hết. Hạnh đức Di-lặc là hỷ xả nên Ngài cười hoài. Cái gì tới Ngài cười,
Ngài buông hết, không bận trong lòng. Cũng như chúng ta học uống “thuốc
xổ”. Cứ mỗi ba tháng xổ luôn thì bụng sẽ sạch trơn. Biết buông xả thì lòng
mới không bực bội. Ở đời có ai làm vừa ý mình hết đâu. Một trăm người thì
tám chục người làm cho mình không vui rồi. Chừng hai mươi người mình hơi
chịu một chút, chớ chưa chắc mình chịu hoàn toàn. Chỉ có một người có lẽ
mình chịu hoàn toàn. Đó là ai? Là mình. Có nhiều khi muốn rầy nó nữa chứ.
Phải vậy không? Ở thế gian này có lúc nào mình vui hoàn toàn đâu? Nếu mình
cứ ôm ấp, người này làm mình bực, người kia làm mình bực, cứ dồn vô chứa
cả một kho “sân” kho “lửa”, động đến là nó cháy. Chúng ta để ý, người nào
đang bực mình, mà mình hỏi họ một câu, dù là câu không quan trọng, không
đụng chạm gì hết, mới mở miệng hỏi là họ muốn cãi với mình rồi. Họ muốn cự
với mình, vì lửa sân có sẵn bên trong rồi. Động một cái là muốn nháng lên.
Cho nên chúng ta phải biết rõ chủ yếu của bất an, không vui là tại tâm
niệm ta chứa chấp cả một kho nào là tật đố, giận hờn, sân hận. Gặp ai cũng
cảm thấy hơi tức tối, bực bội. Muốn an vui chúng ta phải ứng dụng bằng hai
cách:
1.
Tùy hỷ để bớt tâm tật đố.
Muốn tùy hỷ phải làm sao? Thí dụ: Có những người thân thích mình mến nhất,
nghe người đó phát tài mình vui lây. Trái lại có người mình ghét nhất,
nghe họ phát tài mình làm sao? Thì bực liền. Tại sao mình bực, chuyện gì
họ làm thì họ làm, tại sao mình bực? Đó là người mình không ưa mà họ được
hơn mình là sanh tâm đố kỵ. Đó là ghét, là tật đố. Giả sử người mình ưa đi
nữa, người bạn thân của mình, mình làm nghề đó, bạn mình cũng làm nghề đó,
mà cấp trên cứ khen bạn mình hoài mình có vui hay không? Dù người đó là
bạn thân của mình, mà mình có vui hay không? Hồi nãy người thù của mình
được khen chắc là mình không vui rồi. Còn người này là người thân của
mình, họ được khen tốt mà mình cũng không vui nữa. Như vậy chỉ có người
nào được khen tốt là mình vui? - Chỉ có mình được khen tốt cái gì thì mình
vui. Chớ những người chung quanh khi họ ở xa xa được ít ít mình cũng còn
vui, chớ họ được nhiều quá đụng tới quyền lợi của mình thì lúc đó mình
cũng không còn vui nữa. Nhìn cho thật kỹ thì quí vị thấy khó mà tìm được
cái vui. Bởi vì, cái gì mình cũng muốn hơn thiên hạ hết. Cho nên khi thấy
có người nào được khen, tán thưởng thì mình buồn rồi. Như vậy lòng buồn
hận nó xảy ra luôn luôn. Đó là điều khó tránh được. Gần như hầu hết một
trăm phần trăm mang cái bệnh đó. Có người nào cùng bạn đồng học một nghề
gì mà người ta khen bạn mình nức nở, còn mình bị chê đè mà mình vui được.
Có ai được như vậy không? Khó có quá. Như vậy mà đức Phật dạy muốn được
vui thì phải phát tâm tùy hỷ. Tùy hỷ là vui theo người, coi người được như
mình được. Người ta phát tài coi như mình phát tài. Người ta được khen coi
như mình được khen. Cái vui của họ xem như chính cái vui của mình. Lúc đó
mình mới hết cái tâm tức tối bực bội.
Thí dụ, người bạn thân được cấp trên khen, còn mình bị chê. Người đó được
thưởng được phát tài. Mình là bạn thân, có được ảnh hưởng không? Người đó
được hưởng mười cục kẹo, ít ra mình cũng được một cục chứ, phải vậy không?
Tại sao mình không vui? Vì lát nữa mình cũng được một cục kẹo. Tại sao
mình giận họ làm chi để họ ghét, lát nữa họ không cho mình cục nào hết.
Nghĩ hai cái, cái nào lợi. Cái mình vui với họ là lợi hay là thấy họ được
khen thưởng mình giận là lợi. Sở dĩ người ta chê mình là tự mình dở. Còn
người ta khen người đó là tại họ hay. Họ hay người ta khen, mình vui dùm
họ. Nếu mình nói với họ: Thật huynh hay quá tôi mừng dùm huynh đó. Huynh
được khen như tôi được khen. Chắc chắn người đó chia mình ít nhất cũng ba
bốn cục. Như vậy người đó sẽ vui không thấy bực bội đố kỵ chi hết. Còn
mình thấy người đó được khen mà mình hầm hầm lên. Một lát nữa giả sử có
chia nhau, thấy mình tức quá muốn hết chia. Đó là cái nhỏ tí thôi mà quí
vị thấy là chuyện thường xảy ra.
Như ở thế gian thì luôn luôn chịu đố kỵ hơn là chịu tùy hỷ. Thấy người ta
hơn mình là mình tức không bao giờ chịu chấp nhận, không bao giờ vui, vui
với cái vui của người ta. Cho nên trong kinh đức Phật nói: Người nào phát
tâm tùy hỷ thì công đức vô lượng vô biên. Người làm việc tốt được bao
nhiêu công đức, mình tùy hỷ công đức cũng bằng với họ không thua chút nào
hết. Người làm được việc tốt là họ đã có lòng tốt, mình tùy hỷ là phá tâm
tật đố thì mình cũng tốt luôn. Hai người công đức cũng như nhau. Cũng như
cây đuốc này mồi qua cây đuốc kia. Hai cây đều sáng mà không cây nào mất
ánh sáng hết. Chúng ta tùy hỷ cũng vậy. Ai được cái gì tốt mình phát tâm
vui mừng: Huynh được cái đó tốt quá, huynh sung sướng phát tài, tôi mừng
tôi sung sướng như tôi phát tài vậy. Như vậy chắc chắn đời mình không
nghèo. Ai sung sướng mình cũng mừng như mình được thì, thế nào họ cũng
không bỏ mình. Khổ là, người ta được mình lại ghét, cho nên mình kiếm
chuyện châm biếm, móc nghéo làm cho họ tức, do đó ai cũng muốn đập mình
hết. Vì vậy mình khổ suốt đời. Quí vị thấy cái mầm an vui nó phát từ cái
biết tùy hỷ, tức là biết nhìn thấy và nhận cái vui của người làm cái vui
của mình. Còn thấy người ta vui mình sanh tâm bực tức thì chắc cả ngày mặt
mình nhăn hoài, không thể nào tươi được hết. Vì thiên hạ thiếu gì người
được, mà ai được cũng bực tức thì mình sẽ thấy đau khổ cả ngày. Cho nên
Phật dạy: Phải phát tâm tùy hỷ, vui theo cái vui của những người chung
quanh chúng ta. Người đó dù thân hay sơ, họ được vui mình cũng vui theo
hết. Bởi vì chúng ta đã thấy trong kinh đức Phật nói: Chư Bồ-tát thấy một
chúng sanh đau khổ, coi như mình đau khổ. Thấy một chúng sanh an vui coi
như mình an vui. Chúng ta chưa bằng Bồ-tát ít ra cũng tập cái hạnh đó.
Được cái hạnh đó rồi thì chúng ta thấy tự mình mang hạnh phúc đến cho
mình. Nếu không tập hạnh đó, ngược lại, mình còn nuôi dưỡng tật đố bực bội
sân hận thì mình khổ hoài. Mình tự chuốc khổ mà chuốc khổ đời đời, chớ
không phải một ngày một tháng một năm. Yếu tố tu hành nằm trong đó.
Quí vị thấy, lối tu tập đó không tốn công bao nhiêu mà được vui hết cả
làng. Còn mình bực thì họ thấy mặt mình họ đã tức rồi, và thầm nghĩ người
đó tại sao xấu vậy, thấy người được thì ganh ghét. Đó là tự mình chuốc
thêm tai họa có ích lợi gì đâu. Cho nên, là người tu, chúng ta cần gột bỏ
hết những cái gây đau khổ để đem lại an lành vui vẻ cho mình. Đó là điều
thiết yếu. Phải buông hết, đừng cố chấp thì lòng người mới nhẹ, tức là
không sân không hờn và phải tùy hỷ khi thấy cái gì vui. Được như vậy thì
chúng ta mới là con người vui cười luôn luôn. Nếu chúng ta không làm như
vậy thì tự nhiên chúng ta phải đau khổ hoài. Nói tùy hỷ là chúng ta phá
được tâm tật đố.
2.
Làm sao phá được tâm sân hận?
Sân hận là cái tâm bệnh hoạn nhất. Động tới là nổi quạu lên la om sòm, tay
chân muốn lay động. Đó là chuốc họa không nhỏ. Đây tôi dẫn một Thiền sư,
Thiền sư Đạo Thông đời nhà Tống. Hôm đó tướng công Vu Địch tới hỏi đạo. Vu
Công thường tụng kinh Phổ Môn nên ông hỏi rằng: Thế nào là gió đen thổi
thuyền trôi vào nước quỉ La-sát? (Như hà thị hắc phong suy kỳ thuyền
phưởng phiêu đọa La-sát quỉ quốc?) Thiền sư trả lời: Kẻ khách Vu Địch hỏi
việc ấy làm gì? Vu Địch liền đổi sắc. Ngài bèn nói: Cái đó là gió đen thổi
thuyền trôi vào nước quỉ La-sát. Vu Địch liền hết nổi nóng. Chỗ đó thật là
tối quan trọng. Mình đọc trong kinh nghe Phật nói dài dài, mình không biết
cái gì. Giả sử gặp luồng gió đen (mây khói đen) chiếc thuyền bị trôi vào
trong nước quỉ La-sát. Lúc đó ở trong thuyền có người niệm Nam-mô Quán Thế
Âm Bồ-tát thì bọn quỉ không dám lại gần mình. Những người đọc câu chuyện
đó thì thấy linh nghiệm vô cùng. Mình nghĩ có tai họa khi nào đi biển đi
sông mà gặp gió to sóng lớn thì cứ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là qua hết.
Quỉ mà không dám ngó đến mình huống nữa là cái gì. Nếu hiểu như vậy thì
rất tội nghiệp cho kinh điển Đại thừa.
Hắc phong ở đây Thiền sư chỉ không phải là gió lớn ở bên ngoài. Hắc phong
tức là gì? Tức là luồng gió đen tự trong lòng mình dấy lên, nó thổi chiếc
thuyền người tới cõi nước quỉ liền. Nghe một lời nói trái tai, nổi giận
lên tức là miệng phải nói lời ác, tay chân mình phải làm việc ác thì nó
đưa mình tới đâu? Đưa vào cõi La-sát phải ở tù phải khổ. Như vậy hắc phong
là từ chỗ đó. Cho nên chúng ta nghe những lời nói ác những lời trái tai,
vừa có cơn giận dấy lên thì biết đó là hắc phong thổi. Phải dừng nó lại
thì nhất định nó không trôi lăn đến nước quỉ, mà quỉ cũng không dám hại.
Nếu lỡ nó thổi trôi đến nước quỉ, thì phải nhớ niệm Quán Thế Âm quỉ không
dám ngó đến mình. Vậy thì niệm Quán Thế Âm bằng cách nào? Sở dĩ chúng ta
giận vì do mắt thấy tai nghe, mà phần lớn là tai nghe những lời trái nên
mới giận. Khi tai nghe những lời trái nổi giận lên đó thì miệng tay muốn
làm dữ rồi, mình nhớ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát tức là nhĩ căn viên thông,
nhớ lại tánh nghe của mình. Bao nhiêu lời trái tai đều tan hết. Cơn giận
cũng chìm luôn. Nó đâu còn cái gì đưa đến nước quỉ, La-sát đâu dám ngó tới
mình. Chớ mình nghe người ta nói trái tai, chụp đó mà nổi giận tức là hắc
phong nó thổi. Nếu nó thổi, đánh đập, chửi bới một hồi thì bị mời vô khám.
Như vậy không phải là bị đưa tới nước quỉ La-sát nó hành hạ là gì? Rõ ràng
như vậy. Nên biết, mình nhớ niệm Quán Thế Âm, thì tức nhiên quỉ không dám
ngó đến mình. Giả sử gió lớn có nổi lên như trong kinh thường nói “Bất phạ
sân tâm khởi, duy khủng tự giác trì”. Nghĩa là chẳng sợ cái tâm sân nổi
lên, chỉ sợ mình giác chậm thôi. Bây giờ lỡ hắc phong thổi lên nó thổi
mình, lúc đó niệm Quán Thế Âm tức là mình giác. Nhìn lại tánh nghe thì đâu
còn theo tiếng nữa. Đó là giác. Mình giác thì cái nổi giận hồi nãy liền
mất.
Như vậy, trước hết mình ráng đề phòng gió dữ. Lỡ bị gió dữ rồi thì phải
nhớ niệm Quán Thế Âm. Đó là ý nghĩa thâm trầm trong kinh. Nhiều khi chúng
ta chờ tai nạn xảy ra mới niệm, mà không nhớ niệm hằng ngày như vậy. Chúng
ta tu mà muốn hết sân, hết hận, chúng ta phải nhớ như vậy. Chúng ta hằng
ngày, hằng đêm biết dừng bao nhiêu cái làm trái tai gai mắt, khi những
trận giông đen dấy lên, ta biết đó là gì rồi. Nó thổi chúng ta thì chúng
ta liền niệm Quán Thế Âm. Đó là chúng ta tỉnh giác. Tỉnh giác kịp rồi thì
tai nạn không đến với chúng ta. Còn không tỉnh giác kịp cứ để vậy mà chịu
thì thế nào rồi cũng bị quỉ nó xé thây. Chắc chắn như vậy không nghi.
Đường lối rõ ràng như thế. Cho nên muốn được vui, luôn luôn không có buồn
bực tức tối thì chúng ta phải nhớ dừng lại cơn gió dữ đừng cho nó động. Lỡ
động phải giác ngộ cho sớm. Được như vậy thì chắc chắn mình không có tai
họa, không bị khổ đau.
Đó
là ý nghĩa một mùa Xuân hạnh phúc. Năm nay chúng ta bắt đầu qua năm thứ
ba, tôi chúc quí vị một điều gần nhất là hưởng một mùa Xuân hạnh phúc. Như
thế mới là ý nghĩa của mùa Xuân Di-lặc cạn thôi.
Đến ý nghĩa mùa Xuân Di-lặc sâu hơn, tức là một mùa Xuân bất diệt, một mùa
XUÂN MIÊN VIỄN. Nói đến đức Di-lặc là nói đến đức Phật sẽ thành. Trong
kinh Phật thường nói: Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành. Như
vậy đức Phật Thích-ca xác nhận rằng Ngài là Phật đã thành còn tất cả chúng
ta là Phật sẽ thành. Sẽ thành là việc tương lai cũng như đức Phật Di-lặc
vậy.
Ông Phật sẽ thành là ông Phật nào? Ở đâu? Ông ở chính nơi chúng ta nhưng
vì chúng ta bỏ quên ông. Mình có hòn ngọc mà không nhận, cứ lo hỏi ngọc
của đức Di-lặc hay đức Địa Tạng cầm trong tay mà không nhớ mình có hòn
ngọc. Có mà không chịu nhận là dối gạt thiên hạ. Cho nên chúng ta nên biết
rằng tự mình cũng có ông Phật như chư Phật vậy.
Vì
mình còn quá lầm mê, không tự tỉnh tự giác được rồi bỏ quên ông Phật của
chính mình. Vì vậy phải lăn lộn trong sanh tử. Mà đã lăn lộn trong sanh tử
thì đó là khổ đau vì sanh tử là cái mầm của biến chuyển của sanh diệt.
Biến chuyển sanh diệt, là vô thường gốc của khổ. Vì vậy đức Phật nói:
“Luân hồi là khổ đau.” Còn ở trong luân hồi tức là còn ở trong sanh diệt
là đau khổ. Nếu muốn ra khỏi vòng sanh diệt thì phải thoát khỏi luân hồi.
Thoát khỏi luân hồi mới là miên viễn, gọi là bất diệt được. Đó mới là cái
an vui cứu cánh của con người. Vì chúng ta đang sống trong cảnh vô thường
sanh diệt cho nên nó luôn luôn bức bách thúc đẩy ép ngặt chúng ta tới đau
khổ. Bây giờ chúng ta thoát khỏi cái vô thường bức bách đó thì tự nhiên
chúng ta an vui. Vô thường bức bách đó là sanh tử luân hồi. Ra khỏi vô
thường bức bách đó là giải thoát. Cho nên nói mùa Xuân Di-lặc mà được bất
diệt miên viễn đó, là chỉ cho mùa Xuân do tự chúng ta thoát khỏi cảnh vô
thường bức bách sanh diệt.
Nói một cách khác là thoát khỏi luân hồi sanh tử, sống với cái vô sanh an
lạc. Bởi vì vô sanh nên đâu bị cái gì làm cho động, vì vậy là an. Bởi vô
sanh nên không có khi buồn khi vui mà hằng tỉnh táo an ổn, gọi đó là cái
vui chân thật. Như vậy khi nói tới mùa Xuân Di-lặc tức là nói đến mùa Xuân
bất diệt, mùa Xuân của bản tâm thanh tịnh ở mỗi người. Chúng ta không còn
bị lôi cuốn trong sanh diệt nữa. Như vậy mới là sống được mùa Xuân miên
viễn. Chính cái chỗ này là chỗ khao khát, chỗ ước mơ của người tu chúng
ta. Chỗ này chúng ta dùng chữ mùa Xuân, nơi khác trong kinh gọi là
Niết-bàn, tức là an lạc tịch tĩnh. Như đã nói mùa Xuân là cái gì ấm áp
tươi đẹp an ổn, cho nên mùa Xuân ấy cũng tượng trưng là Niết-bàn tức là
hằng sống trong cảnh an lạc vui vẻ luôn luôn. Còn hiện tại mùa Xuân của
chúng ta chỉ là một mùa Xuân của ba tháng. Trong đó những ngày qua là mất,
mất rồi lâu lâu nó đáo lại một lần. Đó là mùa Xuân của sanh diệt.
Giờ đây làm sao hưởng được một mùa Xuân không còn sanh diệt nữa. Đó là mùa
Xuân cứu kính mà người tu mong ước. Được cái Xuân đó mới thật là cái Xuân
của chính mình mong muốn. Nãy giờ là nói sự chúc tụng trong mơ ước thôi.
Bây giờ làm sao hưởng mùa Xuân bất diệt đó? Muốn hưởng mùa Xuân bất diệt
đó chúng ta phải có tâm bất diệt. Có tâm bất diệt thì mới hưởng mùa Xuân
bất diệt. Còn mang tâm sanh diệt thì không bao giờ hưởng được mùa Xuân bất
diệt. Vì vậy trong kinh Kim Cang đức Phật dạy: “Chúng ta phải nhìn lại tâm
quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc.” Ba
cái tâm đó: “Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm
vị lai không thể được”. Tâm chạy theo quá khứ, hiện tại, vị lai đó là tâm
gì? - Là tâm sanh diệt. Đức Phật nói tâm đó không thể được vì nó không
thật. Chúng ta hằng sống với cái tâm nào? Chúng ta đang sống với tâm quá
khứ hiện tại vị lai. Tại sao tâm quá khứ không thể được? Chúng ta trước
giờ nằm ngủ, vừa nằm xuống gác tay lên trán thì làm sao? Nhớ chuyện năm
ngoái năm xưa, tháng rồi tháng trước đã làm cái gì? Một hồi con mắt muốn
nóng lên nhắm mắt không ngủ được. Nói tại sao tôi mất ngủ. Tại làm sao
vậy? Cái gì thuộc về quá khứ chúng ta có ưng cởi bỏ hết hay không?
Tôi thấy có nhiều cuốn nhật ký đầy ăm ắp, bút tích kỷ niệm nữa. Như vậy bỏ
hay là không bỏ? Nếu bỏ thì đừng ghi, nếu ghi thì đâu chịu bỏ. Vì sợ ký ức
nhớ không hết nên phải ghi thêm ngoài nhật ký để mai mốt có quên lật lại.
Như vậy đâu có ưng bỏ cái gì đâu? Cái đó thuộc về quá khứ, mà quá khứ có
tìm lại được hay không. Tất cả qua rồi tìm lại đâu có được. Mình cứ nghĩ
lui về quá khứ. Càng nghĩ lại càng rối cho mình thôi. Nó đâu có thật mà
nghĩ. Thành ra hết một phần ba đời người chúng ta sống về quá khứ. Những
cái gì oai hùng của thuở xưa cũ nhớ mãi không thôi.
Còn mấy chú trẻ thì sao? Sống với vị lai. Nghĩ bây giờ mình nhỏ quá, không
làm gì đáng kể rồi, nghĩ vị lai sẽ là ông thần ông thánh gì đó đủ thứ. Vì
vậy cả ngày ngồi lại nói tôi sẽ như thế này như thế kia. Cũng mất hết phần
ba cuộc đời sống về vị lai.
Rồi một phần ba cuộc đời về sống về hiện tại. Hiện tại đây nói tạm mà
không hiện tại gì hết. Nghĩa là hiện tại với niệm suy nghĩ tính toán đây
là khen mình, đây là chê mình, việc này là phải việc kia là quấy. Cứ lo
bao nhiêu đó, suy nghĩ hoài như vậy, hiện tại mà không có hiện tại. Niệm
này hết thì niệm kia nó sanh. Cứ như vậy mà liên miên sanh diệt thì hiện
tại đâu có. Vì vậy nghĩ đến quá khứ thì quá khứ không thể được. Tâm mình
cứ nhớ lui về quá khứ, mà quá khứ là chuyện đã qua rồi, nghĩ lui lại cái
không có, cái nghĩ đó cũng là không. Cho nên cái quá khứ không thể được.
Rồi hiện tại nghĩ cái này tới cái khác, trong một ngày nghĩ không biết bao
nhiêu thứ. Như vậy cũng không được luôn. Vì đó là cảnh sanh diệt. Vị lai
chưa đến cứ phóng đại cái này cái nọ. Ngồi đó mà tưởng tượng đủ thứ. Cái
chưa đến mà tưởng cũng là không tưởng, nên không được luôn. Như vậy quá
khứ hiện tại vị lai, ba thời đều không được cả. Vậy mình sống với cái gì?
Hiện tại mình đang sống ba thời của tâm như chúng ta đã thấy ba thời đó
đều không thể được. Nếu mình sống với ba cái đó là mình sống với cái hão
huyền. Vậy mà người tu cho là thực tế. Nhớ chuyện đã qua cho là thực tế.
Tưởng tượng cái gì chưa đến gọi là thực tế. Mà cái thực tế nhất lại không
thấy. Thấy toàn cái sanh diệt viển vông thôi.
Quí vị thử kiểm lại một ngày xem quí vị sống với quá khứ hiện tại vị lai
là bao nhiêu? Quí vị có bỏ tâm của ba thời đó hay không? Nếu cả ngày mà
sống với tâm chạy theo ba thời đó thì chúng ta đã mất tâm rồi. Gọi là tâm
mà thật sự tâm đã mất. Sống với cái tâm sanh diệt thì tâm đâu có thật. Như
vậy sống với tâm không thật mà tưởng là thật rồi un đúc tưởng tượng v.v...
có phải là chúng ta đang sống trong cái ảo huyền mà lầm cho mình là thật.
Như vậy hằng ngày nói sống cho mình, thật đã mất mình. Thật là đáng thương
chúng ta sống với ba cái tâm chết. Còn hiện tại thì theo cái sanh diệt
không dừng cũng là cái không có luôn. Ba cái không có đó mà ráp lại thành
cái có để sống. Như vậy tuy nói sống dường như không sống gì hết. Vậy mà
mình hãnh diện xưng là mình đang sống.
Như vậy phải làm sao? Sống trong quá khứ, trong hiện tại, trong vị lai,
trong cái sanh diệt đó thì tâm mình có an hay không? Mình có hưởng được
một mùa Xuân miên viễn bất diệt hay không? Vì muốn hưởng một mùa Xuân miên
viễn bất diệt thì nơi tâm mình cũng phải bất diệt. Mà muốn bất diệt thì
phải bất sanh, tức không chạy theo cái sanh diệt. Không chạy theo sanh
diệt thì tâm mình lặng lẽ thanh tịnh. Như vậy mới sống được một mùa Xuân
bất diệt. Một Thiền sư Việt Nam diễn tả điều đó qua vài câu thơ nói rõ như
ban ngày. Đó là Thiền Lão Thiền sư khi vua Lý Nhân Tông vào núi gặp Ngài,
mới hỏi: Hòa thượng bao nhiêu tuổi? Ngài đáp:
Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu
Nghĩa là: Chỉ có biết ngày nay thôi, còn bao nhiêu năm trước ai đâu nhớ.
Như vậy Ngài đâu có sống với tâm quá khứ, Ngài chỉ biết có ngày nay. Sống
với ngày nay đó là sống với tâm lặng lẽ của hiện nay. Vua Lý Nhân Tông hỏi
tiếp: Hòa thượng ở đây làm gì? Ngài trả lời:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân
Nghĩa là: Thấy trúc biếc thấy hoa vàng đều là cảnh chân thật, đều là mùa
Xuân hết. Thấy trăng trong thấy mây bạc, cũng đều hiện cái chân thể hoàn
toàn. Như vậy cái gì hiện ra trước mắt Ngài đều là một mùa Xuân miên viễn.
Sống như vậy mới thật là sống. Còn mình bây giờ sống mà không thật sống.
Khi nào hiện tại không chạy theo cái suy tính phân biệt, chỉ sống với tâm
thanh tịnh thản nhiên của hiện tại thì mới gọi là sống với ngày nay. Biết
ngày nay là biết như vậy. Với tâm thanh thản lặng lẽ, nhìn tất cả cái gì
hiện có trước mắt đây đều là một màu chân thật, như như, không có cái gì
là sanh diệt hết. Đó mới gọi là mùa Xuân miên viễn, mùa Xuân bất diệt. Mùa
Xuân mà nhìn đâu cũng nên thơ hết, chớ không thấy cái lò lửa cái địa ngục,
cái than trách như mình bây giờ. Nhìn đâu cũng thấy nên thơ. Thấy hoa cúc,
thấy trăng, thấy mây, thấy cái gì cũng là nên thơ. Thấy cái gì cũng đều là
Xuân rạng rỡ, không thấy cái gì là đen tối xấu xa hết. Muốn sống với cái
đó thì trước hết tâm mình phải Xuân miên viễn thì ngoại cảnh mới theo đó
mà Xuân. Chớ tâm mình là cái tâm sanh diệt đau khổ, ngoài muốn có Xuân thì
cũng gượng gạo Xuân mà thôi. Đem cái hoa mai hoa cúc chưng rồi cũng héo,
cũng phải vứt đi. Nó không còn Xuân hoài. Chỉ có cái tâm thanh tịnh nhẹ
nhàng thư thới đó, nhìn cái gì cũng là Xuân hết. Cho nên các Thiền sư nhìn
đâu cũng thấy một mùa Xuân tràn trề, không cần đi tìm kiếm, không cần chờ
đến tháng giêng mới có một mùa Xuân. Đó là mùa Xuân Miên Viễn.
Như vậy chúng ta tu hành cốt làm sao hưởng được một Xuân như thế. Đó là
một mùa Xuân cứu kính. Ráng hưởng mùa Xuân thú vị nhất, đẹp đẽ nhất mà
người xưa đã hưởng. Đức Di-lặc đã hưởng mùa Xuân đó rồi, cho nên Ngài cười
hoài. Mặt chúng ta nhăn năm, bảy nếp nhăn là vì chúng ta chưa hưởng được
mùa Xuân đó. Cho nên trán chúng ta thì nhăn, mặt thì méo, mắt thì đỏ. Đó
là cái đau khổ hiện ra ở mặt chúng ta. Chính vì chúng ta không hưởng được
mùa Xuân như vậy.
Để
kết thúc mùa Xuân miên viễn hôm nay, tôi dẫn thêm Thiền sư Thiên Tùng.
Ngày đầu năm Ngài làm thơ tặng chúng lấy tên là: Tuế Triêu (là ngày đầu
năm).
Kim tiêu tận đạo thiêm nhất tuế
Ngô đạo như kim giảm nhất niên
Tăng giảm khứ lai vô định số
Duy năng tiêu tận thế gian duyên
Tất tu thức đắc duyên trung chủ
Bách thiên vạn kiếp thường như nhiên
Vô tăng vô giảm như hà đạo
Nhất cú hà tu dụng khẩu truyền
Tạm dịch:
Sáng nay đều bảo thêm một tuổi
Tôi nói hôm nay bớt một năm
Thêm bớt lại qua số khôn tính
Chỉ hay dứt sạch duyên thế gian
Cốt là biết được trong duyên chủ
Trăm ngàn ức kiếp thường an nhiên
Không bớt không thêm làm sao nói
Một câu nào thiết dùng miệng truyền
Giải thích của ngài Thiên Tùng quá rõ ràng. Đến ngày mùng một chúng ta đều
ùa nhau nói: Chúc thầy cô thêm một tuổi thọ, chớ có ai chúc thầy cô mất
một tuổi thọ. Phải vậy không? Quả tang là mình mất một năm rồi. Nếu sống
sáu mươi tuổi, năm rồi năm mươi ba tuổi năm nay năm mươi bốn tuổi, thì năm
nay chúng ta đã bớt đi một tuổi để sống rồi. Sống sáu mươi tuổi, nếu năm
mươi ba tuổi thì chúng ta còn được bảy năm. Năm nay năm mươi bốn tuổi, rút
lại còn sáu năm thôi. Rút một năm là bớt tại sao lại nói thêm. Thành thử
thế gian tưởng theo chiều thêm mà quên nghĩa bớt. Vì vậy mà Ngài nói: Sáng
nay đều bảo thêm một tuổi, với Ngài thì Ngài nói: Hôm nay bớt một năm. Quả
tang năm nay bớt một năm sống rồi. Rõ ràng như vậy. Nhưng có ai gan dạ
thấy như vậy đâu. “Tăng giảm khứ lai vô định số” là thêm bớt qua lại cái
số không nhất định. Nói thêm cũng được, nói bớt cũng được. Nói về cái
chiều sáu mươi để trừ lại thì thấy mình đã bớt. Nếu thấy chiều năm mươi
mấy cộng lại thì thêm một năm. Như vậy vì có cộng có trừ nên có thêm có
bớt. Thật ra không biết nói thế nào cho đúng. Vì vậy Ngài nói con số không
nhất định. Chỉ có điều này là quan trọng. “Duy năng tiêu tận thế gian
duyên” tức là chỉ người tiêu sạch cái duyên thế gian tức tiêu chảy ba
tháng, tiêu chảy sạch hết, bụng trống rỗng tức là tiêu sạch, duyên thế
gian, nhưng chưa đủ còn phải thêm: “Tất tu thức đắc duyên trung chủ” tức
là cần phải biết được ông chủ trong các duyên đó. Biết ông chủ mới là cái
tối thiết yếu. Trước hết là phải tiêu sạch hết cái duyên thế gian, rồi kế
đó biết được ông chủ, cắt hết các duyên đó. “Bách thiên vạn kiếp thường
như nhiên” tức biết được ông chủ rồi thì trăm ngàn muôn kiếp đều như vậy.
Chính đó là mùa Xuân bất diệt. Tất cả quá khứ hiện tại vị lai đều không
biến chuyển. “Vô tăng vô giảm như hà đạo”. Ông chủ đó trăm ngàn muôn kiếp
vẫn như nhiên. Ông không có thêm cũng không có giảm. Không thêm không bớt,
bảo tôi nói gì mới được đây? Thế gian có thêm có bớt còn nói được. Còn cái
chỗ không thêm không bớt nói cái gì? “Nhất cú hà tu dụng khẩu truyền”
thành ra cái câu duy nhất đó đâu cần dùng miệng nói với nhau. Chỉ mọi
người nhận được sống được, thấy được thì người đó hưởng một mùa Xuân bất
diệt. Chớ còn nói, nói nó không hết, vì vậy tôi không biết chúc tụng quí
vị cái gì vào đầu năm này. Vì cái đó không dùng miệng mà nói với nhau
được. Chỉ mỗi người nhận và thấy được cái đó thì quí vị hưởng một mùa Xuân
như vậy.
Tôi tạm chúc quí vị một mùa Xuân Di-lặc tùy theo cạn sâu của mỗi người.
Ráng hưởng cho được đừng để ba tháng Xuân mất rồi tới Thu tới Đông, lại
trông Xuân đến nữa, cực lắm. Phải luôn luôn hưởng cái Xuân Di-lặc. Lúc nào
cũng là Xuân hết. Gặp nhau chúng ta cười hoài. Dù sống trong cảnh nào cũng
cười hoài như vậy là hạnh phúc ngay ở trần gian.
]
|